Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Đặc điểm văn xuôi nam cao sau 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.48 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THỊ MINH TUYỀN

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM CAO SAU 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THỊ MINH TUYỀN

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM CAO SAU 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Ngọc Thu

Đà Nẵng – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.


Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kì cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Minh Tuyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................6
5. Những đóng góp của luận văn .............................................................7
6. Cấu trúc của luận văn...........................................................................7
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
TRƯỚC NĂM 1945..........................................................................................8
1.1. BỐI CẢNH XUẤT HIỆN...........................................................................8
1.1.1. Đôi nét về tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945...........................................................................................................8
1.1.2…Và sự suất hiện của Nam Cao......................................................9
1.2. NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐẶC SẮC CỦA NAM CAO...............................13
1.2.1. Nam Cao – nhà văn “khơi những nguồn chưa ai khơi”...............13
1.2.2. Chủ nghĩa hiện thực tâm lý trong sáng tác của Nam Cao ...........19
1.2.3. Chủ nghĩa nhân văn trong sáng tác của Nam Cao.......................27
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XI NAM CAO SAU 1945 NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT..........................................33
2.1. ĐỔI MỚI HỆ THỐNG QUAN NIỆM......................................................35
2.1.1. Quan niệm về nhà văn .................................................................35

2.1.2. Quan niệm về quan hệ giữa nhà văn và công chúng ...................38
2.1.3. Quan niệm về hiện thực ...............................................................42
2.2. ĐỔI MỚI CÁCH TIẾP CẬN HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG.........................47
2.2.1. Tiếp cận hiện thực gắn với thời sự cách mạng và kháng chiến...48
2.2.2. Tiếp cận hiện thực với cái nhìn đa diện đa chiều ........................51


2.3. ĐỔI MỚI THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT ................................60
2.3.1. Hình tượng người trí thức ...........................................................60
2.3.2. Hình tượng người lính xuất thân từ nơng dân .............................66
2.3.3. Hình tượng người phụ nữ ..........................................................74
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM CAO SAU 1945 NHÌN TỪ
PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ......................................................................81
3.1. THỂ LOẠI.................................................................................................81
3.1.1. Tùy bút, bút ký.............................................................................81
3.1.2. Truyện ngắn .................................................................................84
3.1.3. Kịch..............................................................................................87
3.2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT ...................................................................89
3.2.1. Điểm nhìn bên ngồi....................................................................89
3.2.2. Điểm nhìn bên trong ....................................................................91
3.2.3. Sự dịch chuyển của những điểm nhìn..........................................93
3.3. NGƠN NGỮ .............................................................................................95
3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị.........................................................96
3.3.2. Ngôn ngữ trang trọng, mực thước, đậm chất thơ ........................99
3.3.3. Ngôn ngữ hiện đại, mới mẻ .......................................................102
3.4. GIỌNG ĐIỆU .........................................................................................104
3.4.1. Giọng tự hào, ngợi ca.................................................................106
3.4.2. Giọng mỉa mai, châm biếm........................................................108
3.4.3. Giọng triết lý, suy ngẫm ............................................................112
KẾT LUẬN ...................................................................................................116

TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO).


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Nam Cao (1917-1951) là một trong những đại biểu xuất sắc của
trào lưu văn học hiện thực ở nước ta giai đoạn 1930-1945; đồng thời cũng là
một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Đời sống và đời văn của
Nam Cao tuy không dài, nhưng ở cả hai chặng đường trước và sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, tác phẩm của ông đã đi vào văn học sử, đủ sức “vượt
lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn” làm nên một sự nghiệp cuốn hút giới
nghiên cứu và nhiều thế hệ bạn đọc cùng dành nhiều tâm sức “nghĩ tiếp về
Nam Cao”.
1.2. Tuy nhiên, cho đến nay nhìn lại, hầu hết khóa luận, luận văn, luận
án trong nhà trường và các cơng trình nghiên cứu chun luận đều chủ yếu
tập trung vào sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trước 1945. Điều ấy cũng có
thể cắt nghĩa được bởi sức hấp dẫn đặc biệt của ngòi bút Nam Cao qua những
kiệt tác mang giá trị tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc như: Chí Phèo, Lão Hạc,
Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn,.v.v. Song, cho dù mảng sáng tác sau Cách
mạng tháng Tám và những năm đầu kháng chiến chống Pháp không nhiều
(chưa đến 20 tác phẩm truyện ngắn, ghi chép, ký sự, nhật ký…), nhưng Nam
Cao vẫn để lại dấu ấn riêng, với những đóng góp rất đáng trân trọng cho nền
văn xuôi nước nhà trong buổi đầu xây dựng nền văn học mới sau ngày Cách
mạng tháng Tám thành cơng.
1.3. Nam Cao cịn là một trong những tác gia lớn có tác phẩm ở cả hai
chặng đường được giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn ở trường phổ
thơng: Trước 1945 có: Lão Hạc, Chí Phèo, Đời thừa; sau 1945 có: Đơi mắt.

Vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm văn xuôi Nam Cao sau
1945 còn là một dịp bổ sung thêm tư liệu và kiến thức góp phần giúp ích thiết
thực cho việc dạy học Văn trong nhà trường hiện nay.


2
2. Lịch sử vấn đề
Trước hết, có thể nói rằng, Nam Cao là một trong những tài năng lớn
của nền văn học hiện đại Việt Nam. Từ sau năm 1955 cho đến nay tác phẩm
của Nam Cao đã được giới nghiên cứu phê bình tập trung tìm hiểu nghiên cứu
khá kỹ lưỡng. Các cơng trình, bài viết, chun luận qua từng chặng đường,
qua các cuộc hội thảo, phần lớn đã được tập hợp in lại và lần lượt xuất bản, có
thể kể đến như :
- Hà Minh Đức với chuyên luận Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc,
NXB Văn Hóa, Hà Nội, năm 1961.
- Viện Văn học cùng phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật Nam Hà,
biên soạn tập sách Nghĩ tiếp về Nam Cao gồm bài viết của nhiều tác giả, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, năm 1992, nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày sinh của
nhà văn Nam Cao.
- Phong Lê với Nam Cao-Phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB
Khao học Xã hội, 1997.
- Năm 1998, Hà Minh Đức có Nam Cao-Đời văn và tác phẩm, NXB
Văn học.
- Năm 2000, Vũ Tuấn Anh (chủ biên), cùng Bích Thu, Vũ Văn Sỹ,
Phan Diễm Phương đã sưu tập tư liệu nghiên cứu, phê bình, Nhà xuất bản Hội
Nhà văn đã ấn hành thành tập sách Nam Cao – Con người và tác phẩm, dày
gần 700 trang, với 157 bài viết.
- Năm 2002, Trần Đăng Suyền với chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực
Nam Cao, NXB Khoa học Xã hội.
- Năm 2003, Nhà xuất bản Giáo dục, tái bản tập sách Nam Cao-Về tác

gia và tác phẩm, do Bích Thu tuyển chọn và giới thiệu, phần Thư mục về Nam
Cao cũng đã thống kê được 204 bài viết của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước.


3
Sau khi tham khảo chung, dưới đây chúng tôi chỉ điểm lại một số bài
viết đề cập trực tiếp đến mảng văn xuôi sau 1945 của Nam Cao:
- Trên Tạp chí văn học số 11/1966, Nguyễn Đức Đàn trong bài
viết“Cách mạng tháng Tám và chặng đường phát triển mới của Nam Cao”
cho rằng trước hết sáng tác của Nam Cao sau 1945 đã có sự thay đổi trong
cách nhìn về người nông dân. Nếu như trước Cách mạng, tuy đã “biểu thị một
thái độ tin yêu, trân trọng những người bị áp bức bóc lột” song “cái nhìn của
Nam Cao đối với người nơng dân hãy cịn những lệch lạc” [3] thì sau Cách
mạng nhà văn đã khơng cịn nhìn họ như những nạn nhân “dốt nát, nheo
nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương nữa”. Ngược lại, Nam Cao
đã nhận ra “họ vẫn có thể làm Cách mạng hăng hái lắm...lúc ra trận thì xung
phong can đảm lắm” [3]. Đối với đề tài tiểu tư sản, trước Cách mạng, Nam
Cao nhìn thấy ở họ cũng như chính mình, là “những con người có hồi bão,
có ước mơ vươn tới những say mê sôi nổi” [3] nhưng cuối cùng đều “bị dìm
xuống bùn đen của một cuộc sống nhỏ nhen đê tiện”, sống trong tâm trạng bi
quan tuyệt vọng. Cách mạng tháng Tám đã đem đến cho nhà văn một sức
sống mới [3]. Vì vậy, sau năm 1945, thái độ của tác giả trong cách nhìn người
trí thức là “thái độ phê phán kịch liệt những phần tử trí thức khơng chịu
chuyển mình theo thời đại” [3].
Cũng trong bài viết này, khi trực tiếp đề cập đến một số sáng tác của
Nam Cao sau 1945, Nguyễn Đức Đàn nhận xét: “Mò sâm banh, Nỗi truân
chuyên của khách má hồng, Đường vơ Nam...đã nói lên những chuyển biến
bước đầu của nhà văn”. Để làm rõ hơn, tác giả bài viết đã có những so sánh
về tư tưởng nghệ thuật và bút pháp của Nam Cao trong việc thể hiện những đề

tài quen thuộc ở hai thời kỳ trước và sau 1945.
- Sông Thai, trong bài Nam Cao, nhà văn hiện thực của cách mạng và
kháng chiến (Tạp chí Văn học số 95, 15-10-1969) nhận xét: “Sau Cách mạng


4
tháng Tám, tồn bộ tư tưởng tình cảm của Nam Cao mới được nâng lên một
bước quan trọng, nhất là trong lĩnh vực nhận thức về sự quan hệ mật thiết
giữa văn nghệ và quần chúng, giữa văn học và Cách mạng, giữa nhiệm vụ của
ngòi bút và vận mệnh của Tổ quốc, của nhân dân” [37]. Cùng với sự đổi mới
trong tư tưởng là sự đổi mới trong bút pháp thể hiện của nhà văn. Cùng với
nhịp độ khẩn trương, sôi nổi của đời sống Cách mạng là một bút pháp “cô
đọng mà gợi cảm, sắc sảo mà vẫn ấm áp được điều khiển bằng một tâm hồn
rạo rực tin yêu” [37].
- Phùng Ngọc Kiếm (1992), qua “Những đổi mới trong thế giới nghệ thuật
của Nam Cao sau 1945”( Nam Cao-Con người và tác phẩm, Vũ Tuấn Anh
chủ biên, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 389-395) cho rằng, trong những sáng
tác của Nam Cao sau 1945 có sự xuất hiện thế giới của những người nô lệ. Từ
việc khai thác thế giới nghệ thuật đó, tác giả khái quát lên thành một sự thật
đau lòng: “Cuộc đời người nô lệ Việt Nam dù trong những căn nhà ổ chuột,
những túp lều con của Chí Phèo, hay nương náu bên lề những biệt thự của
chủ Tây đều là cay đắng, đau khổ” [20,tr.390] .
Luận về nguyên nhân của nỗi đau khổ ấy, tác giả bài viết so sánh: “Nếu
như trước Cách mạng, Nam Cao lý giải nỗi đau khổ của người nghèo bằng tội
ác của bọn thống trị thì ở Mị sâm banh, điều đó cịn được lý giải bằng chính
tính cách hèn hạ của người nơ lệ”. “Cùng với tính cách của người nơ lệ sẽ là
cái hậu quả khủng khiếp mà nó đưa đến cho chính cuộc đời những kẻ chấp
nhận kiếp tơi địi” [20,tr.390] .
Khơng gian nghệ thuật trong những sáng tác sau 1945 cũng có sự thay
đổi. Trước Cách mạng, không gian thường thấy là “không gian riêng tư,

không gian cá nhân” biểu hiện trong những “nhà ở”, “căn buồng”...Sau Cách
mạng, không gian thường gặp là không gian của những con đường. Đường vô
Nam (1946), Trên những con đường Việt Bắc (1948)...Có thể nói “hình ảnh


5
con đường trở thành một chi tiết quan trọng xuất hiện trong hầu hết những
sáng tác của Nam Cao” [20,tr.393]. Những làng quê trước Cách mạng vốn
hiện ra nghèo khổ, tàn lụi nay như được thay áo mới. Những môtip ngày hội
cách mạng, sự đổi mới, trưởng thành cùng cách mạng, hi sinh phấn đấu vì
Cách mạng là những chất liệu mới của thế giới nghệ thuật Nam Cao.
Mặt khác, Phùng Ngọc Kiếm cũng thấy được đôi lúc, đôi chỗ sự đổi
mới trong những trang viết cịn có “những nét gượng, sượng”, “rơi vào biểu
hiện sơ lược, giản đơn” [20,tr.389]. Ở một vài chỗ nhà văn còn tỏ ra “khá
ngây thơ về chính trị, tức là đấu tranh giai cấp” [20,tr.389].
- Bùi Cơng Thuần, trên Tạp chí văn học số 2-1997 khi đi sâu tìm hiểu
“Phong cách truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng”, đã có cái nhìn so sánh
văn phong của Nam Cao ở hai giai đoạn: “Những truyện ngắn của Nam Cao
sau Cách mạng hầu như thay đổi hẳn về phong cách. Thay vào bút pháp tâm
lý là bút pháp kể và thuật lại, ngơn ngữ khơng cịn lạnh lùng đến tàn nhẫn
nữa, mà thay vào đó là một ngôn ngữ điềm đạm hơn, từ tốn hơn” [41].
- Bích Thu (1998), trong bài “Sức sống của một sự nghiệp văn chương”
(Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB GD, tr. 11-36), đã nhận ra sự khác
biệt về vị trí của nhà văn và nhân vật trong sáng tác ở hai giai đoạn. “Trước
Cách mạng, nhà văn và nhân vật bình đẳng với nhau. Sau Cách mạng, có một
lúc nào đó trong những trang viết của Nam Cao, nhân vật tỏ ra cao hơn tác giả
vì sự ngưỡng mộ, chiêm bái nhân vật của nhà văn” [40,tr.26].
Như vậy, qua quá trình khảo sát tài liệu nghiên cứu về Nam Cao, chúng
tôi nhận thấy những sáng tác sau 1945 có được đề cập đến song chỉ dừng lại ở
việc phát hiện sự đổi mới trong nhận thức của nhà văn về con người. Phong

cách nghệ thuật cũng được nói đến song còn sơ lược, chưa khái quát thành
những luận điểm rõ ràng, cụ thể. Những cố gắng vận động đổi mới quan niệm
và cách tiếp cận hiện thực cũng như vị trí của sáng tác Nam Cao trong buổi


6
đầu xây dựng nền văn học mới chưa được đề cập. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của
người đi trước, với việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp một
cái nhìn tổng thể, qua đó thấy được đóng góp của nhà văn lớn Nam Cao trong
quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc và vị trí của Nam Cao - nhà vănchiến sĩ trong buổi đầu xây dựng nền văn học mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ sáng tác của Nam Cao sau 1945, gồm 18 tác phẩm in trong
Tuyển tập Nam Cao, Tập 2 và Tập 3, NXB Văn học, Hà Nội, 1999; và một số
thư từ, nhật ký của Nam Cao còn gửi lại do các nhà văn sưu tập.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu tìm hiểu đặc điểm văn xi Nam Cao sau
1945 trên hai phương diện tư tưởng nghệ thuật và bút pháp thể hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành đề tài, chúng tơi vận dụng phối hợp nhiều phương pháp.
Tuy nhiên, các phương pháp sau được vận dụng nhiều nhất trong quá trình
nghiên cứu.
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp này nhằm đặt văn xuôi của Nam Cao sau 1945 trong tồn
bộ sáng tác của ơng cũng như trong dịng chảy văn xi Việt Nam hiện đại để
nhận diện những đặc điểm thống nhất và những biến đổi của thế giới nghệ
thuật nhà văn.
4.2. Phương pháp lịch sử
Phương pháp này đặt tác phẩm trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ để
thấy được những nỗ lực của tác giả trong việc tiếp cận và khai thác hiện thực.

Qua đó đánh giá thái độ, cách nhìn nhận của nhà văn trước con người và cuộc
đời.


7
4.3. Phương pháp so sánh-đối chiếu
Phương pháp so sánh được thực hiện để làm rõ sự khác biệt trong nhận
thức, trong sự phản ánh của chính Nam Cao trong từng chặng đường và sự
khác biệt của ông so với các nhà văn khác cùng thời. Qua đó thấy được sức
hấp dẫn mới lạ trên những trang viết của Nam Cao.
4.4. Phương pháp phân tích- tổng hợp
Phương pháp này gắn với việc làm sáng tỏ những đặc điểm tiêu biểu
trong văn xuôi sau 1945 của Nam Cao và khái quát những đặc điểm đó thành
những luận điểm. Phương pháp này vì vậy giúp cho việc đánh giá vừa cụ thể,
vừa khái qt.
5. Những đóng góp của luận văn
Như đã trình bày ở phần lịch sử vấn đề, văn xuôi của Nam Cao sau
1945 có được nghiên cứu song cịn lẻ tẻ và chưa có hệ thống. Với việc nghiên
cứu đề tài này, trên cơ sở tập hợp tư liệu, chúng tôi mong mang đến một cái
nhìn khái qt, tồn diện hơn về vị trí và những đóng góp của Nam Cao trong
nền văn học hiện đại nước ta.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương.
Chương 1: Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trước năm 1945
Chương 2: Đặc điểm văn xi Nam Cao sau 1945 nhìn từ phương diện tư
tưởng nghệ thuật
Chương 3: Đặc điểm văn xuôi Nam Cao sau 1945 nhìn từ phương thức thể hiện


8

CHƯƠNG 1

VÀI NÉT VỀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
TRƯỚC NĂM 1945
1.1. BỐI CẢNH XUẤT HIỆN
1.1.1. Đôi nét về tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945
Cùng với sự chuyển biến của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội và sự
tiếp thu, sáp nhập ảnh hưởng văn hóa-văn học phương Tây, từ nửa sau thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX, nền văn học Việt Nam đã có những dấu hiệu chuyển
mình từ thời kỳ văn học trung đại kéo dài gần mười thế kỷ sang thời kỳ văn
học hiện đại.
Nếu ba mươi năm đầu (1900-1930) có thể coi là chặng đường giao thời
thì bước vào giai đoạn 1930 - 1945, nền văn học nước ta đã thực sự được hiện
đại hóa một cách nhanh chóng. Một trong những thành tựu nổi bật ấy là sự ra
đời và phát triển của các trào lưu văn học với xuất hiện nhiều tác giả, tác
phẩm ưu tú.
Trào lưu văn học cách mạng theo ý thức hệ của giai cấp vô sản dưới
ánh sáng của lý tưởng mới, đã kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm vốn có từ trong văn học dân gian và văn học trung đại, được
khơi nguồn từ những tác phẩm truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc vào những
năm hai mươi của thế kỷ khi Người đang ở nước ngồi trên con đường “đi tìm
hình của nước”. Bước vào giai đoạn này dù ra đời trong hoàn cảnh “máu lửa”,
“xiềng xích” vẫn âm vang hào sảng trong phong trào thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh và thơ ca của các chiến sĩ cách mạng trong tù; đặc biệt được kết tinh ở
hai tập thơ ưu tú: Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Từ ấy của Tố Hữu.
Trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam cùng với phong trào Thơ mới đã
mở ra “một thời đại trong thi ca”, cùng với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là sự


9

biểu hiện ý thức cái tôi cá nhân-cá thể được thức tỉnh với khát vọng thoát ra
khỏi thế giới ngột ngạt của lễ giáo phong kiến và tính quy phạm nghiệt ngã
của thi pháp văn học trung đại. Từ 1932 đến 1942, một thời đại thơ ca vừa
chẵn mười năm, khi nhìn lại, nhà phê bình Hồi Thanh đã khơng nén được tự
hào: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời
đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng
một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên…và thiết tha, rạo
rực, băn khoăn như Xn Diệu” [38, tr 33-34]. Cịn trong văn xi lãng mạn
cũng đã nổi bật các nhà văn nổi tiếng như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Thạch Lam, Nguyễn Tuân.v.v.
Trào lưu văn học hiện thực phê phán với xu hướng tả chân nhằm phản
ánh bức tranh hiện thực xã hội như nó vốn có cũng đã ra đời và phát triển
mạnh mẽ. Với một khối lượng tác phẩm, tác giả nổi bật, đề cập đến những
vấn đề bức xúc của đời sống lúc bấy giờ; văn học hiện thực xứng đáng là một
trào lưu văn học có vị trí quan trọng và có nhiều đóng góp to lớn vào q
trình phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam.
1.1.2…Và sự suất hiện của Nam Cao
Các nhà nghiên cứu văn học sử thường nhận diện hành trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 diễn biến qua ba thời kỳ:19301935; 1936-1939; 1940-1945.
- Ở chặng thứ nhất: 1930-1935, trào lưu văn học hiện thực phê phán ra
đời và bước đầu khẳng định vị trí của mình với sự xuất hiện của Nguyễn
Cơng Hoan qua những truyện ngắn có tiếng vang như Ngựa người người
ngựa (1934), Kép Tư Bền (1935)… Ngô Tất Tố từ bút lông chuyển sang bút
sắt đã kịp thời góp vào bức tranh phơi bày hiện thực xã hội bằng thể loại tiểu


10
phẩm văn học trên báo chí. Tam Lang với Tơi kéo xe (1932), Vũ Trọng Phụng

với Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934) là những người mở đầu
cho thể phóng sự trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam viết về cuộc
sống đô thị.
Tuy nhiên, ở chặng đường này, các nhà văn “chỉ mới phản ánh được
những nét cục bộ, những hiện tượng nổi lên trên bề mặt xã hội mà chưa nêu
được những vấn đề bản chất, những vấn đề lớn có tầm khái quát của thời đại,
chưa tập trung vào những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội” [4,tr.348].
- Ở chặng đường thứ hai:1936 -1940; đây là những năm phát triển đến
đỉnh cao của trào lưu văn học hiện thực ở nước ta trước năm 1945. Số lượng
tác gia và tác phẩm tăng cả về lượng lẫn về chất. Các cây bút Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố vốn đã khẳng định tên tuổi của mình ở
giai đoạn trước nay tiếp tục đạt đến độ chín mùi của tài năng. Vũ Trọng
Phụng trong một năm 1936 cho ra đời ba cuốn tiểu thuyết: Giơng tố, Số đỏ,
Vỡ đê và sau đó là Trúng số độc đắc (1938), Người tù được tha (1939). Ngô
Tất Tố nổi tiếng với tiểu thuyết Tắt đèn (1937), Lều chõng (1939), phóng sự
Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940) và nhiều tiểu phẩm có giá trị.
Nguyễn Cơng Hoan có tiểu thuyết Cơ làm cơng (1936), Bước đường cùng
(1938), Cái thủ lợn (1939) và nhiều tập truyện ngắn có chất lượng cao. Đặc
biệt Nguyên Hồng tuy mới xuất hiện nhưng đã thu hút người đọc ngay từ
những trang viết đầu tay mà già dặn với Bỉ vỏ (1938), Những ngày thơ ấu
(1938) và nhiều truyện ngắn đầy tính chiến đấu đăng trên các báo. Chủ nghĩa
hiện thực tả chân đã đi sâu khám phá những vấn đề bản chất của xã hội và đã
xây dựng được những nhân vật điển hình trong hồn cảnh điển hình khắc sâu
trong tâm trí người đọc.
- Bước vào chặng đường thứ ba: 1940-1945 hồn cảnh lịch sử có
nhiều biến động dữ dội. Phát xít Nhật nhảy vào Đơng Dương, thực dân Pháp


11
càng ra sức bóp nghẹt dân ta về mọi mặt. Sống trong cảnh “thân một cổ hai

trịng nơ lệ”, nước ta ngày càng thêm xơ xác, tiêu điều. Khát vọng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp nghèo khổ và giải phóng cá nhân-cá thể của mỗi
người càng trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Báo chí, sách vở tiến bộ bị kiểm
duyệt nghiêm ngặt, nhiều tờ báo bị đóng cửa và tịch thu. Văn học lãng mạn đi
vào bế tắc, văn học hiện thực phải len lỏi trên rất nhiều khuynh hướng văn
học suy đồi hỗn loạn lúc bấy giờ để tiếp tục phát triển. Văn học cách mạng
tạm rút lui vào bí mật chuẩn bị cho cao trào tiền khởi nghĩa. Một khơng khí oi
bức, ngột ngạt như báo hiệu giông tố sắp hiện lên ở chân trời.
Trong bối cảnh ấy, nhà văn trẻ Nam Cao xuất hiện. Vốn đã thử bút từ
năm 1936 với truyện ngắn Cảnh cuối cùng bút danh Thúy Rư, in trên Tiểu
thuyết thứ bảy số 123, ngày 21 tháng 10; và tiếp đó là truyện ngắn Hai cái
xác, cũng với bút danh Thúy Rư, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, số 133, ngày
12 tháng 12 năm 1936. Nhưng theo nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nam Cao thực
sự bắt đầu bước vào nghề văn khoảng đầu năm 1940 khi tập truyện Cái lò
gạch cũ ra đời. Như vậy Nam Cao chính thức xuất hiện khi tiến trình hiện đại
hóa nền văn học dân tộc giai đoạn 1930-1945 nói chung và trào lưu văn học
hiện thực nói riêng, đã ở vào chặng đường cuối (1940-1945). Là người đến
sau, Nam Cao cùng một số cây bút trẻ khác thuộc trào lưu này như Tơ Hồi,
Kim Lân, Bùi Hiển… muốn khẳng định được vị trí của mình họ phải vượt qua
nhiều thách thức. Bởi lẽ, những nguồn đề tài, những nguồn chất liệu phong
phú từ nông thôn đến thành thị, từ cuộc đời đến số phận con người đều đã
từng được các nhà thơ, nhà văn lớp trước thể hiện rất thành công.
Chẳng hạn như, viết về khát vọng giải phóng cái tơi-cá nhân-cá thể với
những vần thơ vừa đắm say mới lạ, vừa thấm đẫm hồn Việt, thì khơng thể nào
lặp lại và vượt qua được các nhà Thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn
Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên; muốn viết những tiểu thuyết ái tình tâm lý


12
xã hội nói lên khát vọng “đoạn tuyệt” với lễ giáo phong kiến…thì đã có các

nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo.v.v. Viết
về xã hội ba đào, về bộ mặt quan lại ở chốn cơng đường đã có tấn bi hài kịch
Kép Tư Bền và hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Viết về nơng
thơn với hình tượng người nơng dân dù trong hồn cảnh bị áp bức, bóc lột
trăm bề vẫn khơng để mất những phẩm chất tốt đẹp của mình thì đã có kiệt
tác Tắt đèn của Ngơ Tất Tố, tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công
Hoan…Lên án những tệ nạn, mỉa mai thói nhố nhăng rởm đời của xã hội Âu
hóa buổi đầu ở thành thị thì đã có bút pháp trào lộng bậc thầy của “ơng vua
phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng qua những tác phẩm Cơm thầy cơm cơ,
Lục xì, Kỹ nghệ lấy Tây…và thiên tiểu thuyết tuyệt tác Số đỏ.v.v.
Sau những thử bút ban đầu, Nam Cao đã sớm thức nhận được
rằng:“Cái nghề văn, kỵ nhất là cái lối thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi
đào” (Những truyện không muốn viết); và: “Văn chương chỉ dung nạp được
những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và
sáng tạo những cái gì chưa có”(Đời thừa). Vì vậy, chỉ có một con đường, ấy
là muốn khẳng định vị trí của mình địi hỏi phải thực sự có tài năng và bản
lĩnh để vượt lên những thách thức cả trong đời sống và trong sáng tạo nghệ
thuật. Nam Cao và người bạn của mình là Tơ Hồi đã làm được điều đó.
Năm 1941 Nam Cao đã độc sáng với kiệt tác Chí Phèo, in trong tập
truyện ngắn đầu tay Đơi lứa xứng đôi (tên trong bản thảo của tác giả là Cái lò
gạch cũ, nhà văn Lê Văn Trương đã viết lời Tựa và đặt lại là Đôi lứa xứng
đôi), Nhà xuất bản Đời mới, Hà Nội). Sau đó Nam Cao còn cho in nhiều
truyện ngắn đặc sắc khác trên Tiểu thuyết Thứ Bảy và hoàn thành bản thảo
tiểu thuyết Chết mòn (sau này xuất bản đổi lại tên là Sống mịn).
Cùng với Nam Cao, Tơ Hồi, một người bạn từng nhiều năm gần gũi
khi Nam Cao từ quê ra sống ở Hà Nội, cũng nổi tiếng với Dế mèn phiêu lưu


13
ký… Họ đã đi vào văn học sử và được xem là hai tác giả xuất sắc của trào lưu

văn học hiện thực Việt Nam trước năm 1945, ở chặng đường thứ ba này.
Không những thế, với một hệ thống quan niệm nghệ thuật và thế giới
sáng tạo của mình trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao đã để lại một sự
nghiệp xứng đáng là một tài năng lớn trong nền văn xi hiện đại Việt Nam.
1.2. NHỮNG ĐĨNG GĨP ĐẶC SẮC CỦA NAM CAO
1.2.1. Nam Cao – nhà văn “khơi những nguồn chưa ai khơi”
Mỗi nhà văn đích thực cho dù sáng tác về nhiều đề tài, thu thập tài liệu
từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng bao giờ họ cũng có những “vùng thẩm mỹ”
của riêng mình. Đó cũng chính là nơi vốn sống, tài năng và cá tính sáng tạo
của họ được thể hiện thăng hoa nhất.
Với Nam Cao, viết về cuộc sống nông thôn với số phận bi đát của
người cố nông được lấy từ chất liệu có thực ở ngay làng q ơng và viết về
tình cảnh người trí thức nghèo với bi kịch “vỡ mộng”, “khát bay mà khơng có
chân trời” đành “sống mịn” trong cảnh “đời thừa”, lấy chất liệu ngay từ
những trải nghiệm đau đớn của chính bản thân và bạn bè là hai mảng đề tài
nổi bật trong sáng tác của ông trước năm 1945.
a. Đề tài người nông dân
Ở mảng đề tài người nông dân, ngay từ năm 1941, trong bài Tựa tập
truyện ngắn đầu tay Đôi lứa xứng đôi của Nam Cao, Nhà xuất bản Đời nay,
nhà văn Lê Văn Trương đã có mắt xanh khi nhận xét:
“Giữa lúc người ta đang đắm chìm trong những chuyện
tình thơ mộng và hùa nhau “phụng sự” cái thị hiếu tầm thường
của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng,
nghĩa là ông không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả.
Những cạnh của tài ơng đã đem đến cho văn chương một lối văn


14
mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người
biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình” [42]

“Lối văn mới sâu xa” của tác phẩm Chí Phèo chính là sự xuất phát từ
quan niệm và cách tiếp cận hiện thực của nhà văn Nam Cao khác với các nhà
văn hiện thực các thời kỳ trước. Cùng viết về đề tài này, tiểu thuyết Tắt đèn
của Ngô Tất Tố đã tố khổ cho người cố nơng vì chính sách thuế khóa bất nhân
của bọn thực dân cùng sự bóc lột áp bức của bọn địa chủ, cường hào ở nông
thôn, đồng thời đã làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của họ mà hoàn cảnh
dù vạn ác cũng không thể làm mai một. Nhân vật điển hình chị Dậu, như nhà
văn Nguyễn Tuân nhận xét, “là cái đốm sáng đặc biệt trên cảnh tối giời tối đất
của đồng lúa Việt Nam ngày xưa”. Các nhà văn Nguyễn Công Hoan qua
Bước đường cùng, Vũ Trọng Phụng qua Vỡ đê… cũng tập trung lột tả “sự
thực ở đời” như nó vốn có của nơng thơn và người nông dân trong xã hội thời
bấy giờ. Đến Nam Cao thì khơng chỉ vậy; trước hiện thực đau khổ của kiếp
người nhà văn vừa day dứt suy nghĩ, vừa tìm cách đi sâu lý giải với câu hỏi
“Sao lại thế này ?” như tên một truyện ngắn của ông. Và ơng đã xây dựng
được những hình tượng nhân vật điển hình độc đáo (Chí Phèo, Thị Nở, Bá
Kiến…), những tình huống cốt truyện với một nghệ thuật kết cấu bất ngờ đem
lại những cảm xúc thẩm mỹ khác lạ cho người đọc mà các tác gia văn học
hiện thực trước ơng chưa có được.
Ngay cả vấn đề cái đói, miếng ăn vốn là một “sự thật tàn nhẫn” của xã
hội Việt Nam những năm trước Cách mạng đã từng được các nhà văn, nhà thơ
đề cập, nhưng cũng đến Nam Cao lại được phát hiện từ một góc nhìn khác.
Nếu Ngô Tất Tố trong Cái bánh chưng, Mớ rau trong hòm, Làm no hay cái
ăn trong những ngày nước ngập đã nêu bật khẩn thiết, cấp bách là cần cứu
đói cho nơng dân, thì với Nam Cao miếng ăn, cái đói khơng chỉ là nỗi ám ảnh
thường trực, mà nó cịn là nguy cơ làm con người tha hóa nhân phẩm. Thế


15
giới nghệ thuật trong sáng tác của ông đã thể hiện một cách sinh động và sâu
sắc nỗi đau ấy. Chẳng hạn, vì thèm cơm quá lâu ngày mà bà cái Tý đã cố

quên đi “miếng ăn là miếng nhục”, liều mạng kiếm cớ vờ đến thăm đứa cháu
đang đi ở mong ăn chực được “một bữa no”, để rồi “chết no’ một cách thê
thảm. Hoặc cũng vì cái đói quá lâu ngày mà người bố cùng mấy người bạn
hàng xóm đã ăn quên mất cả phần của con (Trẻ con khơng được ăn thịt chó).
Và cũng vì ở làng “khơng có cơm mà ăn, một tấc đất cắm dùi khơng có”, lại
thêm nhà tù, lại thêm Bá Kiến thâm độc nham hiểm mà anh cố nơng Chí Phèo
đã bán dần, bán hồi cả nhân hình lẫn nhân tính của mình để thành quỷ dữ của
làng Vũ Đại.
Trong truyện Tư cách mõ, cu Lộ vốn là một người hiền lành như đất.
Vì nghèo túng, anh nhận lời làm mõ. Khi thấy “ngon ăn”, mọi người sinh ra
ngấm ngầm ghen ghét, coi khinh và hùa nhau vào làm nhục cu Lộ. Tức quá,
anh tỏ ra bất cần. Càng bị làm nhục, anh càng tỏ ra không biết nhục và cuối
cùng hắn hiện ra là một thằng mõ với đầy đủ “tư cách mõ, chẳng chịu kém
những anh mõ chính tơng một tí gì, cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn”
[43,tr.354]. Qua nhân vật Lộ, Nam Cao muốn nói với chúng ta: Thì ra lịng
khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác
nhiều lắm.
Đức trong Nửa đêm là một đưa bé “hiền như những con nhà thiếu ăn”,
nhưng ngay từ khi chào đời, Đức đã mang một nỗi nhục lớn: con của kẻ giết
người. Một bầu khơng khí ghẻ lạnh, khinh khi, hắt hủi, ruồng bỏ, xa lánh bao
quanh thằng bé. Thế là từ một đứa bé “hiền như đất” nó trở thành một kẻ
“lặng lẽ”, “ngờ nghệch”, “ngơ ngác”. Lớn lên, định kiến độc ác của người đời
vẫn bủa theo Đức mãi. Lòng đầy uất hận, Đức dấn thân vào xứ Nam kỳ, nơi
của “trai tứ chiến, gái giang hồ” và trở thành một tên du côn thực sự. Đức đã
trở thành một kẻ tha hóa mặc dù trong sâu thẳm tâm hồn vẫn cịn một góc nhớ


16
về người bà với bao vất vả, cay đắng, tủi nhục đã nuôi hắn từ tấm bé. Rõ ràng,
xã hội đã tiệt đường sinh sống của Đức, đã trục Đức ra khỏi mảnh đất quê

nghèo với bà nội già khốn khổ. Nếu được yêu thương, được cảm thông, biết
đâu Đức đã trở thành một con người tử tế. Mái tranh nghèo ấy biết đâu đã trở
thành mái ấm hạnh phúc của Đức với người con gái mình u.
Vì vậy, có thể nói rằng, cùng với sự áp bức đọa đày của giai cấp thống
trị, của cái đói, miếng ăn, những trang viết về nông thôn và nông dân của
Nam Cao trước cách mạng còn ám ảnh người đọc bởi một bi kịch lớn. Đó là
bi kịch con người bị tha hóa, bị cướp mất quyền làm người.
b. Đề tài người trí thức
Ở mảng đề tài viết về người trí thức nghèo, qua những tác phẩm nổi bật
như tiểu thuyết Sống mịn, truyện ngắn Trăng sáng, Đời thừa…đóng góp nổi
bật của Nam Cao lại được thể hiện ở một phương diện khác. Ấy là nhà văn
của chúng ta đã phản ánh và biểu hiện một cách chân thật và đau đớn bi kịch
“vỡ mộng”, “sống mòn” trong cảnh “đời thừa” của những người trí thức
“khát bay mà khơng có chân trời” .
Vốn là một trí thức nghèo, sống trong cảnh ngột ngạt, tăm tối của xã
hội Việt Nam những năm trước cách mạng, hơn ai hết Nam Cao thấu hiểu nỗi
thống khổ của chính mình và những người cùng hội cùng thuyền. Đã từng có
vốn học vấn Tây học, Nam Cao rời làng quê nghèo đói, lên đường vào Nam
mang theo biết bao ước vọng, hoài bão. Nhưng rồi chân trời mới lạ không dễ
dung nạp. Bệnh tật, Nam Cao phải trở về quê. Thế là ước muốn đi xa vào tận
Sài Gịn lập nghiệp khơng thành, bi kịch “vỡ mộng” bắt đầu từ đó.
Về q, Nam Cao ơn lại vốn học vấn cũ và nghĩ cách ra Hà Nội làm
ông giáo khổ trường tư để kiếm sống. Từ đây, Nam Cao càng nếm trải bao nỗi
khổ của người tiểu tư sản trí thức nghèo trong một xã hội ngột ngạt bế tắc.
Mượn lời một nhân vật trong truyện ngắn Mua nhà, Nam Cao đã phải thốt


17
lên: “Tôi làm việc ghê gớm lắm. Tôi giết dần tơi để kiếm tiền”.
Tác phẩm của Nam Cao có sự thống nhất cao độ giữa cuộc đời thực và

văn chương. Từ bi kịch cuộc đời mình, Nam Cao đã nói lên bi kịch của cả
một tầng lớp trí thức nghèo những năm tiền cách mạng. Đọc Nam Cao, nhà
văn Nguyên Hồng nhận xét:
Đọc xong những truyện ngắn Trăng sáng, Đời thừa, Nước
mắt, Mua nhà…ta cũng bị ngạc nhiên. Đó là những cảnh đời ở
ngay bên cạnh ta, những cảnh đời của chính tầng lớp của nhiều
chúng ta, mà đến nay nhờ đọc Nam Cao mà chúng ta bàng hồng
đau xót và thấy bao nhiêu ước vọng, say mê, thương yêu tha thiết
nhất của những con người họ, của chính chúng ta bị trĩu cánh
xuống, giập nát cũng vì nghèo khổ, cũng vẫn chỉ vì nghèo khổ
[17,tr.63].
Bi kịch “vỡ mộng” của kiếp “sống mòn” còn được nhà văn gởi gắm
qua những nhân vật ở nhiều tác phẩm khác như Hộ (Đời thừa), Hài (Quên
điều độ), Thứ (Sống mòn) …và rất nhiều những “tơi”, những “hắn”. Họ là
những người có ý thức sâu sắc về cá nhân, về ý nghĩa sự tồn tại của mỗi cá
nhân trong cuộc đời. Không thể cứ quẩn quanh trong “cái ao đời bằng phẳng”,
họ ôm ấp ước mơ, dự định lớn lao. Hộ (Đời thừa) đã từng mơ ước viết “một
tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ...Nó ca ngợi lịng thương, tình bác ái, sự cơng bằng. Nó làm cho
người gần người hơn” [43,tr. 91]. Để thực hiện ước mơ, Hộ bất chấp tất cả,
“đói rét khơng nghĩa lí gì với một gã tuổi trẻ say mê lí tưởng. Lịng hắn đẹp.
Đầu hắn mang một hoài bão lớn” [44, tr. 91]. Trong mối quan hệ giữa người
và người, Hộ đặt ra một quan niệm lí tưởng: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm
lên kẻ khác để thỏa mãn lịng ích kỉ. Kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đơi
vai mình” [43,tr. 91].


18
Thứ trong Sống mịn đã từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến
xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ sở

mình”. Thứ từng mơ ước: “mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng vượt lên
sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thơi. Y chỉ nghĩ đến những
phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt người với người cho ổn thỏa
hơn” [45,tr.256].
Rõ ràng đó là những ước mơ cao đẹp về nghề văn, về mộng viễn du, về
tư cách đạo đức…Những ước mơ ấy khi “chạm trán” với cuộc đời thực đều
phải nếm trải bao cay đắng, đớn đau. Cả dân tộc đều chìm đắm trong nơ lệ, làm
gì có con đường cho mỗi người. Cuộc đời nhỏ nhen, tù túng khơng có chỗ cho
những ước mơ. Miếng cơm, manh áo, bệnh tật là những nỗi lo lắng thường
trực, nói như Xuân Diệu: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt. Cơm áo không đùa
với khách thơ”. Ước mơ chưa kịp bay cao đã vội vàng khép cánh. Mộng ước
chưa thành đã vỡ tan. Họ trở về đời thường với bao nỗi thất vọng ê chề và tiếp
tục “sống mà như chết”, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”.
Từ bi kịch “vỡ mộng”, họ tiếp tục kéo lê cuộc đời qua kiếp “sống
mòn”. Từ chỗ háo hức với những mộng ước bay cao, bay xa, sau cú “chạm
trán” với cuộc đời, họ vỡ mộng và từng bước nhượng bộ, chấp nhận cuộc
sống tù túng, ngột ngạt. Khơng cịn những ham muốn, hăm hở ban đầu, họ
sống trong cảnh buồn tẻ, tưởng chừng như bằng lịng trong cảnh “bình lặng
vơ sự”. Thứ đã từng mơ ước biết bao nhiêu một cuộc sống hữu ích. “Sống là
để làm một cái gì đó cao đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống
phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của lồi người
chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào cơng việc tiến
bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại chút gì cho nhân loại” [45,tr. 256].
Thế nhưng, cái mà Thứ làm được chỉ có thể là một chân thầy giáo ở trường tư
ngoại ô Hà Nội. Hộ (Đời thừa) ao ước cả đời chỉ viết một cuốn sách thôi


19
“nhưng quyển sách ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên toàn
cầu” [43,tr.92]. Nhưng cuối cùng anh phải viết “tồn những cái vơ vị, nhạt

phèo, gợi những tình cảm rất nơng, diễn tả một vài ý rất thơng thường quấy
lỗng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi” để rồi mỗi lần đọc lên
lại “đỏ mặt, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng
khốn nạn” [43,tr.80].
Khơng chỉ dừng lại ở đó, cuộc sống chật vật nghèo túng thậm chí cịn đẩy
họ thành những kẻ nhỏ nhen, ti tiện. Họ phải tính tốn chi li từng bữa ăn, miếng
ăn. Họ cãi nhau vì “những điều vơ nghĩa lý”. Có lúc họ cũng sa vào những ý
nghĩa tầm thường. Họ sống nhỏ nhen với bạn bè, có lúc sinh tàn nhẫn với vợ
con, tập “quen điều độ” với sự nghèo đói và chết dần trong cảnh đói nghèo.
Dường như khơng có truyện ngắn nào của Nam Cao về đề tài tiểu tư sản lại
không đề cập đến cái chết về tinh thần của lớp người đó. Mỗi nhân vật là một
kiểu đời thừa, một kiểu sống mòn. Điều này, trước Nam Cao chưa có nhà văn
nào có cách nhìn sâu sắc và phổ quát như vậy. Có lẽ đó cũng là lý do để nhà lý
luận phê bình Lê Đình Kỵ trong bài: “Nam Cao-Con người và xã hội cũ” đã cho
rằng: “ Có những chủ đề Nam Cao và có những nhân vật Nam Cao”.
1.2.2. Chủ nghĩa hiện thực tâm lý trong sáng tác của Nam Cao
Tiếp thu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực nửa đầu thế kỷ XIX từ văn
học phương Tây, các nhà văn hiện thực trước Nam Cao tự nguyện làm “người
thư ký trung thành của thời đại” (H.Banzăc), đề cao nghệ thuật tả chân, coi
trọng việc xây dựng chân thật tính cách nhân vật điển hình trong mối quan hệ
với hồn cảnh điển hình. Đến Nam Cao, trào lưu văn học hiện thực phê phán
ở Việt Nam thực sự có một bước chuyển biến; đó là sự chú ý tới phương diện
đời sống tinh thần của nhân vật, là sự phát hiện ra bản chất bề sâu bên trong
con người. Với việc lấy thế giới nội tâm con người làm đối tượng chính của
sự miêu tả, Nam Cao đã mở ra cánh cửa nghệ thuật mới của chủ nghĩa hiện


20
thực Việt Nam. Đó là chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Đây cũng là một nét nổi bật
của phong cách nghệ thuật Nam Cao. Nét bút pháp này xuất phát từ sự nhận

thức sâu sắc về ý thức cá nhân-cá thể của nhà văn. Đây là điểm khác nhau
giữa văn chương hiện đại và văn chương thời trung đại. Đúng như Hoài
Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam từng khẳng định: “Xã hội Việt
Nam từ xưa khơng có cá nhân. Chỉ có đồn thể, lớn thì quốc gia dân tộc, nhỏ
thì gia đình. Cịn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, quốc
gia như giọt nước trong biển cả” [38,tr.13]
Nam Cao đặc biệt nhạy cảm với những vấn đề thuộc về con người. Với
ông, tâm hồn con người như là một “sân khấu của bi kịch và bi hài kịch của
những xung đột tư tưởng” [34,tr.178]. Vì vậy, khơng chỉ dừng lại ở việc phản
ánh xã hội, ngòi bút của Nam Cao còn hướng vào việc “khám phá con người
trong con người”. Có thể nói, trước Nam Cao, các nhà văn thuộc trào lưu lãng
mạn như Khái Hưng, Nhất Linh cũng đã phân tích, diễn tả tinh tế những cảm
xúc nội tâm, những diễn biến phức tạp trong đời sống nội tâm nhân vật.
Nhưng đến Nam Cao, nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lý đã đạt tới trình
độ bậc thầy, được thể hiện trên nhiều phương diện như việc lựa chọn đề tài,
tạo dựng tình huống, khả năng lắng nghe và biểu hiện những trạng thái giằng
xé của tâm trạng nhân vật với một bút pháp rất tinh diệu.
a. Việc lựa chọn đề tài
Cùng nói về người nơng dân đầu tắt mặt tối quanh năm lam lũ kiếm
miếng ăn để tồn tại hay người trí thức nghèo bán chữ để tự ni sống mình và
ni vợ ni con; nhưng cái Nam Cao chăm chú theo dõi là qua những xung
đột xã hội hướng tới những giằng xé day dứt của khát vọng hướng thiện
không tắt ở mỗi số phận con người.
Hiếm thấy những sự việc đình đám, những nhân vật quyền lực trong
trang viết của Nam Cao. Bức tranh xã hội trong văn Nam Cao thường không


×