Câu hỏi: Ba yếu tố của quá trình SX vật chất và vấn đề lao động ở nước ta như thế nào?
Trả lời:
-
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức
của con người.
Lao động của con người khác với bản năng của
lồi vật.
Có ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là: sức lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con
người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động
mới chỉ là khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng
sức lao động trong thực hiện.
Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà
lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo
mục đích của mình. Đối tượng lao động có hai loại.
-
+ Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng
sản, đất, đá, thủy sản... Các đối tượng lao động loại này liên
quan đến các ngành công nghiệp khai thác.
+ Loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác
động của lao động trước đó, ví dụ như thép phơi, sợi dệt,
bơng... Loại này là đối tượng lao động của các ngành công
nghiệp chế biến.
-
-
-
-
Tư liệu lao động: là một vật hay các vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động,
nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ phận trực
tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con
người, tức là cơng cụ lao động, như các máy móc để sản
xuất), và bộ phận trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản
xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường xá, phương tiện
giao thông. Trong tư liệu lao động, cơng cụ lao động giữ vai
trị quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm
* Vấn đề lao động ở nước ta hiện nay.
Nước ta là một nước nơng nghiệp, do đó có trên
50% LĐ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này cho
thấy VN vẫn là một nước kém phát triển và tình trạng thất
nghiệp ở nông thôn vẫn trầm trọng. Mặc dù sự chuyển dịch cơ
cấu có tính tích cực nhưng chưa theo kịp tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đại bộ phận lao động ở VN thiếu trình độ
chun mơn, phương thức SX còn lạc hậu dẫn đến năng suất
lao động thấp.
Theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH tỉ lệ dân số ở
VN trên 15 tuổi chiếm 53,4% nhưng có đến 74,7% lực lượng
LĐ chưa qua đào tạo cũng khơng hồn tồn giỏi nghề, chỉ có
khoảng 25% làm đúng nghề.
Chính vì vậy năng suất LĐ VN kém so với các
nước trong khu vục từ 2-15 lần, chất lượng LĐ thấp sẽ có tác
động xấu đến khả năng cạnh tranh cảu nền kinh tế, trong khi
đó với lực lượng LĐ giản đơn quá lớn sẽ tạo áp lực rất cao
cho vấn đề giải quyết việc làm. Chất lượng lao động thấp là
nguyên nhân chính dẫn đến nhiều vị trí chủ chốt trong doanh
nghiệp phải sử dụng lao động ngoài nước.
Để nâng cao năng suất LĐ thì Chính phủ VN
phải quy hoạch nguồn nhân lực của mình giai đoạn 20102015 và định hướng tới năm 2020, trọng tâm là đào tạo nghề
cho lực lượng LĐ làm việc tại các khu công nghiệp, đầu tư
nâng cao trình độ LĐ ở địa phương, đầu tư nâng cấp hệ thống
trường đào tạo nghề lên ngang tầm khu vực, sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, nâng
cấp cơ sở hạ tầng và có chính sách hợp lý về đào tạo nghề ở
nơng thơn. Nếu làm được việc này thì thị trường LĐ VN sẽ
phát triển đúng hướng, góp phần tạo động lực cho cung cầu
LĐ phục vụ tốt nhất cho sự phát triển của đất nước./.
-
Trước hết, để hiểu sản xuất hàng hoá, ta cần
hiểu thế nào là kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự nhiên là kiểu sản
xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu
của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền
với nền sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân
cơng
lao
động
kém
phát
triển.
Sản xuất hàng hố là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm
làm ra khơng phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản
xuất mà đáp ứng nhu cầu của XH thông qua trao đổi mua bán.
Một số thành phần kinh tế của phương thức
sản xuất cũ (như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân...) để lại, chúng đang có tác dụng đối với sự phát triển
lực lượng sản xuất; một số thành phần kinh tế mới hình thành
trong quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan
hệ sản xuất mới (như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản nhà nước). Các thành phần kinh tế cũ và các thành
phần kinh tế mới tồn tại khách quan, có quan hệ với nhau cấu
thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Thứ nhất là phải có sự phân cơng lao động
XH, tức là có sự chun mơn hố sản xuất, phân chia lao
động XH vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân
chia lao động XH sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên
tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay
một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại
sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán.
Sự phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng
lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm
ngày càng phổ biến. Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng
hố.
* Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối
giữa những người sản xuất về mặt kinh tế, tức là những người
sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định.
Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi
phối. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất quy định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách
biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối
với
tư
liệu
sản
xuất
quy
định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu
một trong hai điều kiện trên sẽ khơng có sản xuất hàng hố.
* Những thuận lợi và khó khăn của sự ra
đời
sản
xuất
hàng
hóa.
Do sản xuất hàng hố dựa trên sự phân cơng
lao động XH, chun mơn hố sản xuất nên nó khai thác được
những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng
cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản
xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân cơng lao
động XH, chun mơn hố sản xuất ngày càng tăng, mối quan
hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu
sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng,
nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn.
- Trong nền sản xuất hàng hố, quy mơ sản
xuất khơng cịn bị giới hạn bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi
cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng,
dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo điều kiện
cho việc ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản xuất,
thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản
xuất
lớn.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và
sản xuất có lãi, người sản xuất phải ln ln năng động, cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
suy đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Thời kỳ
quá độ ở nước ta, do trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, tồn tại
ở nhiều thang bậc khác nhau, lại phân bố không đều giữa các ngành,
vùng... nên tất yếu cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế.
Tác dụng của nền kinh tế nhiều thành phần:
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là
một tất yếu khách quan, mà cịn có vai trị to lớn vì:
-
Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương
thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng
sản xuất. Chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc
đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao
hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm
phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát
triển kinh tế hàng hố, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc
phục tình trạng độc quyền. Điều đó góp phần quan trọng vào
việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế của
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế xã
hội.
-
-
Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các
hình thức kinh tế q độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản
nhà nước. Đó là những "cầu nối", trạm "trung gian" cần thiết
để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu
kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng
được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình, quy mô
sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển thì sản xuất hàng hố lại tạo được động lực sản xuất
Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh
tế và cùng với nó là các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
là một nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
phát triển, làm cho sản xuất phù hợp
với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá
nhân và toàn XH./.
Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế
đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội,
có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các
tiềm năng của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên
thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý để tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Đồng thời cho phép khai thác kinh
nghiệm tổ chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế
giới.
Câu hỏi: Sự cần thiết và tác dụng của nền kinh tế nhiều thành
phần?
Câu hỏi: Quy luật giá trị và vai trò đối với nước ta hiện nay?
Trả lời:
Trả lời:
-
-
Câu hỏi: Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện
nay, có những thuận lợi và khó khăn gì?
Trả lời:
Để sản xuất hàng hố ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:
-
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu
quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư
liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ
chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất
(mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để xác định
từng thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế khơng tồn tại biệt lập
mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành
cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh tế trong đó các
thành thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển như một
tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh
với nhau.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản
của sản xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất
hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất
hàng hóa. Nội dung của quy luật giá trị là việc sản xuất và
trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa
trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
Chừng nào cịn SX và trao đổi hàng hóa
thì chừng đó cịn quy luật giá trị.
* Vai trị của nó đối với nước ta hiện nay:
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là tất yếu khách
quan:
Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị
buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động
cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần
thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được.
Kích thích lực lượng sản xuất phát triển,tăng năng suất
lao động xã hội.
Phân hoá những người sản xuất thành người giàu,người
nghèo.
Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau
khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi,
mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị. Cơ
chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp
giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung
quanh giá trị. và giá trị như cái trục của giá cả.