TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ - GIÁO DỤC
TRƯƠNG XUÂN NGUYÊN
NGHIÊN CỨU VỀ LÒNG TỰ TRỌNG CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRẦN PHÚ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐÀ NẴNG, 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ - GIÁO DỤC
TRƯƠNG XUÂN NGUYÊN
NGHIÊN CỨU VỀ LÒNG TỰ TRỌNG CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRẦN PHÚ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
T.S NGUYỄN THỊ TRÂM ANH
ĐÀ NẴNG, 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài:...................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu: ............................................................................... 3
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu: ........................................... 3
3.1
Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 3
3.2 Khách thể nghiên cứu ............................................................................... 3
3.3 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3
4. Giả thiết nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 4
1.1
Tổng quan nghiên cứu về lòng tự trọng .............................................. 5
1.1.1 Nghiên cứu về lòng tự trọng trên thế giới ............................................. 5
1.1.2
Nghiên cứu về lòng tự trọng tại Việt Nam ......................................... 8
1.2 Những vấn đề lý luận về lòng tự trọng .................................................... 9
1.2.1 Khái niệm lòng tự trọng .......................................................................... 9
1.2.2 Đặc điểm của lòng tự trọng cao và lòng tự trọng thấp ....................... 12
1.2.3 Vai trò của lòng tự trọng....................................................................... 16
1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng ............................................. 18
1.3 Lòng tự trọng ở học sinh trung học phổ thơng .................................... 22
1.3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến lịng tự trọng ở thanh thiếu niên ............. 30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 33
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................. 35
III
2.1 Vài nét về khách thể nghiên cứu ............................................................ 35
2.1.1 Đặc điểm trường THPT Trần Phú thành phố Đà Nẵng ..................... 35
2.1.2 Mẫu khách thể nghiên cứu................................................................... 36
2.2. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................ 36
2.3 Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 37
2.3.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận......................................................... 37
2.3.2 Phương pháp đánh giá bằng Bảng hỏi ................................................ 37
2.3.3 Phương pháp thống kê mô tả ............................................................... 40
2.3.4 Phương pháp phân tích dữ liệu định tính: .......................................... 40
3.1 Thực trạng lịng tự trọng ở học sinh THPT Trần Phú ........................ 41
3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng ở học sinh THPT Trần Phú
......................................................................................................................... 44
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 54
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 55
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................... 60
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................... 65
PHỤ LỤC 3 .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
IV
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
HS
Học sinh
2
THPT
Trung học phổ thông
V
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. Danh mục các bảng
Số hiệu bảng
Bảng 1.1
Tên bảng
Trang
Đặc điểm của người có lịng tự
14
trọng cao và người có lịng tự
trọng thấp (David J. Lieberma)
Bảng 3.1
Số lượng khách thể thu được
41
Bảng 3.2
Mức độ lòng tự trọng của học
42
sinh
Bảng 3.3
Mức độ lịng tự trọng phân
43
theo giới tính
Bảng 3.4
Phân nhóm các câu trả lời (ý
45
kiến) của học sinh
Bảng 3.5
Số lượng của các nhóm ý kiến
47
trả lời của học sinh
Bảng 3.6
Số lượng các ý kiến tạo động
49
lực phân theo 3 nhân tố tác
động
Bảng 3.7
Số lượng các ý kiến thể hiện
50
hành vi tích cực phân theo 3
nhân tố tác động
Bảng 3.8
Số lượng các ý kiến làm giảm
51
động lực phân theo 3 nhân tố
tác động
Bảng 3.9
Số lượng các ý kiến gây áp lực
phân theo 3 nhân tố tác động
VI
52
Bảng 3.10
Số lượng các ý kiến thể hiện
53
hành vi tiêu cực phân theo 3
nhân tố tác động
2. Danh mục các hình vẽ, biểu đồ
Số hiệu hình
Tên hình vẽ
Trang
vẽ
Hình 1.1
Tỷ lệ đánh giá lịng tự trọng
6
theo William James
Hình 1.2
Các yếu tố ảnh hưởng đến
31
lòng tự trọng của thanh thiếu
niên
Biểu đồ 3.1
Tỷ lệ mức độ lòng tự trọng của 42
học sinh THPT Trần Phú
Biểu đồ 3.2
Mức độ lòng tự trọng phân
44
theo giới tính
Biểu đồ 3.3
Phân bố các nhóm ý kiến trả
lời của học sinh
VII
48
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Thời đại tồn cầu hóa đã và đang tạo ra những thay đổi sâu sắc trong xã
hội và trong nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống con người. Sự tiến bộ của
khoa học kéo theo mối quan tâm đến chất lượng cuộc sống và quan hệ xã hội.
Để phát triển bản thân một cách hiệu quả và gặt hái được nhiều thành công và
hạnh phúc thì lịng tự trọng có một vai trị quan trọng trong bản thân mỗi con
người. Lịng tự trọng khơng chỉ có giá trị lớn trong nhân cách, trong quá trình
tạo dựng bản sắc cá nhân, mà cịn có tính chất dễ bộc lộ ra phản ứng bên ngoài.
Với những hệ quả mà lịng tự trọng phơ bày, các nhà nghiên cứu khoa học xã
hội, các nhà tâm lí học đã chú ý nghiên cứu đến lòng tự trọng từ rất sớm. Các
trường phái khác nhau trong tâm lí học, từ phân tâm học cho đến tâm lí học
nhân văn… đã xem xét về lòng tự trọng dưới nhiều phương diện khác nhau, đa
chiều và phong phú. Những thành tựu nghiên cứu đã đóng góp khơng nhỏ cho
q trình tìm hiểu tâm lí con người, cải thiện sức khỏe tâm trí, hay mang lại lợi
ích cho xã hội. Bên cạnh đó, lịng tự trọng có ý nghĩa lớn trong cơng tác giáo
dục. Chất lượng và giá trị của giáo dục không những ảnh hưởng đến hiệu quả
đầu tư cho giáo dục của tồn xã hội, mà cịn là trách nhiệm của các trường đào
tạo với người học và các bên liên quan.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu trong công tác khám phá tiềm năng con
người, đánh giá hiệu quả hoạt động, tìm hiểu bản thân cịn khá mới mẻ và mang
tính tiên phong ít nhiều. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng việc phát triển con
người là có ý nghĩa lớn lao cho quá tình phát triển nước nhà, vươn lên hội nhập
thế giới trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng bộ. Nghiên cứu
khai phóng về nội tại của mỗi cơng dân là nhân tố quan trọng đóng góp tích cực
cho q trình phát triển đất nước. Sự phát triển của con người không chỉ thể
hiện qua mặt thể chất, sức khỏe, mà còn là sự cải thiện về mặt tinh thần, về tâm
1
lí, hay trong quan hệ xã hội. Sự đóng góp cho đất nước, đồng th3i hưởng lợi
ích trở lại từ xã hội đặt ra cho mỗi cá nhân đòi hỏi về việc nhận thức đúng đắn
về bản thân mình. Lịng tự trọng là một trong định hình về bản thân trong tương
quan với người khác, có ý nghĩa về mặt nhân cách của mỗi con. Mặt khác, nhận
thức đúng về lịng tự trọng mang lại những giá trị hữu ích cho hoạt động cá
nhân, và là nền tảng cho sự thành cơng trong cuộc sống.
Lịng tự trọng thường được xem là những yếu tố quan trọng tạo nên sự
thành công và hành phúc của mỗi cá nhân. Lòng tự trọng là cách mà một người
nghĩ và tin rằng mình có năng lực và xứng đáng nhận được sự quý trọng và
thương yêu của những người xung quanh. Là nền tảng để nâng cao sự tự tin, từ
đó đẩy mạnh khả năng và động lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Lịng
tự trọng có ảnh hưởng đến những đánh giá và sự định hình giá trị của một người.
Sự phát triển lịng tự trọng đóng vai trị quan trọng trong việc giúp các nhân
điều chỉnh giá trị bản thân và năng lực của họ. Khi con người xây dựng được
lòng tự trọng, bản thân sẽ luôn cảm thấy nhận được tình yêu thương từ người
khác và cũng biết quý trọng bản thân. Nhiều bằng chứng nghiên cứu đã chỉ ra
rằng lịng tự trọng cao thường có kết quả học tập tốt, có ứng dụng thực tiễn cho
giáo dục.
Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, quá trình hình thành hình ảnh về bản thân
đang dần rõ ràng. Hiểu về lòng tự trọng của bản thân giúp các em cải thiện chất
lượng học tập, hỗ trợ sự phát triển cá nhân, hướng đến thành cơng trong hoạt
động và học tập, là tiêu chí để đồng hành cùng bạn bè, cùng người khác trong
xã hội. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu về lịng tự trọng ở học sinh mang lại lợi ích
cho sự nghiệp giáo dục, có ý nghĩa về mặt khám phá tâm lí học sinh, nâng cao
chất lượng giáo dục, góp phần hướng đến mục tiêu phát huy nguồn nhân lực
cho xã hội.
2
Thực tế hiện nay, tại Việt Nam ít có nghiên cứu cụ thể nào khám phá các
mặt lý luận của chủ đề "lòng tự trọng". Mặt khác, với băn khoăn về yếu tố ảnh
hưởng đến lòng tự trọng của học sinh. Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng này có thể
mang lại những ý nghĩa nhất định trong giáo dục. Bên cạnh đó, các trường
THPT tại thành phố Đà Nẵng nói chung, và trường THPT Trần Phú nói riêng
thì vẫn chưa có đánh giá nào về lịng tự trọng ở các em học sinh.
Từ những thực tế trên, chủ đề “Nghiên cứu về lòng tự trọng của học
sinh THPT Trần Phú thành phố Đà Nẵng” được lựa chọn làm đề tài nghiên
cứu.
2.
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu nhằm xác định mức độ lịng tự trọng của học sinh trung học
phổ thơng và các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng của học sinh.
3.
Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
3.1
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về lòng tự trọng của học sinh trường THPT Trần Phú thành
phố Đà Nẵng.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trường THPT Trần Phú, thành phố Đà Nẵng.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề nghiên cứu: Ở giới hạn của đề tài, khóa luận nghiên cứu làm rõ
về mức độ lòng và các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng của học sinh trường
THPT Trần Phú thành phố Đà Nẵng.
- Về không gian: Tiến hành khảo sát tại trường THPT Trần Phú.
- Về thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2016 đến tháng 4/2017.
3
4. Giả thiết nghiên cứu
- Lòng tự trọng ở học sinh THPT có mức độ chưa cao.
- Các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự trọng ở học sinh chủ yếu bắt
nguồn từ đánh giá tiêu cực của chính các em về bản thân mình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về những vấn đề lý luận liên quan đến lòng tự trọng, học sinh
THPT.
- Tổ chức khảo sát thực trạng lòng tự trọng của học sinh THPT Trần Phú
thành phố Đà Nẵng. Tìm hiểu yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự trọng của học sinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: Thu thập tài
liệu, tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngồi nước có liên quan đến
đề tài, khái quát và xây dựng cơ sở lý thuyết cho đề tài.
- Phương pháp điều tra bằng thang đo Rosenberg, bằng bảng hỏi điền từ.
- Phương pháp xử lý và phân tích số liệu định lượng, định tính: Sử dụng
toán học và phần mềm Excel, SPSS để xử lý và phân tích kết quả thu được
nhằm có những đánh giá chính xác về kết quả với độ tin cậy rõ ràng. Kết hợp
với các phương pháp thống kê, phân loại, quy nạp và phân tích các dữ liệu định
tính.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có các phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu
tham khảo, phụ lục, và nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lòng tự trọng.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
4
Chương 1: CƠ SỎ LÍ LUẬN VỀ LỊNG TỰ TRỌNG
1.1
Tổng quan nghiên cứu về lòng tự trọng
1.1.1 Nghiên cứu về lòng tự trọng trên thế giới
Kể từ khi vấn đề tâm trí con người được quan tâm mạnh mẽ trở lại vào
thế kỷ 19, sự ứng dụng khoa học xã hội vào đời sống lại ngày càng thêm phát
triển. Những đánh giá ban đầu về các giai đoạn phát triển của lứa tuổi vị thành
niên khơng chỉ góp phần gây dựng nền tảng tâm lý học phát triển, mà còn dẫn
đường cho các nhà tâm lí học xã hội đến với việc khám phá thành phần tâm lí
của yếu tố tự thân (self) và lòng tự trọng (self-esteem).
Lịch sử nghiên cứu lịng tự trọng có thể chính thức mở ra từ William
James (1890), với nghiên cứu phát triển khái niệm lòng tự trọng. Khoảng thời
gian lịch sử này cũng song song với sự kiện Stanley Hall (1904) phân định giới
hạn cho lứa tuổi vị thành niên, tách biệt so với các lứa tuổi khác. Bởi thế kỷ
trước đó, quan điểm tuổi vị thành niên không được coi là một giai đoạn khác
của cuộc sống con người (Cá nhân tiến triển theo thời thơ ấu đến trưởng thành).
Khái niệm đầu tiên về lòng tự trọng xuất hiện trong bài viết của William
James vào cuối thể kỷ 19. Các nghiên cứu của James về lịng tự trọng được dựa
trên nội quan. Ơng mô tả về tự thân xã hội qua việc cá nhân thừa nhận những
cảm nhận về chính bản thân mình, và những cảm nhận này nảy sinh trong sự
tương tác giữa mình với người khác.
Theo William James, sự tự cảm nhận của con người trong thế giới này
hoàn toàn phụ thuộc vào những gì chúng ta có được và làm được. Lòng tự trọng
được xác định bằng tỷ lệ của những khả năng thực tế, tỷ lệ này có mẫu số là
những kỳ vọng của chúng ta và tử số là những thành cơng của chúng ta. Một
phân số có thể được tăng lên bằng cách giảm mẫu số và tăng tử số.
5
Hình 1.1: Tỷ lệ đánh giá lịng tự trọng theo William James
Theo định nghĩa này, khái niệm về lòng tự trọng là linh động, dẫn đến
kết quả có thể điều khiển được. Nhiều ý tưởng ban đầu của James vẫn còn được
nghiên cứu trên mặt lý thuyết và phương pháp luận trong ngành tâm lý học xã
hội hiện nay (Smith - Lovin).
Trong những năm đầu thế kỷ 20, các nghiên cứu sâu về quá trình tâm
thần, cảm xúc và cảm giác được thay thế bởi các nghiên cứu có mục tiêu cụ
thể, nghiên cứu thông qua các thực nghiệm về hành vi quan sát được trong mối
quan hệ với môi trường. Chủ nghĩa hành vi đưa con người vào những thực
nghiệm ngang hàng như với hành vi động vật và đề nghị xem tâm lý học như
một khoa học thực nghiệm, tương tự như hóa học hay sinh học. Kéo theo hệ
quả là các thử nghiệm lâm sàng về lòng tự trọng đã bị bỏ qua, kể từ khi các nhà
hành vi cho rằng yếu tố ý tưởng khó có thể được đo lường nghiêm ngặt [8].
Đến giữa thế kỷ 20, sự phát triển của hiện tượng luận và tâm lý học nhân
văn đã kéo theo sự quan tâm về lịng tự trọng. Lịng tự trọng đóng một trị trung
tâm trong quá trình cá nhân tự hiện thực bản thân và trong điều trị các rối loạn
tâm lý. Một lĩnh vực hữu ích trong khoa học tâm lý lúc bấy giờ là xem xét các
mối quan hệ giữa tâm lý trị liệu với sự thỏa mãn của một người có lòng tự trọng
cao. Điều này dẫn đến các yếu tố mới được giới thiệu, song hành cùng các khái
niệm về lòng tự trọng, bao gồm cả những lý do tại sao mọi người có xu hướng
cảm thấy ít xứng đáng và lý do tại sao mọi người trở nên chán nản hoặc không
thể đáp ứng được những thách thức của mình.
6
Nhiều lý thuyết đầu gợi ý rằng lòng tự trọng là một nhu cầu cơ bản của
con người, cũng như là động cơ. Abraham Maslow (1943) đã đưa lòng tự trọng
vào hệ thống tháp nhu cầu của mình. Ơng mơ tả hai dạng khác nhau của "tự
trọng": (1) Nhu cầu tơn trọng từ những người khác dưới hình thức cơng nhận,
thành công, và ngưỡng mộ, và (2) nhu cầu của lịng tự trọng trong các hình thức
tự u thương, sự tự tin, kỹ năng, hoặc năng khiếu. Tôn trọng từ những người
khác bên ngồi được cho là ít bền vững hơn và dễ biến mất hơn là tôn trọng
đến từ bên trong cá nhân (lòng tự trọng). Theo Maslow, thiếu những đáp ứng
cho nhu cầu về tự trọng, cá nhân sẽ được định hướng để tìm kiếm nó, và việc
thỏa mãn nhu cầu tự trọng ảnh hưởng đến sự phát triển và q trình tự hiện thực
hóa của cá nhân.
Một quan điểm nhân văn khác là của nhà tâm lí trị liệu Nathaniel Branden
(1969). Branden xác định lòng tự trọng dựa theo sự xứng đáng và năng lực.
Lòng tự trọng là một nhu cầu cơ bản của con người. Thiếu nó, có thể dẫn đến
hậu quả tiêu cực nghiêm trọng như lạm dụng thuốc, tự tử, lo âu và trầm cảm.
Ơng cho rằng, lịng tự trọng vốn có tính năng động một cách tự nhiên và nó liên
quan đến khả năng sống của con người, theo một cách nào đó để tôn vinh quan
điểm của chúng ta.
Theo phương pháp phân tâm học, tâm động học, Robert White (1963)
tiếp cận lòng tự trọng một hiện tượng phát triển. Sự phát triển của lòng tự trọng
chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm và hành vi. Robert White cho rằng lịng tự
trọng có hai nguồn: Một nguồn bên trong (thành tích của riêng cá nhân) và
nguồn bên ngoài (khẳng định từ người khác). Tuy có những cơ sở xem xét năng
lực là trung tâm của lòng tự trọng, tuy nhiên lý thuyết của White chưa xác định
được bằng giá trị thực nghiệm.
Năm 1965, tại Hoa Kỳ diễn ra giai đoạn lịch sử là việc thơng qua đạo
luật Di trú. Từ đó, các nhà tâm lý học xã hội Hoa Kỳ đã bắt đầu tìm hiểu sâu
7
hơn về lịng tự trọng. Bởi họ nhận ra có sự tương quan của lòng tự trọng trong
các bối cảnh văn hóa, sắc tộc khác nhau. Lý thuyết của Morris Rosenberg ra
đời 1960, và đóng vai trị quan trọng cơ sở về lòng tự trọng theo hướng tâm lý
học xã hội. Nghiên cứu của ơng đã tái sinh q trình tìm hiểu về lịng tự trọng
lúc bấy giờ. Mơ hình lòng tự trọng Rosenberg (RSES) nghiên cứu về lòng tự
trọng trên toàn cầu và được sử dụng phổ biến trong các biện pháp đo lường về
lòng tự trọng, nhát là trong khoa học xã hội (Baumeister, Roy F.; Smart, L.;
Boden, J., 1996).]
Stanley Coopersmith (1967) đưa ra quan điểm về lòng tự trọng theo
hướng hành vi. Coopersmith cho rằng lòng tự trọng là thái độ và và biểu hiện
của sự xứng đáng. Nó cũng liên quan đến sự lo âu và trầm cảm. Thành công,
cũng như giá trị bản thân được xem như là chỉ báo của lòng tự trọng
(Christopher J. Mruk, 1995). Lòng tự trọng là một cấu trúc hay một đặc điểm
có được khi cá nhân học cách để trở nên xứng đáng (có giá trị) với cha mẹ. Đặc
điểm này cũng được củng cố bởi những người khác. Các quan điểm này được
rút ra từ những kỹ thuật quan sát trong các tình huống có kiểm sốt, từ nghiên
cứu các trường hợp và các cuộc phỏng vấn.
Baumeister, Roy F.; Smart, L.; và Boden, J. (1996) cho rằng lòng tự trọng
rất quan trọng vì nó cho thấy bản thân mình như thế nào. Nó cho phép xem
cách chúng ta đang có và ý nghĩa của giá trị cá nhân của chính chúng ta. Vì
vậy, nó ảnh hưởng đến cách hành động trong thế giới và sự liên quan của chúng
ta đến tất cả mọi người khác.
1.1.2 Nghiên cứu về lòng tự trọng tại Việt Nam
Lòng tự trọng là vấn đề được giới khoa học chuyên tâm nghiên cứu phổ
biến trên thế giới, song tại Việt Nam thì cịn khá hạn chế. Những tìm hiểu nổi
bật có thể kể đến là “Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và
lòng tự trọng ở học sinh trung học cơ sở” của tác giả Đỗ Thị Thảo (2013). Đề
8
tài đã chỉ mối liên quan của lòng tự trọng với giới tính và học lực; cũng như
ảnh hưởng của phong cách cha mẹ đến lòng tự trọng của trẻ.
Võ Nhật Huy và cộng sự (2015) có nghiên cứu về “Lòng tự trọng và mục
tiêu cuộc sống của trẻ mồ côi ở lứa tuổi vị thành niên: Nghiên cứu so sánh với
trẻ sống cùng cha mẹ.
Lâm Lai Hưng có ấn phẩm mang tên “Lòng tự trọng”, ấn hành trên Bản
tin Tâm lý học Đơng Tây, số 3/Tháng 08/2013, đã trình bày những nét tổng
quan về lòng tự trọng, cũng như những nghiên cứu về lòng tự trọng cao, và thấp
hiện đang phổ biến trên thế giới.
1.2 Những vấn đề lý luận về lòng tự trọng
1.2.1 Khái niệm lòng tự trọng
William James trong tác phẩm “Những nguyên tắc cơ bản của Tâm lý
học” (1890) quan niệm lòng tự trọng như một năng lực thực tế, được xác định
bởi tỉ số giữa thực tế và tiềm năng giả định. Cụ thể của tỉ số này có mẫu số là
kỳ vọng (ước muốn) và tử số là thành cơng.
Định nghĩa lịng tự trọng của William James đề cập đến năng lực thực
tế. Khi nói đến năng lực ta liền hình dung từng năng lực cụ thể ở trong những
lĩnh vực và hoàn cảnh cụ thể. Trong mỗi lĩnh vực nếu mức độ thành cơng cao
hơn kỳ vọng thì lịng tự trọng sẽ được nâng cao, ngược lại nếu mức độ thành
công thấp hơn kỳ vọng thì lịng tự trọng sẽ giảm xuống (Mruk, 2006, tr.13).
Số lượng thành công hay thất bại của một người có thể thay đổi, điều này
có nghĩa rằng lịng tự trọng cũng là một hiện tượng năng động và phải được
duy trì, đặc biệt là trong thời kỳ thách thức hay đe dọa. Điều quan trọng nhất
của chúng ta là cố gắng duy trì, bảo vệ và nâng cao lòng tự trọng bằng cách cố
9
gắng có được thành cơng và tránh thất bại trong những lĩnh vực mà mình đã
đặt cược phẩm giá của mình trên đó (Mruk, 2003, tr 291).
Stanley Coopersmith lịng tự trọng là sự đánh giá cá nhân về giá trị bản
thân, thể hiện bằng thái độ của người đó đối với chính bản thân mình. Quan
niệm này đã đề cập đến sự đánh giá bản thân mà cá nhân đưa ra và giữ vững
với thái độ coi trọng.
Nathaniel Branden đã định nghĩa lòng tự trọng theo (1) Sự tin tưởng vào
khả năng của chính mình để suy nghĩ và đương đầu với thử thách cuộc sống;
(2) Sự tin tưởng vào quyền được hạnh phúc, cảm giác mình có giá trị, mình
xứng đáng, quyền được địi hỏi những điều mình muốn và được hưởng thụ
thành quả những nỗ lực, cố gắng của bản thân.
Lòng tự trọng là một yếu tố trong nhân cách có ảnh hưởng lớn đến nhận
thức, cảm xúc và hành vi của mỗi cá nhân. Lòng tự trọng được hiểu như là cách
mà chúng ta cảm nhận về mình trong thế giới này. Có nhiều định nghĩa đã được
nhiều tác giả đề cập đến theo các hướng tiếp cận theo khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên trên căn bản có hai kiểu định nghĩa về lịng tự trọng. Đó là kiểu định
nghĩa lòng tự trọng như là năng lực, và định nghĩa lòng tự trọng như là sự xứng
đáng.
Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài, cùng với phạm vi nghiên cứu, lý thuyêt
của Rosenberg và các cộng sự (1960) được lựa chọn làm khái niệm chìa
khóa đề thực hiện đề tài.
Lòng tự trọng đề cập chung nhất để đánh giá tổng thể tích cực của bản
thân cá nhân (Gecas 1982; Rosenberg 1990; Rosenberg et al 1995).
Morris Rosenberg (1960) và các nhà lý thuyết học tập xã hội xác định
lòng tự trọng theo cảm giác ổn định giá trị cá nhân, như sự xứng đáng.
10
Lòng tự trọng đối với bản thân mỗi con người, có hai mặt quan hệ với nhau
gồm:
(1) Ý thức về khả năng (tính hiệu quả)
(2) Ý thức về giá trị bản thân (thái độ tự trọng)
Theo sự trải nghiệm tâm lý học một cách đầy đủ, lòng tự trọng là sợi dây
liên hệ hai mặt của một vấn đề.
Khả năng là sự hiểu biết và tin tưởng vào bản thân, vào suy nghĩ, cách
thức mà chúng ta phán đoán, lựa chọn hay đưa ra quyết định; tin tưởng vào khả
năng của bản thân để từ đó có thể hiểu được những nhu cầu và đam mê của
mình. Hiểu biết về bản thân năng lực, trình độ để từ đó có những hành động
phù hợp với bản thân. Ý thức về khả năng còn thể hiện qua sự hiệu quả của
hoạt động, sự thành công mà con người đạt được trong hoạt động, khi con người
hiểu về bản thân mình.
Thái độ tự trọng có nghĩa là sự hình thành một thái độ tích cực hay tiêu
cực về chính mình, tin tưởng vào giá trị bản thân, và cảm thấy mình có giá trị,
xứng đáng. Thái độ tự trọng còn thể hiện qua sự quyết đoán đưa ra những suy
nghĩ, những nhu cầu, và có những niềm vui một cách tự nhiên chứ không phải
do cố gắng tạo ra. Một cách cụ thể, khi cá nhân cảm thấy mình khơng đủ khả
năng đối mặt với thử thách cuộc sống, không tin tưởng vào khả năng của mình,
chúng ta sẽ nhận ra ở người đó thiếu lịng tự trọng.
Khả năng của bản thân và thái độ tự trọng là hai yếu tố tạo nên lòng tự
trọng cao. Thiếu một trong hai, lòng tự trọng bị giảm bớt. Chúng chỉ rõ đặc
điểm mang tính giới hạn của lịng tự trọng. Chúng khơng chỉ miêu tả nguồn gốc
hoặc hai mặt của lòng tự trọng mà còn miêu tả bản chất lòng tự trọng. Thái độ
tự trọng khuyến khích chúng ta rộng lượng hơn, ý thức cộng đồng cao hơn, thể
hiện tính độc lập và coi trọng lẫn nhau. Nhu cầu về lòng tự trọng xuất phát từ
11
thực tế: Nhận thức của con người tự nguyện phục vụ cho nhiệm vụ duy nhất đó
là giúp bản thân có đủ khả năng đối mặt với thử thách cuộc sống. Chúng ta sẽ
đạt được điều này nếu sống một cách có ý thức, trách nhiệm. Lịng tự trọng đi
đơi với khả năng, con người đánh giá một cách cơ bản về cuộc sống và hoạt
động trí tuệ ẩn chứa sau cách ứng xử của mình. Làm tốt điều này giúp cá nhân
có thể dễ dàng nhận thức được sai lầm trong định giá giá trị bản thân - những
tiêu chuẩn như sự yêu mến của mọi người dành cho mình, sự ảnh hưởng, sự
giàu sang hay sắc đẹp.
Rosenberg lưu ý rằng, lịng tự trọng cao khơng nhất thiết là cảm giác về
bản thân là tốt hơn so với những người khác, mà cịn thể hiện qua việc bản thân
khơng tự nhận về mình là tồi tệ hơn những người khác. Những người có lịng
tự trọng thấp thường liên quan đến sự "tự đào thải, tự bất mãn," và "tự khinh"
(Rosenberg 1965, p. 31).
Vậy có thể khái quát lại về khái niệm lòng tự trọng, lòng tự trọng là sự
ý thức, đánh giá của cá nhân về khả năng và giá trị của bản thân mình. Điều
này thể hiện qua tính hiệu quả trong hoạt động và thái độ của cá nhân về
bản thân mình.
Lịng tự trọng làm chúng ta nhận thức về mình như là một người có giá
trị, và cảm giác điều khiển mang lại sự nhận thức về bản thân như một người
có hiệu quả. Những người cảm thấy mình như đang được điều khiển, vận hành
cuộc sống của họ, thơng thường cũng xem mình là con người giá trị. Tuy nhiên,
có sự khác biệt. Thanh thiếu niên có thể nhìn thấy chính mình là một người tốt,
cũng được tôn trọng của người khác, nhưng vẫn tin rằng những kết quả quan
trọng nhất trong cuộc sống là ngồi tầm kiểm sốt của mình.
1.2.2 Đặc điểm của lịng tự trọng cao và lịng tự trọng thấp
Thơng thường đối với lòng tự trọng, các nhà nghiên cứu thường phân
chia thành lòng tự trọng thấp và lòng tự trọng cao. Có sự khác biệt rõ ràng về
12
cách thức mà những người mang lòng tự trọng cao hoặc thấp này thực hiện
hành động hoặc ra quyết định. Với lịng tự trọng cao, một người có nhiều khả
năng tồn tại trong khi đối mặt với khó khăn. Với người có lịng tự trọng thấp,
họ có khả năng bỏ cuộc hoặc thông qua việc cố gắng hành động mà những hành
động đó khơng thực sự là lựa chọn tốt nhất cho họ. Những người có lịng tự
trọng cao sẽ kéo dài một nhiệm vụ lâu hơn một cách đáng kể so với người có
lịng tự trọng thấp (Branden, 1994). Người có lịng tự trọng cao dường như tự
định hướng và độc lập nhiều hơn so với người có lịng tự trọng thấp. Người có
lịng tự trọng cao thường đón nhận thơng tin phản hồi và có thể nhận thức được
nhiều tình huống thực tế, người lịng tự trọng thấp có xu hướng thận trọng hơn,
tự bảo vệ mình và bảo thủ hơn người có lịng tự trọng cao (Guindon, 2010,
trang 18). Người có lịng tự trọng khơng ổn định rất nhạy cảm với những thông
tin phản hồi, khi một người có lịng tự trọng khơng ổn định nhận được phản hồi
tiêu cực, lòng tự trọng của họ giảm phản ứng với những thông tin phản hồi này
hơn đối với những người có lịng tự trọng ổn định (Guindon, 2010).
Theo Rosenberg và Owen (2001) cũng có những nhận định về hai kiểu
mẫu của lịng tự trọng. Những người có lịng tự trọng thấp nhạy cảm hơn người
khác đối với những kinh nghiệm có nguy cơ gây thiệt hại đến lịng tự trọng của
họ. Họ có nhiều khó khăn đối với những lời chỉ trích và phản ứng cảm xúc
nghiêm trọng hơn đối với sự thất bại. Ngồi ra, họ có nhiều khả năng để phóng
đại các sự kiện tiêu cực hoặc nhận thấy những nhận xét vốn dĩ không quan
trọng là quan trọng. Những người có lịng tự trọng thấp thường cảm thấy ám sợ
xã hội nhiều hơn những người khác. Những người có lịng tự trọng thấp thiếu
sự tự tin khi ở trong mối quan hệ tương tác với người khác. Họ thường cảm
thấy ngượng ngùng, nhút nhát, lộ liễu, và không thể thể hiện được bản thân một
cách đầy đủ khi tương tác với người khác.
13
Branden (1994) mô tả sự khác biệt về cách nghĩ của người có lịng tự
trọng cao và thấp:
Những người có lịng tự trọng cao tìm kiếm những thách thức và kích
thích có giá trị và địi hỏi một mục tiêu. Việc đạt được mục tiêu như vậy chính
là nguồn ni dưỡng tốt cho lòng tự trọng. Đối với những người có lịng tự
trọng thấp thì họ tìm kiếm sự an tồn trong sự quen thuộc và khơng đặt ra các
u cầu. Nhốt bản thân trong sự quen thuộc và không đặt ra các u cầu góp
phần làm suy yếu lịng tự trọng. Với lòng tự trọng cao hơn, chúng ta cởi mở
hơn, trung thực hơn và giao tiếp phù hợp với con người của chúng ta, bởi vì
chúng ta tin rằng suy nghĩ của chúng ta có giá trị và do đó chúng ta hoan nghênh
nó nhiều hơn là sợ hãi nó. Với lịng tự trọng thấp hơn thì chúng ta khập khiễng,
lảng tránh, sự giao tiếp của chúng ta không được phù hợp với con người của
chúng ta, bởi vì chúng ta khơng chắc chắn về những suy nghĩ, cảm xúc và/ hoặc
lo lắng về phản ứng của người nghe (trang 6).
Trong quyển “You can read anyone” của tiến sĩ David J.Lieberman
(2007) tổng hợp và phân biệt khá rõ ràng và ngắn gọn các đặc điểm của người
có lịng tự trọng thấp và người có lịng tự trọng cao.
Bảng 1.1 Đặc điểm của người có lịng tự trọng cao và người có lịng tự
trọng thấp
Người có lịng tự trọng cao
Người có lịng tự trọng thấp
• Muốn làm những việc đúng đắn bất • Muốn làm những việc mình thích, để
chấp cảm giác của mình.
cho tâm trạng kiểm sốt.
• Có khả năng kiềm chế bản thân.
• Thiếu khả năng kiềm chế bản thân.
• u q bản thân mình.
• Khơng u q bản thân mình.
• Hành động nhằm đáp ứng nhu cầu về • Là những người bồng bột, chưa chín
lâu dài. Họ tìm thấy niềm vui trong chắn và dể dàng bị hấp dẫn bởi những
14
những điều có ý nghĩa lớn lao hơn và nhu cầu nhất thời mà bỏ quên nhu cầu
chấp nhận đánh đổi bằng những nhu lâu dài có lợi cho bản thân. Nếu họ thấy
cầu trước mắt mang tính ngắn hạn.
nhu cầu nào nếu được đáp ứng sẽ mang
lại sự thỏa mãn ngay lập tức thì họ sẽ
chọn nhu cầu đó.
• Họ tự tin hơn về khả năng và suy nghĩ • Họ bồng bột, theo nhu cầu và chú ý đến
cũng như hành động của mình. Đặc biệt suy nghĩ của mọi người về họ, cũng như
là trong việc thích nghi với hoàn cảnh tới biểu hiện của họ.
mới. Họ có thể nhận thức rõ ràng hơn
và nhất là khơng bị chi phối bởi suy
nghĩ mình có thể thất bại.
• Họ ít để tâm đến cơng sức cần bỏ ra • Cho dù là để làm điều đúng họ cũng
để làm điều đúng.
ngần ngại nếu phải tốn cơng sức.
• Có giá trị và lịng tin cao và vững • Có giá trị, lịng tin thấp và khơng vững,
chắc.
dễ mất lịng tin.
• Dù đã bỏ nhiều cơng sức vào một việc • Khi đã bỏ nhiều công sức vào một việc
nhưng họ vẫn có thể dứt khốt từ bỏ nào đó thì sẽ khó dứt bỏ được nó và
được khi cảm thấy đó là việc làm đúng. thường viện đủ lí do để bào chữa cho
việc họ khơng bỏ được.
• Ít bị ảnh hưởng bởi tâm trạng.
• Bị ảnh hưởng nhiều tới tâm trạng.
• Nếu sai hay thất bại họ có thể chấp • Nếu sai hay thất bại họ khơng thể chấp
nhận nó.
nhận và dùng mọi cách để bào chữa,
biện hộ hay hợp lý hóa những sai lầm
của mình.
"Nguồn: David J.Lieberman (2007), You can read anyone, Viter Press
Publisher."
15
Từ các lý thuyết của đề tài, có thể khái quát lại đặc điểm của lòng tự
trọng cao như sao:
- Biểu hiện qua thái độ đối với bản thân:
+ Thái độ hài lịng, tin tưởng với bản thân.
+ Tơn trọng bản thân và có thái độ tích cực, tự hào với chính mình.
+ Cảm nhận được những giá trị tích cực, phẩm chất tốt đẹp của mình
hoặc cảm nhận được giá trị của mình trên phương diện với người khác..
- Biểu hiện qua hiệu quả hoạt động:
+ Cảm thấy và cơng nhận bản thân hữu dụng, có ích.
+ Chấp nhận kết quả hoạt động của bản thân và ghi nhận sự thành cơng
của mình.
+ Tham gia và hăng hái trong những hoạt động, sở thích của mình.
Những biệu hiện ngược ngại thể hiện đặc điểm của lòng tự trọng
thấp, gắn với:
- Thái độ: Tiêu cực, khơng hài lịng và hạ thấp giá trị bản thân, thất vọng
về mình (chủ nghĩa hoàn hảo), dễ thù hận hoặc tức giận.
- Hoạt động: Khơng có khả năng tận hưởng đời sống, sở thích, nghiêm
trọng hóa thất bại của bản thân, cảm giác bị tấn cơng.
1.2.3 Vai trị của lịng tự trọng
Nhìn chung, có nhiều lợi ích khi óc một cái nhìn tích cực về chính bản
thân mình. Những người có lịng tự trọng được cho là có tâm lý hạnh phúc và
khỏe mạnh (Branden, 1994, Taylor & Brown, 1988), trong khi những người có
lịng tự trọng thấp được cho là có vấn đề về tâm lý và thậm chí là dễ suy sụp
(Tennen & Affeck, 1993).
16
Abraham Maslow (1908 - 1970) đã nhận định rằng yếu tố quan trọng để
đảm bảo sức khỏe tâm lý con người là sự chấp nhận, yêu mến và tôn trọng
những giá trị cốt lõi trong bản thân họ. Sự công nhận này là từ chính bản thân
mỗi người, và cả từ những người khác. Lòng tự trọng cho phép mọi người đối
mặt cuộc sống với nhiều niềm tin, lòng nhân từ và sự lạc quan, và do đó dễ
dàng đạt được mục tiêu của họ và tự hiện thực hóa bản thân (Nathaniel Branden,
1990).
Lí thuyết phân bậc các nhu cầu của A.Maslow đã chia hệ thống nhu cầu
của con người thành 5 thứ bậc, được sắp xếp theo thứ tự tăng dần từ nhu cầu
thấp nhất đến cao nhất: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an tồn, nhu cầu u thương
(gọi chung là nhóm nhu cầu thiếu hụt), nhu cầu tự trọng, và nhu cầu tự thể hiện
bản thân (gọi chung là nhóm nhu cầu phát triển). Lịng tự trọng nằm ở nhu cầu
tơn trọng. Lịng tự trọng là (1) thể hiện từ chính bản thân con người, bao gồm
nguyện vọng muồn giành được lịng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích,
độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện và (2) địi
hỏi nhận được sự tơn trọng từ những người khác, chẳng hạn như khả năng giành
được uy tín, được thừa nhận, có địa vị, có danh dự đánh giá cao, được tin tưởng.
Con người có nhu cầu tơn trọng, nhu cầu được đánh giá cao, bền vững và có cơ
sở vững chắc về mình từ những người khác vì sự tơn trọng và tự đánh giá về
mình. Khi nói về tính bền vững dựa trên khả năng tự đánh giá, Maslow có ý
nói rằng điều này dựa trên khả năng và thành tích có thực và dựa trên sự tơn
trọng của những người khác. Lịng tự trọng là một nét tính cách quan trọng và
rất bền vững, có liên quan chặt chẽ với những thuộc tính nhân cách còn lại.
Càng ngày nghiên cứu của các nhà tâm lý học càng đánh giá cao ý nghĩa và
tầm quan trọng của nhóm nhu cầu này trong nhân cách của con người. Nhiều
giả thuyết cho rằng lòng tự trọng là một nhu cầu cơ bản của con người hoặc
động cơ thúc đẩy con người hoạt động chiếm lĩnh các giá trị.
17
Branden (Nathaniel Branden, 1994) xác định lòng tự trọng dựa trên cơ
sở khách quan tin rằng con người có một nhu cầu cơ bản để cảm thấy có giá trị
(xứng đáng), nhưng việc đó chỉ có thể đạt được bằng năng lực hành động
(Mruk, 2006, tr. 19). Lòng tự trọng tạo cho mỗi người sự tự tin trong khả năng
suy nghĩ, tự tin trong khả năng đối phó với những thách thức cơ bản trong cuộc
sống. Tin tưởng rằng chúng ta có quyền thành cơng và hạnh phúc, cảm thấy
mình có giá trị và xứng đáng, có quyền khẳng định nhu cầu và mong muốn của
chúng ta, đạt được các giá trị của chúng ta, và tận hưởng những thành quả từ
những nỗ lực của chúng ta (1994, trang 4). Lòng tự trọng thuyết phục mỗi người
rằng họ xứng đáng được hạnh phúc. Hiểu được điều này là cơ bản và có lợi, vì
sự phát triển của lịng tự trọng làm nâng cao khả năng đối xử giữa người này
với người khác trong sự tơn trọng, lịng nhân từ và thiện chí. Từ đó, ưu thế cho
các mối quan hệ giữa các cá nhân thêm giàu có và tránh những điều làm tan vỡ,
hủy hoại mối quan hệ. Theo Erich Fromm, tình yêu của những người khác và
tình yêu của mình khơng phải là giải pháp. Ngược lại, một thái độ u thương
đối với chính mình sẽ được tìm thấy trong tất cả những người có khả năng yêu
thương người khác.
Khác với tăng hạnh phúc, cao hơn lòng tự trọng cũng được biết đến là có
tương quan với khả năng tốt hơn để đối phó với sự căng thẳng và một khả năng
cao hơn mà các cá nhân có các nhiệm vụ khó khăn so với những người có lịng
tự trọng thấp (Schacter, Daniel L.; Gilbert, Daniel T.; Wegner, Daniel M.,
2009).
Lòng tự trọng cho phép sáng tạo tại nơi làm việc, và là một điều kiện đặc
biệt quan trọng đối với nghề dạy học (Miranda, 2005).
1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến lịng tự trọng
Theo Harter, hai yếu tố đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển
và duy trì lịng tự trọng ở trẻ em và thanh thiếu niên: (1) Năng lực nhận thức
18