Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.13 KB, 13 trang )

Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động

Nhà văn Lê Tràng Kiều tên thật là Lê Tài Phúng, sinh năm 1912 tại quê hương
Nam Định và thời ấu thơ sống ở đó, theo học trường Thành Chung. Năm mười sáu
tuổi, Lê Tràng Kiều cùng gia đình chuyển cư lên Hà Nội, ngụ tại làng Mọc Quan
Nhân, một trong bảy làng Mọc của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Nhân Chính,
quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đất kẻ Mọc cũng là quê của nhà văn Nguyễn Tuân, và là
quê ngoại của nhà văn Vũ Trọng Phụng.Vậy nên, từ tuổi mới lớn, Lê Tràng Kiều đã
kết bạn với Nguyễn Tuân và Vũ trọng Phụng. Họ cùng trang lứa, cùng trở thành
những nhà văn tiêu biểu của Việt Nam những năm ba mươi, thế kỷ XX.
Khi mới lên sống ở Hà Nội, Lê Tràng Kiều học ở trường Thăng Long, và sớm tỏ rõ
là một tài năng văn chương, báo chí. Mười tám, mười chín tuổi, Lê Tràng Kiều đã
viết các bài báo về văn học, đăng trên tờ Tạp chí văn học. Ông sớm bộc lộ một
năng lực sắc sảo trong nghiên cứu, phê bình văn học, làm báo, có khả năng hoà
nhập rất nhanh vào đời sống văn chương và sớm tạo được nhiều ảnh hưởng đến các
nhà văn. Giao du rất nhiều với các nhà văn đương thời, Lê Tràng Kiều quan hệ thân
thiết với một số nhà văn cùng chí hướng như Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư, Vũ
Trọng Can, Nguyễn Tuân, Bùi Huy Phồn, Hoài Thanh, Lan Khai, Thâm Tâm,
Quỳnh Dao cùng một số tác giả sân khấu là Vi Huyền Đắc, Bùi Nguyên Cát, Chu
Ngọc… Từ năm 1935, 1936, Lê Tràng Kiều có những đóng góp đáng kể cho văn
học nước ta. Nhất là thời gian ông làm chủ bút Hà Nội báo, cùng các bạn thân thiết,


đã làm cho phần văn học của báo tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ trong đời sống xã
hội. Những tiểu thuyết như Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng; những vở kịch
thơ Anh Nga, Tần Ngọc của Phạm Huy Thông… đã được giới thiệu, đăng tải nhiều
kỳ trên Hà Nội báo, và được độc giả vô cùng tán thưởng. Một nhà thơ trẻ chưa đầy
mười lăm tuổi, là Nguyễn Xuân Sanh, cũng được Lê Tràng Kiều trân trọng giới
thiệu trên Hà Nội báo tác phẩm đầu tay Trường ca lạc loài, đăng liền trên 13 kỳ
báo. Vinh hạnh lớn này suốt đời khích lệ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Tình bạn văn
chương của Lê Tràng Kiều với Vũ Trọng Phụng là mối tình tri kỷ lớn. Đương lúc


Vũ Trọng Phụng được độc giả rất hâm mộ bởi một loạt phóng sự đặc sắc như Cạm
bẫy Ngưịi, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cơ…, Lê Tràng Kiều có viết trên Văn
học tạp chí số 4 ngày 8-6-1935, về ba nhà văn họ Vũ (Tam Lang Vũ Đình Chí, Tiêu
Liêu Vũ Bằng và Thiên Hư Vũ Trọng Phụng). Ông biểu dương tài năng Vũ Trọng
Phụng, đồng thời, đã tâm huyết trao đổi với Vũ Trọng Phụng: “Ông Phụng cứ viết
cho tôi nữa đi những truyện ngắn, hay những truyện dài về xã hội, tôi dám chắc sự
nghiệp văn chương ông sẽ rực rỡ vô cùng…”. Thành tâm lắng nghe lời tâm huyết
của ông bạn tri kỷ, Vũ Trọng Phụng lập tức đổ tâm dồn sức vào truyện dài về xã
hội, và trong năm 1936, ông sáng tạo được ba tiểu thuyết xuất sắc, làm vinh dự cho
văn chương nước Việt ta, là Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên, nhà
văn đặt tên là Thị Mịch, và Lê Tràng Kiều nhận đăng tải ngay trên Hà Nội báo.
Nhưng lập tức nhà kiểm duyệt đã can thiệp, đòi cấm. Lê Tràng Kiều và Vũ Trọng
Phụng, sau một thời gian ngắn, đã quyết định đổi tên tiểu thuyết thành Giông tố, và
đã đăng tải hết trên Hà Nội báo mà giới chức kiểm duyệt khơng kịp hiểu đó cũng


chỉ là chuyện về Thị Mịch, Nghị Hách… Về sau, khi nhà xuất bản Văn Thanh ấn
hành Giông tố, Vũ Trọng Phụng có in lời đề tặng Lê Tràng Kiều trên đầu sách rất
trân trọng(1).
Đầu năm 1936, khi cuộc tranh luận về thơ mới, thơ cũ trở nên sôi động, Lê Tràng
Kiều có bài viết khá quan trọng, Thơ mới, in trên Hà Nội báo số 14. Bài viết khẳng
định giá trị của phong trào Thơ mới và chúc mừng chiến thắng tồn vẹn của nó.
Ơng viết: “Ba năm qua… Với thi ca, văn học ta đã bước một bước dài. Một sự may
mắn khơng ngờ! Chỉ trong vịng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện không biết
bao nhiêu tác phẩm có giá trị mà trong cái dĩ vãng rất phẳng lặng mấy ngàn năm chỉ
lơ thơ một vài cái…”. Và, ngay thời điểm đầu năm 1936 đó, Lê Tràng Kiều đã có
tầm nhìn thật sâu rộng và khả năng tư duy rất chín chắn về thơ ca dân tộc, khơng sa
và sự thái q có mới nới cũ: “Từ bây giờ, lịch sử chỉ còn ghi lại những áng thơ hay
mà thôi, chứ không chia ra mới, cũ nữa!...”. Ngay sau dó, nhiều bài viết bảo vệ thơ
cũ đã đả kích lại Hà Nội báo và bài Thơ mới của Lê Tràng Kiều. Trong đó, đáng kể

nhất là bài viết bừng bừng nộ khí của ơng Thái Phỉ, in trên báo Tin văn, nhằm đả
kích Lê Tràng Kiều; và tờ Văn học tuần san ở Sài Gòn cũng đồng quan điểm với
Tin văn, cơng kích Lê Tràng Kiều và Thơ mới. Cuộc bút chiến trở nên quyết liệt
hơn. Lê Tràng Kiều lại công bố trên Hà Nội báo số 18 một bài Thơ mới nữa, với sự
khẳng định: “Những bài thơ như Tiếng thu, Bao la sầu, Một chiều thu không phải là
di sản của một gia đình nào, của một phe phái nào, của một thời gian nào, nó đáng
cho mọi người trong nước ngân nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta
thấy rằng dân tộc ta khơng phải là khơng có người hiểu cái hay, cái đẹp ở đời…”.


Thế rồi, quy mô hơn, sâu sắc hơn, Lê Tràng Kiều cho đăng một loạt bài tiếp theo
trên Hà Nội báo, lần lượt khẳng định giá trị Thơ mới và những tài năng của phong
trào Thơ mới; khẳng định tính sâu sắc, tính đa dạng, tính phổ quát, tính cội nguồn,
tính cách tân đều có trong các nhà thơ mới; và khẳng định Thơ mới đã làm trẻ lại,
làm sung sức tâm hồn dân tộc. Bài viết về thơ Thái Can đăng Hà Nội báo số 20 đã
chứng minh rằng, thơ Thái Can mới mà rất gần với thơ cổ điển phương Đơng. Ơng
viết: “Nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần với Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh
Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết, thì là Thái Can”. Đến bài về thơ Nguyễn
Nhược Pháp trên Hà Nội báo số 21, Lê Tràng Kiều nêu bật phẩm chất thơ mới
Nguyễn Nhược Pháp là sự bình dị, trong sáng, hồn nhiên. Ông đánh giá rằng, nhà
thơ mới này đã dựng lại một thế giới: ngày xưa. Ông thật sâu sắc khi nhận xét rằng,
văn thơ nước ta đã già đi với đạo Khổng, nhưng với thơ mới ngày nay, nó đã bắt
đầu trẻ lại. Trên Hà Nội báo số 22, Lê Tràng Kiều viết về thơ mới có ngay trong thơ
Đơng Hồ, khen Đơng Hồ thốt xác từ một thi sĩ cũ trở thành một nhà thơ có khuynh
hướng mới: “Đông Hồ ngày trước là một ông cụ non lụ khụ…Nay thì Đơng Hồ, với
cái tuổi sắp đứng, cịn biết yêu như yêu lần đầu tiên, nồng nàn, tha thiết”. Sang bài
viết về thơ mới Nguyễn Vỹ, đăng Hà Nội báo số 23, Lê Tràng Kiều nhận định nhà
thơ này quá mới, và cho rằng, thơ mới ngoài hàm chứa cái hay cổ điển cịn phải vơ
cùng mới về hình thức biểu hiện. Ơng nhấn mạnh thành cơng của Nguyễn Vỹ qua
bài Sương rơi, rằng: “Đó là nhạc điệu thiên nhiên của những vật hữu hình và vơ

hình trong vũ trụ lúc đêm khuya, những vật ấy nối tiếp nhau mà tan vỡ thành giọt…
Từng giọt/ Thánh thót/ Từng giọt/ Điêu tàn…”. Và ơng nhận xét về sự đóng góp của


Nguyễn Vỹ cho thơ ca Việt Nam: “Làm được một bài như Sương rơi cũng là nhiều
lắm rồi”. Bài viết về thơ Thế Lữ, Hà Nội báo số 24, Lê Tràng Kiều chứng minh thơ
mới Thế Lữ phần nào đã đạt tới cái hay cổ điển. Ông thật tinh tế khi nhận xét rằng,
Thế Lữ có “tâm hồn của một người tiên chưa hề có một quá khứ đau khổ ở trần
gian”. Bài viết về thơ Vũ Đình Liên trên Hà Nội báo số 26, Lê Tràng Kiều nhận
định, thơ mới Vũ Đình Liên đã làm sống lại dĩ vãng, sống lại những gì vơ cùng thân
u trong q khứ. Ông còn lưu tâm đến một phẩm chất khá đặc biệt của thơ Vũ
Đình Liên, khi nêu dư luận rằng, có người đã đánh giá: “Vũ Đình Liên là một nhà
thơ lao động, vì hơn nửa số tác phẩm của ông dành cho anh em lao khổ”. Tới Hà
Nội báo số 30 Lê Tràng Kiều viết về Lưu Trọng Lư, “người đầu tiên gieo hạt thơ
mới vào đất Bắc”. Ông so sánh Lưu Trọng Lư với Thế Lữ và Phạm Huy Thơng, chỉ
vài dịng mà thật đắc cách: “Thế Lữ và Huy Thơng thường ngẩng đầu lên nhìn trời,
nhìn núi sông to rộng mà ca những bài ca hùng tráng… Lưu Trọng Lư thì cúi đầu
xuống bước từng bước sợ sệt ngại ngùng như bao giờ cũng lo đạp phải những cái
linh thiêng của trời đất rải xuống”. Ông khẳng định, phẩm chất tiêu biểu của thơ
Lưu Trọng Lư là rất giàu nhạc điệu, và cũng là khẳng định phẩm chất đó trong Thơ
mới Việt Nam. Nay nhìn nhận lại hiện tượng Thơ mới, chúng tôi thấy, giai đoạn từ
năm 1934 đến 1936, trên văn đàn diễn ra cuộc tranh luận có lúc rất quyết liệt giữa
những nhà văn khơng tán thành thơ mới với những nhà văn cổ võ, khích lệ cho thơ
mới phát triển. Là bạn văn của Lê Tràng Kiều, Hồi Thanh cũng chỉ viết có một bài
Thơ mới, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy ngày 29-12-1934. Và trong bài viết này, có
đoạn viết: “Vậy bây giờ Thơ mới có quy tắc gì chưa? Hiển nhiên là chưa có. Khơng


theo phép tắc khn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ Thơ mới hiện nay chỉ
có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy mà thôi…”. Nhìn lại việc này, chúng

tơi khơng có mục đích gì ngoài việc muốn lưu ý với bạn đọc về tầm nhìn sâu rộng,
tư duy lý luận sắc bén và phẩm chất tiên phong của nhà lý luận phê bình văn học Lê
Tràng Kiều. Với một loạt hơn mười bài viết, ông đã trình bày được tất cả sự đa
dạng, phong phú muôn màu muôn vẻ của các nhà thơ mới, có sức thuyết phục rất
lớn trong đời sống văn chương nước ta những năm đó. Mãi đến năm 1942, các tác
giả Thi nhân Việt Nam mới có đánh giá sự thắng lợi trọn vẹn của Thơ mới. Nhưng,
ngay từ năm 1936, với loạt bài viết của mình, Lê Tràng Kiều đã thực sự khiến độc
giả thấy được sự ưu việt tuyệt đối của thơ mới! Có thể nói phong trào Thơ mới là
một thành công rực rỡ của văn chương dân tộc, và trong cuộc phấn đấu để khẳng
định nó, khích lệ nó phát triển mạnh mẽ, có một vị trí rất vinh dự giành cho nhà văn
Lê Tràng Kiều!
*
Những năm giữa và cuối thập kỷ ba mươi của thế kỷ XX, nhà văn Lê Tràng Kiều có
những cống hiến thực sự cho văn học, đồng thời, ông cũng gặp những khó khăn rất
đáng kể. Thời gian này, trong đời sống văn chương, báo chí, một số người đã nêu
vấn đề về Truyện Kiều của Nguyễn Du, coi đó là sách dâm ơ có thể làm bại hoại đến
những thuần phong mỹ tục của bình dân. Lê Tràng Kiều đã phải viết bài Nghệ thuật
để bênh vực Truyện Kiều, đăng trên Hà Nội báo số 2 năm 1936. Ông khẳng định
Truyện Kiều là tác phẩm có thể an ủi người bình dân “sau những giờ cần lao hay là
trong những giờ cần lao, họ ngâm lên những câu như Lơ thơ tơ liễu buông mành/


con oanh học hót trên cành mỉa mai, để họ hả hê lòng, để cho quên mệt nhọc…”.
Tháng 5 năm 1936, tác phẩm Văn chương và hành động mà Lê Tràng Kiều đồng tác
giả với Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư đã bị nhà đương cục thu tất cả đưa về nước
Pháp và ra lệnh cấm lưu hành. Lê Tràng Kiều bị chính quyền đương thời coi là kẻ
đứng đầu nhóm Văn chương và hành động, nên ơng bị gọi ra tồ. Chúng tơi, khi đi
tìm hiểu về cuộc đời nhà văn Lê Tràng Kiều, có được gặp và nghe những người bạn
của ông, như nhà viết kịch Bùi Nguyên Cát, người cùng ông lập ra Ban kịch Hà
Nội; nhà văn Phạm Văn Kỳ, thư ký toà soạn báo TTTN; nhà văn Ngọc Giao, thư ký

toà soạn báo Tiểu thuyết thứ bảy kể cho biết việc đó. Nhà viết kịch Bùi Ngun Cát
cịn nói: “Anh Kiều bị chính quyền thực dân coi là cầm đầu nhóm Văn chương và
hành động, cịn ta thì coi là chủ sối Nghệ thuật vị nghệ thuật, thực khổ!”. Cho đến
năm 1999, nhà xuất bản Hội Nhà văn in lại cuốn Văn chương và hành động, thì Lời
bạt cho cuốn sách lại viết rằng, Hồi Thanh là tác giả chủ yếu. Một lần đến thăm
nhà viết kịch Bùi Ngun Cát, tơi nói việc đó, ơng đã nói: “Sao họ cứ làm khổ anh
Lê Tràng Kiều mãi thế!”. Câu chuyện với ông Bùi Nguyên Cát hôm đó chúng tơi
mới hiểu ra, tên các tác giả Hồi Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư trên bìa sách
là xếp theo vần A, B, C, khơng có ý nghĩa gì khác. Trở lại với Lê Tràng Kiều năm
1936. Đúng là hoạ vơ đơn chí, chưa qua khỏi tai ương về Văn chương và hành
động, thì đến Hà Nội báo cũng bị đình bản. Dù vậy, ơng và các bạn văn cùng chí
hướng vẫn kiên định và tâm huyết với văn chương. Lê Tràng Kiều gây dựng một tờ
báo mới, là tuần báo Tiểu thuyết Thứ năm (TTTN). Ngay từ những số đầu, TTTN đã
đăng các tác phẩm của Đồ Phồn, Nguyễn Đình Lạp, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Can,


Phạm Huy Thông… Rồi bắt đầu đăng tiểu thuyết Quý phái của Vũ Trọng Phụng.
Báo đăng những tác phẩm như truyện ngắn Nghỉ mát Chapa của Bùi Huy Phồn, mô
tả sự thối nát của quan chức đương thời; như phóng sự Gặp một ông nghị lôi thôi
của Vũ Trọng Phụng, nói về những tệ hại của các nghị viên… Do vậy, mới ra được
13 số thì TTTN lại bị đình bản! Lê Tràng Kiều và các bạn văn lại lao đao, vất vả.
Mãi đến tháng 10 năm 1938, tờ TTTN mới được xuất bản trở lại. Để có thể ra báo,
Lê Tràng Kiều phải chấp nhận với chủ báo Lê Cường là, lương cho anh em trong
toà soạn và nhuận bút cho tác giả thì tồ báo phải lo lấy, cịn tiền bán báo thì chủ
báo thu. Vừa làm chủ bút, vừa lo chạy quảng cáo để có tiền ni anh em trong toà
báo, Lê Tràng Kiều vẫn viết nhiều. Cả đời viết, ơng cịn ký nhiều bút danh khác
nữa, như Lê Tùng, Phan Hữu, Trường Thiên… Riêng bút danh Lê Tràng Kiều và
Nàng Lê ông dùng nhiều nhất trong thời kỳ làm báo TTTN. Qua những số báo
TTTN mà chúng tơi có trong tay, ơng viết tới hơn hai mươi bài phê bình, tiểu luận
văn học, tản văn, ngồi ra cịn có các bài bình luận xã hội và cả tản văn dưới hình

thức ký sự điều tra. Đó là chưa kể một số truyện ngắn của Tình Thiên mà chúng tơi
ngờ rằng đó là một bút danh khác của ơng.
Có thể thấy rõ, giai đoạn từ 1936 đến 1939, Lê Tràng Kiều viết được khá nhiều.
Năm 1936, nhà xuất bản Phương Đông đã giới thiệu sách sắp in, có thiên tiểu thuyết
Ngồi vườn trăng giãi do Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư là đồng tác giả. Rất tiếc,
đến nay chúng tơi khơng có trong tay ấn bản hoặc bản thảo tiểu thuyết này. Ông
sống rất tận tâm với văn nghệ nước nhà. Cũng thời kỳ này, ông đã cùng với Chu
Ngọc, Vũ Trọng Can, Bùi Nguyên Cát lập ra Ban kịch Hà Nội, được khán giả


đương thời rất yêu chuộng. Với một tài năng và tâm huyết như vậy thì khơng khó
khăn nào có thể khiến ông ngừng hoạt động, ngừng cống hiến cho xã hội. Và ngay
sau khi báo TTTN ngừng bản cuối năm 1939, Lê Tràng Kiều vào Nam. Và rồi ông
lại chủ trương một tờ báo khác tại Sài Gòn, là báo Lá lúa. Những năm này đất nước
trải qua nhiều đau thương, biến động khơn lường, nghề văn chương báo chí thực vơ
cùng khó khăn. Rồi Cách mạng tháng Tám. Rồi toàn quốc kháng chiến chống xâm
lược Pháp. Ngay thời điểm cuối năm 1946, Lê Tràng Kiều lại tập hợp được một
nhóm bạn cùng chí hướng gồm Thiết Can, Lý Hải Châu, Thê Húc Phạm Văn Hạnh,
Mai Văn Bộ, Vũ Tùng… Ông cùng các bạn xuất bản tờ báo Dân quyền với khẩu
hiệu in ngay bên tên báo: Một dân tộc- Việt Nam; một lực lượng- đoàn kết; một
phương pháp- tranh đấu; một tinh thần- dân chủ; một mục đích- độc lập. Báo Dân
quyền theo đường hướng chống đế quốc, thực dân và chính thể bù nhìn, nên lại bị
cấm. Nhưng, nhóm các ơng lại ra tờ báo khác. Lại bị cấm. Rồi lại có tờ báo mới
thay thế. Thực chất, toà soạn các báo Ngày nay, Việt báo, rồi Lẽ sống, và rồi Phụ
nữ… đều do nhóm Lê Tràng Kiều làm. Vậy là, từ khi vào Nam, Lê Tràng Kiều hoạt
động chuyên sâu hơn trong lĩnh vực báo chí chính trị xã hội. Cả đời ông đã viết thật
nhiều, nhưng có lẽ chỉ mới có một tác phẩm xuất bản thành sách, là cuốn Văn
chương và hành động mà ông đồng tác giả với Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư. Trong
tác phẩm này, ngay dưới tên sách, tác giả ghi: “Thay lời tuyên ngôn của văn phái
Phương Đông”. Nội dung chính của sách gồm những tiểu luận văn chương, mang

tính mỹ học cao. Sau Lời nói đầu là tiểu luận ý nghĩa đời người. Trong tiểu luận
này, nhà văn có luận về tín ngưỡng, rằng: “Phải tin ở cuộc sống, phải hăng hái sống,


phải làm thế nào cho đời ta và đời của mọi người chung quanh ta ngày một đầy đủ
thêm, dồi dào thêm- đó là một tín ngưỡng căn bản…”. Thế rồi, hầu như cuộc đời Lê
Tràng Kiều đã được dẫn dắt bởi lý tưởng tin ở cuộc sống và hết mình vì cuộc sống
đó. Ơng đã hành động, ln ln hành động, viết văn, làm báo và viết báo, viết rất
nhiều những bài vun đắp cho tinh thần chiến đấu của nhân dân vì độc lập, hạnh
phúc, tự do và thống nhất… Suốt thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước, bà con
Nam bộ đã thân mật gọi Lê Tràng Kiều và các bạn ơng là Nhóm ký giả kháng
chiến…
*
Sau năm 1975, đất nước hịa bình thống nhất. Trong một buổi làm việc của đại diện
Văn nghệ ngoài Bắc với đại diện Văn nghệ Giải phóng, tại trụ sở Hội Văn nghệ Giải
phóng, Lê Tràng Kiều gặp lại Nguyễn Xuân Sanh mới từ Hà Nội vào. Hai ông ôm
riết lấy nhau hồi lâu. Sau gần bốn mươi năm xa cách, trong câu chuyện hàn huyên,
Lê Tràng Kiều chỉ muốn nghe Nguyễn Xuân Sanh kể về những tiến triển của văn
chương ngồi Bắc. Ơng nhớ q hương trong nỗi nhớ văn chương thật sâu thẳm,
thật diết da. Đó là những giờ phút bừng dậy trong Lê Tràng Kiều một sức sống văn
chương to lớn tiềm ẩn nơi đáy lòng mấy chục năm trường… Khi đi tìm hiểu về đời
sống nhà văn Lê Tràng Kiều, chúng tôi gặp gỡ được một số bạn văn từng cùng ông
làm báo, cùng ông hoạt động trong Ban kịch Hà Nội, từng chia sẻ buồn vui cùng
ông; và, gặp cả nhà thơ lão thành Nguyễn Xuân Sanh, để hỏi chuyện. Vậy nên
chúng tôi mới biết được một số chuyện về cuộc sống của ông, một số công việc ông
đã làm, như chúng tôi viết ở trên. Chúng tôi cũng được biết, nhà văn Lê Tràng Kiều


đã qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, do bệnh nặng. Từ ngày ông qua
đời đến nay, ngót một phần ba thế kỷ đã trơi qua. Trong bộ sách đồ sộ Tổng tập văn

học Việt Nam dày hàng mét, phần ghi về Lê Tràng Kiều chỉ có dăm dòng mà lại
chưa rõ năm sinh, năm mất, cũng không viết về quê quán!... Cuối thế kỷ XX, sự
nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã trở nên sâu rộng trong đời sống.
Các bạn Pháp đã tặng lại ta bản in tác phẩm Văn chương và hành động; và nhiều số
báo Tiểu thuyết Thứ năm mà Lê Tràng Kiều cùng các bạn văn làm những năm ba
mươi, thế kỷ XX cũng từ Pháp trở về. Đó là niềm vui cho đời sống văn chương Việt
Nam. Nhưng không ngờ, Lê Tràng Kiều lại được một vài nhà nghiên cứu lý luận
văn học hơm nay nhìn nhận và ứng xử rất khác nhau. Như nhà văn Nguyễn Ngọc
Thiện, trong Lời bạt cuốn Văn chương và hành động, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn
hành năm 1999, không biết đã dựa vào chứng cớ nào mà viết: “Nhưng công lao biên
soạn nội dung là thuộc về Hồi Thanh. Ơng chủ biên và chấp bút hầu như toàn bộ
cuốn sách… Hồi Thanh là đại diện có thẩm quyền cao nhất đối với bản quyền bài
vở trong sách”(!) Tác phẩm Văn chương và hành động gồm hai phần. Phần phụ lục
có 2 bài dịch gồm Lời tựa tập Lá thu của V. Hugo; và, bài diễn văn của A. Gide đọc
ngày 22 Juin 1935 tại Hội nghị quốc tế các nhà văn, phụ thêm lời bình luận của
Hồi Thanh. Cịn phần nội dung chính gồm 11 bài, từ bài 1 là Lời nói đầu, đến bài
11 là Kết luận. Cuối bài Kết luận, cả ba tác giả cùng đứng tên. Nhà văn Nguyễn
Ngọc Thiện đã cố gắng lấy cớ có 4 bài trong 11 bài đã in lại trên tạp chí Tao đàn
năm 1939 chỉ ký một mình tên Hồi Thanh, để coi Hoài Thanh là tác giả chủ yếu
của Văn chương và hành động. Việc coi tác giả của 4 bài trên 11 bài là đã “có thẩm


quyền cao nhất đối với bản quyền bài vở trong sách” chứng tỏ nhà văn Nguyễn
Ngọc Thiện đã không biết phép tính trừ đơn giản, mà anh cịn làm một việc rất tổn
thương đến tình bạn đã có từ hơn bảy mươi năm trước của Lê Tràng Kiều với Hoài
Thanh mà đến nay nhiều ngưịi cịn biết! Nếu có người lại tính rằng, Lưu Trọng Lư
đảm nhận phần dịch thuật trong phần phụ lục của Văn chương và hành động, vậy
còn lại 6 bài tiểu luận sẽ là do Lê Tràng Kiều viết, thì nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện
sẽ nghĩ sao? Tuy nhiên, chúng tơi nghĩ, tính tốn thế cũng lại làm tổn thương đến
người xưa, như Nguyễn Ngọc Thiện đã làm! Lại có nhà nghiên cứu văn học đã kiểm

định văn bản có phần q rạch rịi dẫn đến nhận định rằng, Hoài Thanh “đạo” văn
của Lê Tràng Kiều (Bài Bản quyền thuộc về ai? của Lại Nguyên Ân, đăng trên Văn
Nghệ Trẻ số 39 năm 2004). Những ý mà nhà văn Lại Nguyên Ân nêu ra sau khi
khảo chứng văn bản học, theo chúng tôi, ta nên coi đó là việc thừa kế chí lự, ý tưởng
và xúc cảm thẩm mỹ của bạn bè. Những chuyện mà chúng tơi được nghe những
người gắn bó nhiều với Lê Tràng Kiều ngày xưa, kể cho biết, thì ơng là người có thể
bán nhà đi để ni bạn, dù ơng khơng giàu có gì. Khơng khéo, những ứng xử của
chúng ta hơm nay lại làm người đọc thấy đau lịng, khi nghĩ tới người xưa.Việc
chúng ta làm, nếu có liên quan đến Lê Tràng Kiều, thì cũng là làm cho chúng ta
thơi. Cịn Lê Tràng Kiều, ơng đâu có cảm thấy gì về những ứng xử nơi đời sống trần
thế nữa! Có chăng, chỉ bạn đọc yêu văn học dân tộc mới là những người bị tổn thất,
nếu không được biết về văn tài và cuộc đời nhà văn Lê Tràng Kiều…
Viết những dòng về nhà văn Lê Tràng Kiều, chúng tôi nghĩ về cuộc sống hôm nay.
Cuộc sống tươi mới, mạnh mẽ đang chảy cuồn cuộn ngoài kia, trên đất nước vẹn


toàn. Chúng ta đã hoà nhập với thế giới, vươn tới công bằng, vươn tới văn minh,
vươn mãi tới những vẻ đẹp nhân bản! Chúng tôi lại nhớ đến tác phẩm Văn chương
và hành động, thiên tiểu luận ý nghĩa đời người, Lê Tràng Kiều có luận cả về văn
minh: “Văn minh chẳng qua là những sức sống của con người xung đột với cái tàn
ác của vũ trụ, là sự nỗ lực vĩ đại của lồi người để thốt mình khỏi cái chết, cái hư
vơ…”. Và, chúng tơi bỗng muốn nói với nhà văn Lê Tràng Kiều, một câu thơi, rằng,
những gì ơng đã làm được suốt cuộc đời rong ruổi ngoài Bắc, trong Nam, một cuộc
đời hành động, đâu có chết được, những ý nghĩa của nó càng khơng thể bị chìm vào
hư vơ!
Hà Nội, mùa hè năm 2009
_____________
(1) Theo Từ điển Văn học, tập 1. Nxb. Khoa học xã hội, 1983, tr.264, thoạt tiên
đăng Hà Nội báo tác phẩm đã mang tên Giông tố, được mười một số thì đổi tên là
Thị Mịch, in thành sách 1937 với tên cũ. Theo giáo sư Trần Hữu Tá, trong sách

Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, thoạt đầu
đăng tải trên Hà Nội báo, tác phẩm đã mang tên Thị Mịch, sau khi bị kiểm duyệt
cấm, Vũ Trọng Phụng mới viết tiểu thuyết dài Giông tố thế vào mà vẫn là chuyện
về Thị Mịch, Nghị Hách… Giông tố khi in thành sách Vũ Trọng Phụng có lời đề
tặng Lê Tràng Kiều trên đầu sách.



×