ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 18 – XDĐ. “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức,
phải thường xuyên tự đổi mới tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”.
Đồng chí hãy phân tích :
-Nội dung, vị trí về mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức -Ý
nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối với yêu cấu tiếp tục đổi mới, chỉnh đôn Đảng trong giai đoạn CM hiện nay
Kể từ khi mới ra đời. Đảng ta ln khẳng định BCGCCN của mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong cơng tác xây dựng Đảng, được quán triệt trong toàn bộ Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ nội
dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Điều lệ Đảng nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Điều đó có nghĩa, Đảng Cộng Sản Việt Nam đứng vững trên lập
trường, quan điểm của GCCN, quyết tâm phấn đấu thực hiện mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là
chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu đó bảo đảm lợi ích của GCCN đồng thời cũng thống nhất với lợi ích của nhân dân
lao động, của cả dân tộc. Đảng tập hợp, đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các nhiệm vụ,
mục tiêu của cách mạng. Về BCGCCN của Đảng, Đảng ta xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ
mệnh lịch sử của GCCN: Đó là GC hình thành, phát triển cùng với đại công nghiệp, đại biểu cho phương thức
sản xuất mới tiến bộ, có tinh thần cách mạng triệt để và tính tổ chức cao. GCCN có hệ tư tưởng khoa học và
cách mạng, cơ sở lý luận tiên tiến hướng dẫn, đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Là GC bị GC tư sản bóc lột nặng nề
nên có điều kiện liên minh với GC nơng dân và quần chúng lao động để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã
hội mới khơng có áp bức, bóc lột. Đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Về Chính Trị Giữ vững và tăng cường BCGCCN là vấn đề cơ bản, bao trùm, có tính nguyên tắc đối với
tất cả các Đảng Mác xít- Lênin nít chân chính. Điều đó càng đặc biệt quan trọng đối với được ta- một Đảng ra
đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, GCCN còn nhỏ bé, Đảng
viên xuất thân từ CN không nhiều.
Ai cũng biết rằng bất kỳ một Đảng chính trị nào cũng là sản phẩm của đấu tranh GCvà mang bản chất
một GCnhất định. Dù tổ chức chặt chẽ hay lỏng lẻo, hoạt động cách mạng hay nghị trường (ở một số nước tư
bản)…, Đảng nào cũng đứng trên lập trường của một GC nhất định, không như thế khơng phải là một chính
đảng.
Nói BCGCCN là nói bản chất cách mạng và khoa học, ý chí kiên định và trí tuệ tiên phong, đạo đức vị
tha và ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ,… của GCCN- hơn nữa, của GCCN hiện đại, GCCN đang được trí thức
hóa. BCGCCN của được thấm sâu vào tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, tức là cả trong đường lối
chính trị, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và mọi hoạt động của Đảng.
Nói về bản chất GCcủa Đảng, Chủ tịch HCM khẳng định: Đảng Cộng Sản Việt Nam là Đảng của
GCCN, mang bản chất GCCN, “Đảng là đội tiền phong của GC vô sản”, là “đội quân tiên phong của đạo quân
vô sản”, là “Đảng của GC vô sản”. Đảng phải tập hợp được trong hàng ngũ của mình những người trong
GCCN, thủ cơng nghiệp, nơng dân nghèo, binh lính… miễn là những người đó “tin theo chủ nghĩa cộng sản,
cương lĩnh của Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và
đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong 1 bộ phận Đảng”(HCM tồn tập, T3, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr3-5). Người
cho rằng lực lượng mà Đảng cần phải tập hợp để tiến hành cách mạng trước hết là GCCN, kế đến là “đa số
quần chúng nông dân”, “dựa vững chắc vào hạng dân cày nghèo”, đồng thời lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, lợi dụng và lôi kéo phú nông, tư sản bậc trung, trung và tiểu địa chủ. HCM cho rằng: “Đảng Cộng Sản
Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm GCđấu tranh để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm
cho thực hiện xã hội cộng sản”(HCM toàn tập, T3, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr1-5). Những luận điểm đó của
HCM cho thấy, ngay từ khi tuyên bố thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Người đã xác định rõ bản chất
GCcủa Đảng là bản chất GCCN, Đảng Cộng Sản Việt Nam trước hết là Đảng của GCCN Việt Nam. HCM
cũng đã chỉ rõ: “…quyền lợi của GCCN và nhân dân lao động và của dân tộc là 1. chính vì Đảng Lao Động
Việt Nam là Đảng của GCCN và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” (HCM
toàn tập, T6, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr175). HCM cũng cho rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm
quan, phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng” (HCM toàn tập, T5, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr294), Đảng bao giờ cũng là “đội tiên phong dũng cảm và
bộ tham mưu sáng suốt của GC vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” (HCM tồn tập, T11, Nxb
CTQG, HN, 1995, Tr493-494), ln “phấn đấu hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của GCvơ sản, chứ
khơng vì lợi ích nào khác” (HCM toàn tập, T11, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr374).
Giữ vững và tăng cường BCGCCNcủa Đảng trước hết có nghĩa là Đảng phải kiên định quan điểm, lập trường
của GCCN, tuyệt đối trung thành với lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc; phấn đấu cho
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dù tình hình trong nước và thế giới khó khăn, phức tạp đến đâu,
Đảng cũng khơng chao đảo, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng đó.
Về Tư Tưởng Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động. Trong tình hình hiện nay, phải kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM; vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể nước ta để hoàn chỉnh cương lĩnh, đường lối; và từ thực tiễn mà tổng kết, khái
quát, bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm học thuyết cách mạng và khoa học đó- vũ khí tinh thần của
GCCN có giác ngộ cách mạng. BCGCCN địi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn đồn
kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với bản chất GCCN.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, lãnh đạo xây dựng và làm nịng cốt trong khối đại đồn
kết tồn dân. BCGCCN khơng tương dung với chủ nghĩa phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại nó địi
hỏi phải có tư tưởng thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân và tập thể, bộ phận
và toàn cục.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của GCCN; kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trên thực tế Đảng đã phấn đấu hy sinh vì lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc. Được chẳng
những thường xuyên giữ vững và nâng cao BCGCCN mà còn chú ý học tập, tiếp thu, phát triển tinh hoa và
truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt Nam. chính truyền thống dân tộc đã nhân lên sức mạnh
của Đảng. Đảng thực tế đã trở thành lãnh tụ của cả dân tộc. Sức mạnh của Đảng là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn
hệ tư tưởng tiên tiến của GCCN với khí phách, bản lĩnh, tinh hoa truyền thống dân tộc. Chủ tịch HCM- người
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta- là sự thể hiện đến mức tuyệt vời sự thống nhất giữa lợi ích GC với lợi
ích dân tộc, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội. người chẳng những là lãnh tụ tối cao của Đảng mà
còn là lãnh tụ tối cao của dân tộc. Và như vậy cũng có thể nói rằng, Đảng ta chẳng những là đội tiên phong
chính trị của GCCN, mang bản chất cách mạng và khoa học của GCCN, mà còn là đội tiên phong lãnh đạo của
cả dân tộc, mang trong mình dòng máu và những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc. Đảng phải ra sức phấn đấu để
không ngừng nâng cao và ngày càng đạt đến sự nhuần nhuyễn tính chất GCCN với tinh hoa truyền thống dân
tộc làm thành bản chất đặc sắc của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Về tổ chức GCCN tuy số lượng còn nhỏ bé nhưng GCCN Việt Nam và chính đảng của nó vẫn ln
đứng vững trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn nước ta để đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn. Ví vậy, đảng ta đã giữ vững vai trị lãnh đạo cách mạng Việt Nam. thực tiễn lịch sử hơn 70
năm qua đã chứng minh điều đó. Tuy vậy, GCCN Việt Nam và Đảng của mình cũng thấy rõ những điểm yếu và
hạn chế về nhiều mặt. Việc khắc phục những yếu kém, nhược điểm cũng như việc tăng cường tỷ lệ GCCN
trong Đảng sẽ góp phần tăng cường BCGCCN của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ phát
triển mới- thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để giữ vững và tăng cường BCGCCN của Đảng trong thời kỳ mới, Điều lệ Đảng và VK ĐHĐBTQ lần
thứ VIII của Đảng chỉ rõ: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. trong bất kỳ tình huống nào
cũng khơng dao động, xa rời mục tiêu đó. Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp hần phát triển Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng HCM, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường lối, chủ trương và các
chính sách đúng đắn. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng. Thường xun giáo dục, bồi
dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của GCCN; xây dựng đội ngũ cán bộ và Đảng viên theo quan
điểm của GCCN.Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của GCCN. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Tóm lại BCGCCNcủa Đảng thể hiện trước hết và chủ yếu là thế giới quan, hệ tư tưởng, cương lĩnh,
đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. BCGCCNcủa Đảng bao gồm đầy đủ 06 nội dung
nêu trên còn số lượng GCCN trong Đảng chỉ đóng vai trị quan trọng chứ khơng quyết định BCGCCNcủa
Đảng.
Vì sao Đảng ta lại khẳng định “tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng”. Nội dung chủ yếu của đổi mới
chỉnh đốn Đảng( Ý Nghĩa )
Hiện nay, Đảng ta lại đang hoạt động trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, áp dụng cơ chế
thị trường, mở cửa, mơi trường xã hội có nhiều phức tạp; cán bộ, Đảng viên giữ nhiều trọng trách, hàng ngày
hàng giờ tiếp xúc với hàng và tiền, đối mặt với chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, cần phải chăm lo giữ vững
BCGCCNvà tính tiên phong của Đảng. Nếu khơng nhân thức sâu sắc điều này dễ mơ hồ và Đảng khơng tích
cực rèn luyện thì rất dễ bị biến chất. Vấn đề giữ cho Đảng không biến chất, trước sau đều là Đảng cộng sản,
Đảng cách mạng chân chính, Đảng hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, là
vấn đề hết sức cơ bản và quyết định. Đại hội VIII của được coi “Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với
Đảng ta lúc này”.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh - nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo
vệ Tổ quốcThắng lợi của cách mạng Việt Nam những năm qua là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng
nhân tố hàng đầu, quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta - đội tiên phong chiến đấu
dày dạn kinh nghiệm của giai cấp công nhân (GCCN) và dân tộc Việt Nam.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Đảng
đã nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), kết hợp thành công khoa học cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin với nghị lực chiến đấu và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, khơi dậy và phát
huy được tiềm năng và truyền thống quý báu của dân tộc, nắm bắt và tổng kết được những hoạt động thực
tiễn sáng tạo của quần chúng vào tiến trình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng qua từng thời kỳ.
Trong sự nghiệp đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) của nền kinh tế và mọi hoạt động xã hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì khơng
thể có CNXH. Lúc bình thường vai trò lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn
thì vai trị lãnh đạo của Đảng càng đặc biệt tăng lên. Thực tế ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy,
chỉ cần một chút dao động, mơ hồ, hạ thấp hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là đất nước đi chệch quỹ
đạo của CNXH; và khi Đảng mất vai trị lãnh đạo thì CNXH khơng cịn, đất nước ngả sang con đường tư bản
chủ nghĩa.
Điều đó cắt nghĩa vì sao suốt mấy chục năm qua, nhất là tháng năm gần đây, các thế lực thù địch không
ngừng tiến công vào Đảng Cộng sản, cổ vũ cho con đường phát triển “kinh tế thị trường tự do”, “đa nguyên
đa đảng”, dân chủ, nhân quyền theo kiểu phương Tây, hịng tìm cách để xóa bỏ CNXH và thủ tiêu vai trị lãnh
đạo của Đảng.
Trong tình hình hiện nay, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn và có hiệu quả,
Đảng cần thường xuyên tự đổi mới tự chỉnh đốn coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Là Đảng
duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, hoạt động trong điều kiện kinh tế
thị trường và mở cửa, hội nhập, hợp tác với các nước theo tinh thần Việt Nam là bạn và là đối tác tin cậy của
các nước, vì vậy, Đảng càng cần có ý thức sâu sắc về sự tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng xây dựng tổ
chức phù hợp điều kiện mới, nâng cao trình độ trí tuệ và phẩm chất mọi mặt của mình. Chăm lo xây dựng
Đảng, thường xuyên củng cố nâng cao sức mạnh của Đảng là một bảo đảm cơ bản quyết định con đường đi
đúng đắn của dân tộc. Trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn, Đảng cần giữ vững định hướng và không xa rời
nguyên tắc; kiên định và phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo đảm thực hiện có kết quả
những nhiệm vụ chính trị, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, xây dựng và bảo vệ
chế độ XHCN ở nước ta. Cho nên nó phải gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội,
trước hết là với q trình thực hiện và hồn thiện các chính sách và cơ chế quản lý, với kiện tồn hệ thống
chính trị, với phong trào hành động cách mạng của quần chúng, khơi dậy và phát huy trí sáng tạo của nhân
dân.
Do đó, trước hết cần tăng cường bản chất GCCN và tính tiền phong của Đảng, bảo đảm cho Đảng
thật sự là đội tiên phong của GCCN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân
tộc. Bản chất giai cấp của Đảng là vấn đề cơ bản, bao trùm, có tính ngun tắc đối với tất cả các Đảng Mácxít Lê-nin-nít chân chính. Nó càng đặc biệt quan trọng đối với Đảng ta - một Đảng ra đời và trưởng thành ở
một nước nông nghiệp lạc hậu, GCCN còn nhỏ bé, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ cơng nhân cịn rất thấp. Hiện
nay Đảng ta lại đang hoạt động trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập giao lưu quốc
tế, môi trường xã hội rất phức tạp, Đảng đang đứng trước những thách thức mới. Vấn đề giữ cho Đảng không
biến chất, trước sau đều giữ vững bản chất của GCCN, là vấn đề hết sức quan trọng trong việc tự đổi mới, tự
chỉnh đốn Đảng và có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Giữ vững và tăng cường bản chất GCCN của Đảng trước hết và phải kiên định quan điểm, lập trường
của GCCN, tuyệt đối trung thành với lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc; phấn đấu cho
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê- nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng
sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong thời kỳ mới và từ thực tiễn mà tổng kết, khái quát, bổ sung,
phát triển, làm phong phú thêm học thuyết cách mạng và khoa học đó. Thực tế những năm qua cho thấy, lúc
nào máy móc rập khn và khơng giữ vững quyền độc lập, tự chủ và tính năng động, sáng tạo là lúc đó chúng
ta gặp khó khăn.
Bản chất GCCN đòi hỏi Đảng phải được tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đồn kết thống
nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, lỏng lẻo kỷ luật, kỷ cương pháp luất đều trái với bản chất GCCN
của Đảng. Bản chất GCCN không tương dung với chủ nghĩa cơ hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại, nó địi
hỏi phải có tư tưởng đoàn kết thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân và tập
thể, bộ phận và toàn xã hội.
Như vậy, bản chất GCCN thể hiện chủ yếu và quyết định không phải ở số lượng đảng viên xuất thân
từ thành phần công nhân nhiều hay ít, mà ở lập trường quan điểm, thế giới quan, đường lối chính trị, nguyên
tắc tổ chức,... của Đảng có thật sự là của GCCN và đường lối chính trị của nó có phản ánh đúng lợi ích của
nhân dân lao động và của cả dân tộc hay không.
Trong hồn cảnh cụ thể của nước ta, tính giai cấp hịa quyện chặt chẽ với tính dân tộc, lợi ích giai cấp thống
nhất làm một với lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đảng chẳng những phải giữ vững và nâng cao bản chất
GCCN mà còn phải tiếp thu, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt
Nam. Đây là yếu tố rất quan trọng làm tăng cường sức mạnh của Đảng.
Là người lãnh đạo, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đồng thời là lãnh tụ chính trị của cả dân tộc, hơn ai
hết Đảng phải có trí tuệ cao, có tính tiên phong. Chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đi lên CNXH, trước hết là nhờ Đảng ta có trí tuệ tiên phong. Lúc này muốn chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu, càng phải có trí tuệ tiên phong. Việc nâng cao trình độ trí tuệ, tính tiên phong được
đặt ra rất cấp bách. Mọi cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải nhận thức đầy đủ và sâu
sắc vấn đề này để có kế hoạch thường xun học tập, nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ tư duy lý luận và
năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn.
Hai mươi năm qua, Đảng ta đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới là do Đảng đã
kiên định mục tiêu chiến lược, đồng thời đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lý luận, vận dụng một cách độc lập
sáng tạo những nguyên lý, lý luận, tổng kết thực tiễn, phát huy được trí tuệ của tồn Đảng, toàn dân, nắm bắt
được những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay cũng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp
tục đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ. Nếu không đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; nếu
cán bộ, đảng viên không chịu học tập (học lý luận, học quản lý, học chuyên môn, nghiệp vụ...), học trong
nghiên cứu, trong cuộc sống thực tiễn thì khơng thể tìm ra được câu trả lời cho các vấn đề đó. Cho nên học
tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên. Lười học tập, lười suy nghĩ sẽ dẫn đến thụ động, ỷ lại,
khơng thể nâng được trí tuệ của từng đảng viên, tổ chức Đảng và của tồn Đảng. Chính vì vậy mà trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội IX, Đảng đã chỉ rõ: “Các cấp ủy và chi bộ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên
học tập, rèn luyện, khơng ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh
đạo, quản lý và công tác vận động nhân dân, phát huy vai trị tiền phong gương mẫu”.
Đảng khơng những là lãnh tụ chính trị, người lãnh đạo, mà cịn là một tổ chức chiến đấu của những
chiến sĩ tiên phong có giác ngộ cách mạng. Vì vậy, tổ chức Đảng phải rất chặt chẽ, mọi thành viên phải đoàn
kết thống nhất. Sự thống nhất của Đảng được bảo đảm bằng tính tiên phong, bằng mục tiêu lý tưởng chung,
đồng thời được bảo đảm bằng tổ chức, bằng các nguyên tắc tổ chức, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình. Hiện nay, hơn lúc nào hết càng
phải kiên định, bảo vệ, phát triển và làm phong phú thêm nội dung phương thức thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ là Đảng tự phá hoại sức mạnh về tổ chức của mình. Các
thế lực thù địch đang mong muốn chúng ta vấp phải những sai lầm đó. Thực tế đã khơng ít Đảng Cộng sản
nội bộ rối loạn hoặc tan rã chỉ vì từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Đương nhiên, để thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, cần nhận thức đúng và thống nhất nội dung, bản chất của tập trung dân chủ, mối quan
hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ; đồng thời cần cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy chế, quy
định, quy trình cụ thể, nhất là trong việc dân chủ thảo luận, ra quyết định và trong công tác cán bộ. Dân chủ là
cơ sở của tập trung, phải phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Đảng, đồng thời phải thực hiện tốt quy chế dân chủ
ở cơ sở, song dân chủ phải có lãnh đạo, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là cơ sở để củng cố sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng. Ở những bước ngoặt của cách mạng, trong những lúc khó khăn, phức tạp, việc giữ vững nguyên tắc và
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, có ý nghĩa quyết định
sự thành bại của cách mạng. Ngày nay, trong điều kiện mới, mọi cán bộ, đảng viên càng phải nêu cao tinh
thần đồn kết, ý thức giữ gìn sự thống nhất của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng được xây dựng trên
cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, tình cảm cách mạng trong sáng của những người đồng chí thương yêu
nhau, đồng thời thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; thực hiện chính sách cán bộ
một cách nhất qn, cơng bằng.
Để thực hiện tốt những yêu cầu, nội dung của công tác tự đổi mới, tự chỉnh đốn, thì một vấn đề hết
sức quan trọng là Đảng cần gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân. Liên hệ mật thiết với quần chúng là
quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của một đảng Mác xít - Lê-nin-nít chân chính, và là nguồn gốc tạo ra
sức mạnh của Đảng và của cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, định
hướng XHCN, việc liên hệ với quần chúng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Quan liêu, xa rời quần chúng
là biểu hiện nguy cơ thối hóa của Đảng. Nó chẳng những làm cho Đảng thối hóa, rã rời về tổ chức, mà nguy
hại hơn, cịn có thể làm cho Đảng sai lầm về đường lối chính trị. Hơn nửa thế kỷ qua, chính nhờ bắt rễ sâu
rộng trong quần chúng, đường lối chính trị được lịng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và
nhân dân đã kết thành một khối vững chắc. Ở đâu và lúc nào tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên
chăm lo cho lợi ích của dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó
Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp, cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo. Trái lai, ở đâu và lúc
nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì
ở đó sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc phát triển
kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống; mở mang dân trí, dân chủ trong xã hội, Đảng đã ngày càng củng cố được
niềm tin của nhân dân, khơi đậy được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực mới của cách
mạng.
Đất nước đang tiến vào thời kỳ phát triển mới, thời cơ và thuận lợi đang mở ra, đồng thời cũng cịn
khơng ít khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn diễn biến phức tạp, không thể xem nhẹ nguy
cơ nào. Những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các vấn đề xã hội bức
xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nếu không được kịp thời khắc phục có hiệu quả. Và sự chống phá của
các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ sẽ là nguy cơ tiềm ẩn đối với
sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cần nhận thức sâu sắc vấn đề này, có nhiều biện pháp tích cực, thiết thực để xây dựng Đảng, tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nịng cất là khối liên
minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức. Điều đặc biệt chú ý là phải củng cố và xây dựng “thế trận lòng
dân”, mà nội dung cơ bản là: củng cố sự nhất trí về chính trị-tinh thần trong nhân dân, sự gắn bó giữa nhân
dân với Đảng, giữa nhân dân với chế độ chính trị do Đảng lãnh đạo. Lịng dân hướng về Đảng, tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đồn kết gắn bó với Đảng, với Nhà nước, với chế độ. Có thể nói khơng có
nguy cơ nào, thế lực thù địch nào làm sụp đổ được chế độ XHCN của chúng ta, nếu Đảng ta, Nhà nước ta, chế
độ ta được đại đa số nhân dân đoàn kết gắn bó, ủng hộ và bảo vệ. Vì vậy, “bài tốn lịng dân” phải được giải
quyết đồng bộ, trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng tác động đến đời sống, tâm lý, tư
tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng
người dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện và
nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lủi;
Đảng vững mạnh nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy Nhà nước trong sạch, thực sự của dân, do dân, vì dân,
nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lịng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây đựng
Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ.