Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Hóa học trẻ………..………trẻ học Hóa
Tác giả trang báo: Trần Thị Kiều Trinh
Đơn vị : 10A7 Trường THPT chun ĐHV
Cách đây chừng 100 năm,W.Râylây(1842-1919), nhà vật lý,giáo sư triết học tư nhiên người Anh cịn
cho rằng:''… Đó là điều bí ẩn khơng ai có thể hiểu nổi". Điều mà thời đại Rây lây là bí ẩn, thì ngày
nay đã trỏ nên dễ hiểu đối với mọi người. Màu đỏ của máu người và động vật bậc cao là do huyết
sắc tố hêmơglơbin mang lại; cịn màu xanh(lục) của lá cây là màu của diệp lục tô (clổphin). Màu đỏ
của mau và màu xanh của lá là hai màu đặc trưng cho sự sống trên Trái Đất. Điều đặc biệt là 2 chất
tạo nên 2 màu điển hình đócó chứa đựng những cấu trúc giống nhau. Bộ phận cấu trúc cơ bản của
chúng đều là nhân pophirin, nó được tạo thành từ 4 vịng pỷol 5 cạnh có chứa N đã được alkyl hóa.
Bốn vịng đó như kẹp chặt lấy ion kim loại ở trung tâm nhân. Trong hêmoglơbin, ion đó là Fe2+<sub>; cịn</sub>
trong clổphin, ion đó là Mg2+ <sub>( hình dưới đây)</sub>
Bí ẩn màu đỏ của máu là ở ion Fe2+<sub>, còn màu xanh ở lá</sub>
là ion Mg2+<sub>. Nếu thay thế bằng ion kim loại khác thì màu của chất sẽ khác đi. Thí dụ, máu của loại</sub>
hải sâm khơng đỏ mà lại có màu xanh lam, bởi vì ion kim loại trong nhân lại là kim loại vanadi,…
Sự giống nhau về nhân pophirin và sự khác nhau của chúng trong hoạt động trao đổi chất của cơ thê
sống.
Về chất diệp lục Đac-uyn nói: " Chất diệp lục có lẽ là chất hữu cơ đáng chú ý nhất trên quả đất."
Quả vậy, nhờ có chất diệp lục mà cây có thể hấp thụ năng lượng ánh sáng mặt trời để tiến hành phản
ứng quang hơp, tạo ra chất hữu cơ cho thực vật và oxi cho bầu khí quyển Trái Đất. Ion Mg2+<sub> trong</sub>
phân tử diệp lục có tác dụng lam thay đổi mức electron trong phân tử clorophin sao cho nó có thể sử
dụng được năng lượng ánh sáng vào phản ứng quang hợp.
Nhìn vào sơ đồ khái qt vịng pophirin nêu trên , các bạn cần hiểu thêm
rằng : Bốn vòng pyrol N H liên kết với nhau qua nhón -CH tạo
ra vòng pophỉin của phân tử diệp lục, nghĩa là vành ngồi của vịng này là mạch cacbon liên hợp
gồm nhiều nối đôi, đơn xen kẽ, rất linh động vành trong của nó là các nguyen tử n đóng vai trị nhóm
cho electron; ở giữa vịng là ion Mg2+<sub>(với hêmoglobin, là ion Fe</sub>2+<sub> )có vai trị điều phối electron. Bởi</sub>
vậy khi được chiếu sáng , mạch cacbon như đường dẫn truyền electron, tạo nên trạng thái kích thích
của phân tử, rất nhạy với sự chiếu sáng.
Phân tử diẹp lục hấp thụ mạnh tia đỏ và tia xanh tím, phản xạ mạnh tia lục , khiến lá cây có màu
xanh lục. Diệp lục là chất giống như mỡ có chứa đạm N và Mg. Cây trồng trên đất thiếu N và Mg, lá
có màu xanh nhợt nhạt hoặc màu vàng. Nhờ phản ứng quang hợp , mỗi năm cây xanh tạo ra khoảng
sáu trăm tỉ tấn chất hữu cơ cho Trái đất.
Trong cơ thể con người, phân tử hemoglobin chủ yếu thực hiện chức năng chuyên chở Oxi. Đây là
phản ứng thuận nghịch: Kết hợp với O ở nơi có O dư( trong phổi) và giải phóng O ở các mơ là nơi
cần có O. Q trình đó kem theo sự đổi sắc của máu. Hemoglobin chứa oxi làm cho máu ở động
mạch có màu đỏ tươi ; cịn khi thiếu oxi như ở trong tĩnh mạch thì máu có màu đỏ sẫm.
Thành phần cấu trúc cơ bản cua hêmôglôbin và chất diệp lục ngoài sự khác nhau về ion kim loại
trung tâm cịn có sự khác nhaunữa : hem có thêm chất protein globin, cịn diệp lục thì có chứa rựou
chưa no phitol. Chính những sự khác nhau đó khiến phân tử hemoglobin phản xạ mạnh tia đỏ tạo
nên màu đỏ của máu người và động vật cấp cao.
Qua sự thể hiện màu của hemoglobin và clorophin là những chất hữu cơ tiêu biểu, một lần nữa cho
chúng ta thấy rõ ý nghĩa của hệ thống electron của toàn phân tử chất, nghĩa là của toàn mạch Hidro
cacbon, là cơ sơ quyết định màu sác của chất . Trong hệ thống dẫn truyên electron của phân tử,
electron ở trạng thái linh động dễ dang chuyển sang trạng thái kích thích do tác dụng của các lượng
tử ánh sáng thuộc vùng nhìn thấy của quang phô Mặt Trời, khiến chát thể hiện màu sắc. Trong khị
đó, cơ sơ quyết địmh màu sắc của các chất vô cơ lại là trạng thái electron của 1 nguyên tử hay ion,
Chúng ta nói tới lá màu xanh-màu của đại ngàn, thì cũng phải nói thêm rằng, có 1 số ít loại cây lá lại
không xanh. Chẳng hạn cây tía tơ cây huyết dụ cây nhạn lai hồng có lá màu đỏ, cây đơn mặt trời với
lá mặt trên xanh mặt dưới đỏ,…Những cây này chẳng kể mùa xuân hay thu , lá vân có màu như vậy.
đó là trong lá và thân có những sắc tố đỏ , sắc tố vàng ,… Tuy nhiên, trong lá và trong thân những
cây đó vẫn có với lượng nhỏ hơn khiến cây vẫn quang hợp được, nhưng màu xanh thì khơng nổi lên.
Nhiều loại cây , cứ đến mùa thu hay mùa đơng thì lá lại chun sang màu vàng hay đỏ. Như cây
phong , có giống thì chuyển sang màu vàng có giống thì chuyển sang màu đỏ; cịn cây bàng đến mùa
đơng lại khốc lên mình chiếc áo đỏ,… Đó là hiện tượng chất diệp lục màu xanh đã bị phân hủy khi
nhiệt độ hạ xuống, các sắc tố màu khác, vốn dĩ vẫn có trong lá,mới có dịp nơi lên làm lá đổi màu.
Hêt câu 1
………..
Tơi nghĩ rằng đây là điều thật bổ ích, vì nó giúp chùng ta có ý thức đúng đắn khi chơi hoa: có khơng
ít lồi hoa rất đẹp , nhưng chỉ để ngắm, tuyệt đối không được cho vào miệng! Một số lồi khác thì
phấn hoa rất có hại nếu ta hít phải nó. Chúng ta hãy tìm hiểu về chất độc hại trong một số loài hoa
khá quen thuộc với nhiều người.
Trúc đào có màu hồng tươi , nở hầu như quanh năm, nhưng cả hoa, lá, vỏ cây đều có chất độc. Chỉ
cần ăn phải một ít vỏ cây tươi đã bị ngộ độc: đau bụng , buồn nơn , loạn nhịp tim, có thể lên cơn co
giật, thậm chí tử vong. Thủ phạm ở đây là chât glucozit cực độc , nguy hiểm cho hoạt động của tim.
Thủy tiên là lồi hoa nở vào mùa đơng, lá lại xanh mướt khiến nhiều người yêu thích . Nhưng hãy
cẩn thận vì tồn thân cây thủy tiên rất độc, đặc biệt phần củ giống như củ hành của nó. Nếu ăn nhầm
phải củ này có thê bị ngộ độc đe dọa tính mạng. . Thành phần gây độc trong củ thủy tiên là chất
ancaloit có tính kiềm, người ta goi đó là kiềm sinh vật. Hàm lượng chất này trong củ thủy tiên lên
tới1%.!…
Tỏi trời (hay còn gọi là lan thoát bào ) cho hoa màu hồng tươi rất đẹp, nhưng tồn thân nó đều chứa
chất độc, đặc biệt nhiều là hoa của nó.Ăn phải lồi hoa này có thể cấm khẩu rơi chết. Thủ phạm ở
đây , cũng như hoa thủy tiên, là ancoloit có tính kiềm. Ngoài ra, các loài cây hoa hkhác như hốt địa
tiếu, lan văn thù cũng thuộc họ tỏi trời , củ to, có bbột nhưng chứa chất độc , khơng thể ăn được.
Nhài tía cũng là một lồi hoa thường gặp. Hạt và thân của nó đều có chất độc. Nếu chẳng may ăn
phải thì sẽ bị trúng độc, cứng hàm, đau đầu , ù tai…
Loa ken là loài cây hoa chứa nhiều độc tố ở hạt và thân, ăn phải thứ này sẽ bị đi ngoài ra máu, tổn
thương thần kinh, hôn mê…
Đỗ quyên màu vàng, cả cây đều độc, hoa và quả là độc nhất. Chất độc trong hoa có thể làm con
người tê liệt thần kinh, mất tri giác,…
Chất độc chủ yếu trong các loài hoa là các ancaloit. Tuy nhiên, khi ở trong trong tay các nhà khoa
học, ancoloit lại là loại chất có tác dụng sinh lí mạnh, được dùng để chữa bệnh về tim mạch, thần
kinh, đương ruột, … cho người và động vật. ancaloit cũng được tách chiết từ nhiều loại cây cỏ làm
thuốc trừ sâu, bệnh cho cây trồng, có hiệu quả tốt mà khơng ảnh hương đến mơt trường.
Vậy vì sao nhiều lồi hoa độc lại chứa chất độc trong chúng???……….
Có ý kiến cho rằng : các ancoloỉttong hoa là phương tiện tự vệ của chúng để chống lại sự xâm nhập
của côn trùng phá hoại , chống lại động vật ăn củ,lá hay hoa của chúng . Có lẽ vì vậy mà hàm lượng
ancoloit tăng lên trong quá trình phát triển của cây, và đạt đến cực đại trong thời kì ra hoa. Các
nghiên cứu về động thái của các ancoloit trong lá của một số cây đã đua người ta đến kết luận như
vậy.
một số viên rubi hiện lên hình ngơi sao do chứa những tinh thể
rutil hình kim rất nhỏ. Viên rubi Rosser Reeves này là một trong
nhữn viên rubi sao đẹp nhất. Hiện nay nó đang được giữ ở HỌC
HỘI SMITHSON, Washington mĩ.
Tinh thể thạch anh (SiO2) thuộc thể tam phương
có độ cứng 7,tỉ trọng 2,65