Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Ngữ pháp ngữ nghĩa của vị từ tri giác tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.08 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________________

LÊ THỊ THANH TÂM

NGỮ PHÁP-NGỮ NGHĨA CỦA VỊ TỪ TRI GIÁC TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VÂN PHỔ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến TS. Nguyễn Vân Phổ – người thầy đã tận tâm chỉ dạy, giúp đỡ em trong
suốt quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô, bạn bè đã hết lịng giúp đỡ tơi trong
thời gian học tập và thực hiện luận văn, đồng thời cũng cảm ơn các bạn
đồng nghiệp và cơ quan nơi tôi làm việc đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành
luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình u q đã ln quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho tôi thực hiện luận văn.
Chắc chắn luận văn này cịn nhiều thiếu sót do khả năng nghiên cứu cịn
hạn chế, kính mong q thầy cơ góp ý thêm cho luận văn. Xin chân thành
cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng bảo vệ luận văn đã dành nhiều thời gian
đọc và góp ý cho luận văn này.



TP. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 09 năm 2012
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu

1

2. Lịch sử vấn đề

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

5


5.1. Ý nghĩa khoa học

5

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

5

6. Bố cục của luận văn

6

Chương I: TỔNG QUAN

7

1.1. Cơ sở lý luận

7

1.2.Vị từ tri giác

11

Chương II: VỊ TỪ TRI GIÁC TIẾNG VIỆT

18

2.1. Vị từ hành động tri giác


20

2.2. Vị từ miêu tả tri giác

38

2.3. Vị từ nội dung tri giác

41

Chương III: VỊ TỪ TRI GIÁC TIẾNG ANHĐỐI CHIẾU TIẾNG VIỆT

53
53

3.1. Vị từ hành động tri giác tiếng Anh-đối chiếu tiếng Việt

54

3.2. Vị từ miêu tả tri giác tiếng Anh-đối chiếu tiếng Việt

63

3.3. Vị từ nội dung tri giác tiếng Anh-đối chiếu tiếng Việt

67

KẾT LUẬN

76


TÀI LIỆU THAM KHẢO

78




MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ trước đến nay có rất nhiều nhà Việt ngữ học nghiên cứu các quan hệ
ngữ pháp và hình thức ngữ pháp tiếng Việt xuất phát từ các quan điểm và
phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, do phạm vi khảo sát của đa số cơng trình
q rộng nên phần lớn các tác giả chỉ mới dừng lại ở mục đích miêu tả cấu trúc
và phát hiện những vấn đề mang tính khái qt trên những bình diện khác nhau
của cấu trúc đó. Ngay cả ở những cơng trình đi sâu vào một lớp từ nào đó trên
cơ sở đối lập về ý nghĩa từ vựng, về trường nghĩa, về từ loại cũng nặng về miêu
tả cấu trúc, kết quả thu được chỉ là những mơ hình tĩnh tại.
Đến những năm 1980 bắt đầu xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu ngữ
pháp quan tâm nhiều hơn đến cấu trúc ngữ nghĩa. Quan điểm của Fillmore, Dik,
Halliday, Givon và nhiều nhà ngữ học khác được vận dụng vào việc khảo sát
các hiện tượng ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt. Trong đó, chuyên luận về vị từ
hành động tiếng Việt của Nguyễn Thị Quy có thể xem là cơng trình mở đầu cho
việc nghiên cứu hoạt động của lớp từ quan trọng nhất là vị từ trong quan hệ với
các tham tố của nó. Nhưng các cơng trình về tiếng Việt vừa nhắc cũng vẫn nhìn
vấn đề trên một diện rộng, rất hữu ích nhưng chưa đủ chi tiết.
Vị từ tri giác là nhóm vị từ được các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước
quan tâm với nhiều góc độ khác nhau. Halliday xếp vị từ tri giác vào danh sách
là các vị từ thuộc quá trình tinh thần, Simon C. Dik căn cứ vào tiêu chí Động,
Chủ ý để phân chia vị từ tri giác. Nguyễn Kim Thản đề cập vị từ tri giác dưới

góc độ từ vựng. Cao Xuân Hạo lại đề cập vị từ tri giác dưới góc độ ngữ nghĩacú pháp. Tuy nhiên, nội dung vấn đề các tác giả đưa ra vẫn còn rất sơ lược và
chưa có tác giả nào khảo sát vị từ tri giác dưới gốc độ ngữ nghĩa-cú pháp trong
khi nhóm vị từ tri giác này có mặt thường trực trong đời sống ngôn ngữ của mỗi
người chúng ta. Đến năm 2009, Nguyễn Vân Phổ đã đề cập vị từ tri giác dưới
góc độ ngữ pháp-ngữ nghĩa trong bài viết “Vị từ tri giác Tiếng việt’’ (Tạp chí
Ngơn ngữ số 8 năm 2009), tuy nhiên vì khn khổ có hạn nên tác giả chỉ khảo




sát các vị từ tri giác chính như nhìn, nghe, sờ, nếm, ngửi qua các phương
thức tri giác (thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác), cịn các vị từ
tri giác khác cùng nhóm chẳng hạn ngó, dòm, nhòm, ngửi, rờ,..chưa được tác
giả đề cập đến. Do đó, theo quan điểm của Nguyễn Vân Phổ, chúng tơi mạnh
dạn nghiên cứu tiếp khung nghĩa của các vị từ tri giác chính danh cịn lại (bởi lẽ
vị từ tri giác tiếng Việt chỉ khoảng 34 vị từ) và xếp các vị từ tri giác (chính danh
) theo tiểu loại vị từ hành động tri giác, vị từ miêu tả tri giác và vị từ nội dung
tri giác.
Chúng tôi nghĩ rằng, kết quả thu được từ những khảo sát này sẽ làm sáng
tỏ thêm về ngữ pháp-ngữ nghĩa của các nhóm vị từ tri giác tiếng Việt.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Vị từ tri giác là nhóm vị từ được các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau, Halliday (1994), một trong ba gương
mặt tiêu biểu của trường phái ngôn ngữ học Luân Đôn, liệt kê vào danh sách
các vị từ thuộc quá trình tinh thần, và các cú thuộc các quá trình tinh thần đều
địi hỏi phải có hai tham thể gồm Cảm thể và Hiện tượng hiện diện trong cú
(Halliday, An Introduction to Functional Grammer. 2nd edition, London, 1994).
Không như cú trong quá trình vật chất, cú thuộc quá trình tinh thần địi hỏi phải
có một tham thể là người (hoặc chỉ có những vật thể được quy cho là có ý thức,
có cảm giác,tri giác). Simon C. Dik (1981) lại căn cứ vào tiêu chí [± động] hay

[± chủ ý] để phân chia vị từ, và riêng với nhóm vị từ tri giác sẽ xuất hiện trong
hai kết cấu gồm kết cấu vị ngữ Hành động và kết cấu vị ngữ Trạng thái, chẳng
hạn các vị từ như nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ có thể xuất hiện trong kết cấu vị
ngữ Hành động còn vị từ thấy sẽ xuất hiện trong kết vị ngữ Trạng thái (Simon
C. Dik, Functional Grammar. Holland, 1981, tr. 51)
2.2. Trong Việt ngữ học, các công trình nghiên cứu ngữ pháp nói chung
đều ít nhiều có đề cập đến vị từ tri giác. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào tập
trung làm rõ ngữ pháp và ngữ nghĩa của nhóm vị từ này, khái niệm về vị từ tri
giác tiếng Việt được đề cập dưới các góc độ khác nhau:




-Vị từ tri giác đã được Nguyễn Kim Thản (1977) đề cập ở góc độ từ
vựng, tác giả xếp vị từ tri giác vào nhóm “động từ cảm nghĩ – nói năng” vì
“những động từ này biểu thị sự hoạt động của trí não, của các cơ quan cảm giác
và ngôn ngữ” (Nguyễn Kim Thản, Động từ tiếng Việt, Nxb GD. Hà Nội, 1977).
-Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt-Sơ thảo ngữ pháp chức năng’’lại đề
cập vị từ tri giác dưới góc độ ngữ nghĩa-cú pháp, tác giả nhắc đến vị từ tri giác
khi bàn về hành động vô tác, và cho rằng một vị từ tri giác, chẳng hạn như nhìn,
biểu thị một q trình ứng xử, có hai diễn tố (hành thể và mục tiêu). Tuy nhiên,
nội dung vấn đề tác giả đưa ra vẫn cịn rất sơ lược.
-Hồng Thị Hòa trong bài viết “Hiện tượng chuyển nghĩa bằng con
đường ngữ pháp hóa của một số động từ chỉ hoạt động của các giác quan trong
tiếng Việt và tiếng Anh ” (Tạp chí Ngơn ngữ, số 2/2009) lại cho rằng vị từ tri
giác là các động từ chỉ hoạt động của giác quan.
-Nguyễn Tất Thắng trong “Thị giác trong ngơn ngữ” (Tạp chí Ngơn ngữ
năm 2008) có bàn riêng về vai trị của thị giác trong ngơn ngữ theo cách nhìn tri
nhận luận; và Nguyễn Văn Hiệp (2008) cũng nhắc đến vai trò thị giác trong khi
bàn về khái niệm tình thái.

Nhìn chung, những cơng trình này khơng đặt nhiệm vụ khảo sát vị từ tri
giác dưới góc độ ngữ nghĩa-cú pháp.
-Đến năm 2009, Nguyễn Vân Phổ đã đề cập vị từ tri giác dưới góc độ
ngữ nghĩa-cú pháp trong “Vị từ tri giác Tiếng việt” (Tạp chí Ngơn ngữ số
8/2009), tác giả đã chia vị từ tri giác trong tiếng Việt thành hai nhóm lớn là vị
từ biểu thị phương thức tri giác và vị từ biểu thị nội dung tri giác. Căn cứ vào
việc chọn lựa chủ thể hay đối tượng tri giác vào vị trí đề/chủ ngữ, vị từ biểu thị
phương thức lại có thể chia làm hai tiểu nhóm là vị từ hành động tri giác và vị
từ miêu tả tri giác.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU




Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát những cấu trúc biểu hiện q
trình tri giác trong đó có chứa các vị từ tri giác, bao gồm các hoạt động của các
giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn chúng tôi chỉ khảo sát các vị từ
tri giác chính danh sẽ đề cập ở chương hai (như nhìn, ngó, trơng,thấy, dịm,
ngắm, nghe, sờ, rờ, nếm, ngửi, đánh hơi,...). Chúng tôi không khảo sát những vị
từ hành động vật chất có thể chuyển thành vị từ tri giác phái sinh, nhưng khi
cần thiết chúng tôi sẽ đề cập để đối chiếu với những vị từ tri giác chính danh
(tùy trường hợp cụ thể).
Một vị từ khi tham gia vào cấu trúc câu sẽ kết hợp với một số danh ngữ
để hiện thực hóa sự tình mà nó muốn diễn đạt. Các danh ngữ này được gọi là
các tham tố tạo thành khung ngữ nghĩa, khung vị ngữ hay khung cách cho mỗi
vị từ. Do vậy, chúng tơi tìm hiểu các biểu hiện khác nhau của các tham tố chung
quanh từng loại vị từ tri giác tiếng Việt. Để làm sáng tỏ hoạt động và biểu hiện
của các tham tố vị từ tri giác tiếng Việt, chúng tôi cũng tiến hành so sánh nó với
những biểu hiện tương ứng ở tiếng Anh.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp miêu tả và
phương pháp so sánh đối chiếu.
Phương pháp miêu tả được sử dụng để miêu tả cấu trúc ngữ pháp và
khung nghĩa của vị từ tri giác ở mọi bình diện, để phân biệt các cú pháp cơ bản
của vị từ tri giác tiếng Việt.
Phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng để so sánh đối chiếu ngữ
pháp - ngữ nghĩa của các vị từ tri giác tiếng Anh với tiếng Việt nhằm tìm điểm
tương đồng và khác biệt.
Trọng tâm của luận văn là làm sáng tỏ những quan hệ ngữ nghĩa và ngữ
pháp giữa vị từ tri giác và các tham tố xung quanh nó, vì vậy chúng tơi vận
dụng lý thuyết phân tích tham tố để xem xét vai trò của các tham tố trong khung
nghĩa của các loại vị từ tri giác khác nhau.




5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Ý nghĩa khoa học
Bằng cách phân tích cấu trúc các tham tố trong khung nghĩa của các
nhóm vị từ, luận văn làm sáng tỏ được đặc trưng ngữ pháp và ngữ nghĩa của
nhóm vị từ tri giác tiếng Việt.
Luận văn cũng đã góp phần xây dựng khung tham tố của nhóm vị từ này.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp thêm một cái nhìn rộng hơn về vị từ tri giác trong tiếng
Việt. Từ đó nêu lên một vài gợi ý đối với việc giảng dạy về vị từ tri giác.
Về ứng dụng, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp ích cho việc dịch
thuật, dạy tiếng Việt cho sinh viên nước ngồi.
Thơng qua hai phương pháp chủ yếu là miêu tả và so sánh đối chiếu các
tham tố - danh ngữ xung quanh các loại vị từ tri giác nhằm tìm ra sự khác biệt

và tương đồng, giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc viết câu, viết văn bản một
cách chính xác, tránh được sự nhầm lẫn.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Tổng số trang của luận văn là 85 trang, ngoài phần mở đầu (6 trang), bố
cục của luận văn như sau:
Chương một: Tổng quan (11 trang)
Trong chương này, chúng tơi trình bày vắn tắt quan điểm của các nhà
nghiên cứu đi trước trong đó chú ý đến thành tựu của các nhà Việt ngữ học
những vấn đề về vị từ của tiếng Việt. Từ đó chúng tơi trình bày khái niệm, phân
loại về vị từ tri giác dựa theo quan điểm của Nguyễn Vân Phổ trong bài viết “Vị
từ tri giác tiếng Việt’’ (Tạp chí Ngôn ngữ số 8/2009);
Chương hai: Vị từ tri giác tiếng Việt (35 trang)
Trong chương này, chúng tôi khảo sát những cấu trúc biểu hiện quá trình
tri giác tiếng Việt, từ đó phân biệt đặc trưng ngữ nghĩa-ngữ pháp của các nhóm
vị từ tri giác tiếng Việt.




Chương ba: Các tham tố của vị từ tri giác tiếng Anh-đối chiếu với tiếng
Việt (23 trang)
Từ những kết quả thu được từ tiếng Việt, chúng tôi khảo sát những yếu tố
liên quan trong tiếng Anh và so sánh với tiếng Việt để thấy sự tương đồng và
khác biệt giữa hai thứ tiếng.




CHƯƠNG I
TỔNG QUAN

1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Cách (case) vốn là một phạm trù ngữ pháp thể hiện chức năng của
các danh từ/danh ngữ trong câu, tồn tại ở một số ngơn ngữ biến hình. Ở các
ngơn ngữ này, các danh từ/danh ngữ sẽ được đánh dấu hình thức tùy vào chức
năng của nó. Theo cách hiểu này thì những ngơn ngữ khác nhau sẽ có hệ thống
cách khác nhau, chẳng hạn tiếng Đức có bốn cách (danh cách, đối cách, tặng
cách và sinh cách), tiếng Nga có sáu cách (chủ cách, sinh cách, tặng cách, đối
cách, công cụ cách và trạng cách - hay giới cách, cách chỉ dùng với giới từ), và
cũng có những ngơn ngữ hồn tồn khơng có cách, khi đó chức năng của danh
từ/danh ngữ được biểu thị bằng những phương thức khác như trật tự từ và/hoặc
giới từ, chẳng hạn như tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn lập khác. Như vậy, cách
trước hết là một phạm trù ngữ pháp tồn tại bên cạnh phạm trù giống, phạm trù
số ở danh từ, và là một khái niệm đặc thù.
1.1.2. Ch. Fillmore đã đưa ra quan niệm xem câu là một cấu trúc mà ý
nghĩa là một hệ thống quan hệ các cách với nhau (Ch. Fillmore, The case for
case, 1968), mỗi cách biểu hiện một vai nghĩa mà bất cứ ngôn ngữ nào cũng có
phương tiện diễn đạt. Fillmore phân biệt quan hệ cách (case hay case
relationships) được miêu tả như là những “quan hệ ngữ nghĩa - cú pháp cơ sở’’
với hình thức cách (case forms) là những phương tiện diễn đạt cách như hệ
thống hậu tố (suffixes), giới từ (adpositions).Theo quan niệm của Fillmore, cách
khơng cịn là hình thức biến vĩ ở các ngơn ngữ khuất chiết nữa mà nó trở thành
một khái niệm biểu thị vai nghĩa. Ông cho rằng nhiệm vụ của lý thuyết ngữ
pháp là phải và có thể xây dựng một tập hợp hữu hạn các vai nghĩa, và đây
chính là một phổ qt ngơn ngữ học. Ơng đưa ra danh sách năm 1968 có sáu
cách (chủ cách, cơng cụ cách, tặng cách, tạo tác cách, vị trí cách và đối cách)
[20, tr. 24].





Fillmore còn xây dựng khái niệm “ngữ nghĩa khung’’ ( frame semantics),
trong đó vị từ tiếng Anh được chú giải như sau: (i) phân vốn từ thành các lĩnh
vực khác nhau; (ii) mỗi lĩnh vực sẽ có các khung ngữ nghĩa biểu thị một loại
hoạt động nhất định, trong đó bao gồm các vai nghĩa nhất định quan hệ với
nhau; (iii) căn cứ vào quan hệ cụ thể giữa các vai nghĩa lại có thể tập hợp thành
các khung khác nhau.
1.1.3. Lý thuyết về vai nghĩa được áp dụng xuyên suốt để phát hiện cấu
trúc kết trị của vị từ. Simon C. Dik (1981) dựa vào hai tiêu chí [± động], [± chủ
ý] để phân chia các loại sự tình và từ đó phân chia vị từ, cách phân loại này của
Dik là một trong những cách phân loại được coi là có hiệu lực cho mọi ngơn
ngữ, cho ta các loại sự thể sau đây và các loại vị từ tương ứng:
[± Động]

[± Chủ ý]

[+ Động]: biến cố

[- Động]: trạng thái

[+ Chủ ý]

Hành động

Tư thế

[- Chủ ý]

Quá trình

Trạng thái


Theo S. Dik, chức năng ngữ nghĩa của tham tố hạt nhân trong câu được
định rõ trong khung vị từ, khung vị từ chỉ định hình thức, phạm trù cú pháp của
vị từ, những hạn định mà vị từ đòi hỏi ở các vai nghĩa, những chức năng ngữ
nghĩa mà các tham tố thực hiện, và số lượng tham tố mà vị từ đòi hỏi. Kết cấu
vị ngữ hạt nhân (nuclear predications) sẽ hình thành bằng việc điền các ngữ
định danh (terms) thích hợp vào vị trí các tham tố trong khung vị từ, và sự phân
tiểu loại vị từ được thể hiện tiềm tàng trong khung vị từ.
Thông qua việc chèn các từ ngữ thích hợp vào vị trí các tham tố của một
vị từ nào đó mà kết cấu vị ngữ hạt nhân được hình thành. Một kết cấu vị ngữ
hạt nhân bao gồm một vị từ (predicate) gắn kết với một số thích hợp các ngữ
định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị từ đó; kết cấu vị ngữ hạt nhân xác




định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ
chỉ định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà với nó vị từ được
ứng dụng. Căn cứ vào cái kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự
tình, chúng ta có thể tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào
một hay nhiều chu tố cho kết cấu vị ngữ hạt nhân đó. Chu tố là thành tố khơng
có chức năng xác định các sự tình theo đúng nghĩa, nhưng nó cung cấp nhiều
thơng tin gắn với sự tình như một tổng thể bằng cách chỉ định thời gian hoặc vị
trí của các sự tình, đưa ra lý do hoặc nguyên nhân của các sự tình. Một vị từ là
cơ bản nếu khơng có quy tắc sản sinh đồng đại của sự cấu tạo vị từ nào có thể
tạo ra nó , điều này khơng ngụ ý rằng các vị từ cơ bản là đơn giản phi cấu trúc
về nghĩa, vị từ cơ bản được cho sẵn trong từ vựng cùng với tồn bộ thơng tin có
thể liên quan với vị từ theo nghĩa thông thường , thông tin này sẽ bao gồm ít
nhất là một định nghĩa ý nghĩa cho vị từ và một khung vị từ [Simon C. Dik,
Functional Grammar. Holland, 1981].

Kết cấu của vị ngữ hạt nhân sẽ thể hiện sự gắn kết một vị từ với một số
thích hợp các từ ngữ đóng vai trị là các tham tố của vị từ đó, vị từ là từ chỉ ra
thuộc tính của các thực thể hay mối quan hệ giữa các thực thể với nhau. Vị từ
có thể là vị từ cơ bản hoặc vị từ phát sinh. Vị từ cơ bản nằm trong vốn từ vựng,
và chúng được cho sẵn trong vốn từ vựng và ở đó được cung cấp tất cả những
thơng tin quan yếu đối với thái độ ngữ nghĩa và cú pháp, những thông tin này
được chứa đựng trong khung vị từ. Vị từ phái sinh được tạo thành bằng những
qui tắc cấu tạo vị từ, vị từ phái sinh là các vị từ bổ nghĩa, các vị từ gây khiến;
các vị từ này được phái sinh từ các ngữ định danh. Sản phẩm của các quy tắc
hình thành vị từ là một tập hợp của vị từ phái sinh, được cho sẵn ở hình thức
của khung vị từ kiểu khái quát. Tóm lại vị từ cơ bản hoặc phái sinh được hiểu là
tồn bộ yếu tố từ vựng của ngơn ngữ. Nói cách khác, vị từ là đơn vị có thể xuất
hiện trực tiếp trong các biểu thức ngôn ngữ học hiện thực của ngôn ngữ [S. Dik,
1981].


10 

1.1.4. Halliday (1994), một trong ba gương mặt tiêu biểu của trường phái
ngôn ngữ học Luân Đôn, xuất phát từ sự nhìn nhận câu là sự biểu hiện
(representation), sự trao đổi (exchange) và là một thông điệp (message), ông
cho rằng q trình ngơn ngữ bao gồm ba q trình chính (vật chất, tinh thần và
quan hệ). Quá trình vật chất (material processes) là các quá trình hành động, ở
mỗi quá trình hành động đều có một Hành thể (actor) là tham thể thứ nhất; tuy
nhiên ở một số quá trình hành động (nhưng khơng phải là tất cả) cũng có thể có
tham thể thứ hai gọi là Đích thể (goal), và trong một cú vật chất không một
tham thể nào cần bắt buộc phải là người. Sự phân loại của quá trình vật chất tùy
vào số lượng tham thể, các q trình có một tham thể gọi là nội hướng , và các
q trình có hai tham thể gọi là ngoại hướng. Quá trình tinh thần (mental
processes) là các quá trình tri giác và cảm giác, ở quá trình này thì khơng có sự

phân biệt nào giữa hai kiểu nội hướng và ngoại hướng, mà tiềm năng cú thuộc
các quá trình tinh thần đều địi hỏi hai tham thể gồm Cảm thể (senser) và Hiện
tượng (phenomenon). Quá trình quan hệ là các quá trình tồn tại, ở quá trình
quan hệ sẽ được chia theo ba kiểu (quan hệ sâu, quan hệ chu cảnh và quan hệ sở
hữu) với hai phương thức tách biệt là định tính (attributive) và đồng nhất
(identifying).
1.1.5. Trong giới Việt ngữ học cũng có nhiều nỗ lực trong việc nghiên
cứu hoạt động của vị từ: Cao Xuân Hạo trong “ Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp
chức năng’’ đã phân loại vị từ theo ba tiêu chí [± động], [± chủ ý], [± nội tại].
Từ đó ơng xây dựng hệ thống các sự tình được biểu hiện bằng những câu mà
hạt nhân là khung vị ngữ, gồm lõi vị ngữ (trung tâm là vị từ) và các tham tố của
nó; trong đó tham tố của sự tình do một ngữ danh từ, một ngữ vị từ, một tiểu cú
biểu hiện. Tham tố của sự tình biểu hiện các vai nghĩa xung quanh nội dung của
sự tình, do nghĩa của vị từ quy định. Theo Cao xuân Hạo,“vị từ là loại thực từ
có thể tự mình làm thành một ngữ vị từ, làm trung tâm của một ngữ vị từ” [7,
tr.26].


11 

Nguyễn Thị Quy (1991), với cơng trình nghiên cứu ‘‘Vị từ hành động
tiếng Việt”, cho rằng chức năng cơ bản của vị từ là làm thành hoặc là cấu tạo
những ngữ đoạn phản ánh nội dung của sự thể, mà sự phân biệt cơ bản giữa các
sự thể được thực hiện trên hai chiều: chiều của sự đối lập về tính [± động] và
chiều của sự đối lập về tính [± chủ ý]. Trong đó, nội dung của sự thể được biểu
hiện bằng một vị ngữ (hay ngữ vị từ), còn các tham tố của sự thể được biểu hiện
bằng những danh ngữ (ngữ danh từ); nội dung của sự thể quyết định cách tổ
chức các tham tố và quan hệ giữa các tham tố của nó, và do đó cũng quyết định
cấu trúc của toàn câu. Theo Nguyễn Thị Quy, “vị từ là từ có chức năng tự mình
làm thành một vị ngữ hoặc làm trung tâm ngữ pháp, hay làm hạt nhân ngữ

nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của sự thể, nó được dùng làm vị ngữ
một cách thuần túy nhất’’ [9, tr.25].
1.2. VỊ TỪ TRI GIÁC
1.2.1. Halliday (1994) chia quá trình tinh thần ra làm ba tiểu loại chính
gồm q trình tri giác (perception) (như nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi
thấy); quá trình tình cảm (affection) (như thích, sợ); q trình tri nhận
(cognition) (như nghĩ, hiểu, biết, tin tưởng, nhớ, quên). Theo quan điểm này,
Halliday đã liệt kê các vị từ tri giác (nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vào cú thuộc
quá trình tinh thần, và các cú này địi hỏi phải có hai tham thể gồm Cảm thể
(senser) và Hiện tượng (phenomenon) hiện diện trong cú. Cảm thể là thực thể
có ý thức (có thể cảm, nghĩ hay thấy); Hiện tượng là tham thể được cảm (hay
được nghĩ /được thấy). Không như cú trong quá trình vật chất, cú thuộc quá
trình tinh thần địi hỏi phải có một tham thể là người (hoặc chỉ có những vật thể
được quy cho là có ý thức, có thể cảm được/cảm giác, tri nhận, tri giác ).
1.2.2. Theo hai thông số về Động và Chủ ý, S. Dik đã dùng các thuật ngữ
như Trạng thái, Quá trình, Tư thế, Hành động để chỉ ra bốn loại sự tình cơ bản
trong kết cấu của vị ngữ hạt nhân (thành phần cơ bản nhất của câu). Các vị từ tri
giác như nếm, ngửi, sờ có thể xuất hiện trong kết cấu vị ngữ Hành động và kết


12 

cấu vị ngữ Trạng thái. Vị từ nhìn sẽ xuất hiện trong kết cấu vị ngữ Hành động,
còn thấy sẽ xuất hiện trong kết cấu vị ngữ Trạng thái [7, tr.50].
1.2.3. Vị từ tri giác cũng được nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học quan
tâm, nhưng các tác giả đã đề cập vị từ tri giác tiếng Việt dưới nhiều góc độ khác
nhau:
1.2.3.1. Với cơng trình nghiên cứu “Động từ tiếng Việt”, Nguyễn Kim
Thản đã đề cập đến vị từ tri giác dưới góc độ từ vựng, với tiêu chí xem xét:
“những động từ này biểu thị sự hoạt động của trí não, của các cơ quan cảm giác

và ngơn ngữ” [11, tr.158], tác giả xếp vị từ tri giác vào nhóm “động từ cảm nghĩ
- nói năng”.
1.2.3.2. Năm 1991, với cơng trình nghiên cứu “Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ
pháp chức năng”, Cao Xuân Hạo đề cập đến vị từ tri giác dưới góc độ ngữ
nghĩa - cú pháp. Tác giả cho rằng vị từ tri giác là một tiểu loại của vị từ hành
động, hành động đó là hành động nhằm nhận thức đối tượng mà điểm đến của
đối tượng là mục tiêu của hành động tri giác. Khi phân loại vị từ theo diễn trị,
Cao Xuân Hạo đã xác định vị từ tri giác là loại vị từ có hai diễn tố (song trị), và
một vị từ tri giác sẽ biểu hiện một quá trình ứng xử, có hai diễn tố thể hiện vai
Hành thể, vai Mục tiêu.
1.2.3.3. Năm 2008, trong bài viết “Thị giác trong ngôn ngữ”, Nguyễn Tất
Thắng bàn về vai trò của thị giác trong ngơn ngữ theo cách nhìn tri nhận luận.
Trong khi đó Nguyễn Văn Hiệp (2008) cũng nhắc đến vai trị thị giác khi bàn
về khái niệm tình thái. Hồng Thị Hòa trong bài viết “Hiện tượng chuyển nghĩa
bằng con đường ngữ pháp hóa của một số động từ chỉ hoạt động của các giác
quan trong tiếng Việt và tiếng Anh ” (Tạp chí Ngơn ngữ, số 2/2009) lại cho
rằng vị từ tri giác là các động từ chỉ hoạt động của giác quan [4, tr.7]
Nói chung vị từ tri giác đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
đề cập, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu vị từ tri giác dưới góc độ
ngữ nghĩa-cú pháp.


13 

1.2.3.4. Đến năm 2009, Nguyễn Vân Phổ đã có một bài viết về vị từ tri
giác tiếng Việt trong bài viết dưới góc độ ngữ nghĩa-cú pháp “Vị từ tri giác
Tiếng Việt’’( Tạp chí Ngơn ngữ, số 8/2009). Tác giả dựa vào chức năng của các
vị từ để chia vị từ tri giác tiếng Việt thành hai nhóm khác biệt, gồm nhóm thứ
nhất là vị từ biểu thị phương thức tri giác (hay còn gọi là vị từ biểu thị hành
động tri giác) và nhóm thứ hai là vị từ biểu thị nội dung tri giác. Trong nhóm vị

từ biểu thị phương thức tri giác, căn cứ vào việc chọn lựa chủ thể hay đối tượng
tri giác vào vị trí đề/ chủ ngữ, tác giả lại chia thành hai tiểu nhóm gồm vị từ
hành động tri giác và vị từ miêu tả tri giác.
Vị từ hành động tri giác là những vị từ [+ chủ ý], chủ thể của hành động
(Hành thể) cũng đồng thời là đề (chủ ngữ) của vị từ chính, các danh ngữ sau
các vị từ hành động tri giác đều là những đối tượng mà hành động của chủ thể
hướng đến; về mặt ngữ nghĩa, danh ngữ theo sau vị từ hành động tri giác là mục
tiêu. Các vị từ hành động tri giác đòi hỏi có hai diễn tố: diễn tố thứ nhất là Hành
thể (chủ thể tri giác) và diễn tố thứ hai là Mục tiêu (goal), hoặc Hướng
(direction).
Vị từ miêu tả tri giác là những vị từ hoạt động trong cấu trúc mà ở đó
đứng vai trị đề của vị từ khơng phải là chủ thể của hành động mà là đối tượng
được hành động hướng tới (sau vị từ là những gì mà đối tượng đem đến cho chủ
thể), nghĩa là nó có thể nhận Mục tiêu làm Đề, và sau nó là diễn tố Nội dung.
Với cấu trúc này khơng có sự tình hành động mà chỉ có sự tình trạng thái [động]/[-chủ ý], các vị từ miêu tả cũng có hai diễn tố gồm Mục tiêu và Nội dung.
Xét về mặt ngữ nghĩa, danh ngữ theo sau vị từ miêu tả tri giác là Nội dung.
Vị từ biểu thị nội dung tri giác là những vị từ [-chủ ý], vị từ nội dung tri
giác có diễn tố theo sau là Nội dung (tri giác). Cấu trúc câu có vị từ nội dung tri
giác thường là cấu trúc chuỗi vị từ; trong chuỗi vị từ này, vị từ đi trước đánh
dấu phương thức tri giác và vị từ đi sau biểu đạt nội dung tri giác và là bổ ngữ
của vị từ trước. Ở hoạt động thị giác có cặp tương quan nhìn - thấy, ở các hoạt


14 

động tri giác khác có các cặp tương quan nghe - thấy, sờ - thấy, ngửi - thấy và
nếm - thấy.
1.2.4. Từ những quan điểm của các nhà Việt ngữ học như đã trình bày ở
trên, chúng tơi thống nhất theo quan điểm của Nguyễn Vân Phổ.
Thực ra tên gọi “vị từ tri giác’’ chỉ có ý nghĩa quy ước bởi lẽ trong danh

sách có thể kể đến hai tiểu nhóm phân biệt nhau: (1) vị từ biểu thị hành động
nhằm tri giác đối tượng, và (2) vị từ biểu thị tri giác (“hành động ứng xử’’ và
“quá trình chuyển thái’’- Cao Xuân Hạo 1991:235, 238). Các vị từ tri giác đòi
hỏi chủ thể tri giác phải là một thực thể người hoặc động vật, hoặc một vật thể
nào đó được người gán cho năng lực tri giác (nhân hóa).
Hoạt động tri giác gắn liền với các giác quan gồm thị giác (nhìn), thính
giác (nghe), xúc giác (sờ), khứu giác (ngửi) và vị giác (nếm). Có thể chia các vị
từ tri giác tiếng Việt thành hai nhóm gồm một bên là vị từ biểu thị phương thức
tri giác và bên còn lại là vị từ biểu hiện nội dung tri giác. Tiếp đến, căn cứ vào
việc chọn lựa chủ thể hay đối tượng tri giác vào vị trí đề/ chủ ngữ, chúng tôi lại
chia vị từ biểu thị phương thức tri giác làm hai tiểu loại gồm vị từ hành động tri
giác và vị từ miêu tả tri giác.
1.2.4.1. Vị từ hành động tri giác (activity perception verbs hoặc active
verbs)
Vị từ hành động tri giác là những vị từ [+chủ ý], chủ thể của hành động
(Hành thể) cũng đồng thời là đề (chủ ngữ) của vị từ chính, các danh ngữ sau các
vị từ hành động tri giác đều là những đối tượng mà hành động của chủ thể
hướng đến. Vì là vị từ [+chủ ý], hành động do vị từ đã biểu hiện có thể mang
các đặc trưng như: có độ dài về thời gian, có thể cấu tạo thức mệnh lệnh, có thể
tham gia cấu trúc mục đích, có thể có yếu tố phương hướng hành động đi kèm.
Các vị từ hành động tri giác địi hỏi có hai diễn tố: diễn tố thứ nhất là
Hành thể (actor, chủ thể tri giác) và diễn tố thứ hai là Mục tiêu (goal) hoặc
Hướng (direction). Nếu xét về mặt ngữ nghĩa, sau vị từ hành động tri giác là
Mục tiêu. Có thể nói rằng vị từ hành động tri giác sẽ có mặt trong tất cả các


15 

phương thức tri giác, gồm cả phương thức thị giác, thính giác, xúc giác, khứu
giác và vị giác. Tuy nhiên ở mỗi phương thức có sự giống nhau và khác nhau

khá rõ rệt: Ở phương thức thị giác có diễn tố Hướng, và đặc trưng này giống
như vị từ hành động của một quá trình vật chất “bình thường’’; riêng các
phương thức thính giác, khứu giác, xúc giác và vị giác trong nhóm vị từ hành
động này khơng có diễn tố Hướng như ở phương thức thị giác mà danh ngữ
theo sau ở các phương thức này là Mục tiêu.
1.2.4.2. Vị từ miêu tả tri giác (descriptive perception verbs)
Vị từ miêu tả tri giác là những vị từ [-chủ ý]. Vị từ miêu tả tri giác là
những vị từ hoạt động trong cấu trúc mà ở đó đứng vai trị đề của vị từ không
phải là chủ thể của hành động mà là đối tượng được hành động hướng tới (sau
vị từ là những gì mà đối tượng đem đến cho chủ thể), nghĩa là nó có thể nhận
Mục tiêu làm Đề, và sau nó là diễn tố Nội dung, với cấu trúc này khơng có sự
tình hành động mà chỉ có sự tình trạng thái [-động]/[-chủ ý].
Vị từ miêu tả tri giác cũng có hai diễn tố, gồm diễn tố Mục tiêu và Nội
dung. Xét về mặt ngữ nghĩa, danh ngữ theo sau vị từ miêu tả tri giác là Nội
dung.
1.2.4.3.Vị từ nội dung tri giác (cognitive perception verbs, state
perception verbs)
Vị từ nội dung tri giác là những vị từ [-chủ ý], danh ngữ theo sau vị từ
nội dung tri giác là diễn tố Nội dung, tuy nhiên hoạt động của vị từ này xem ra
phức tạp hơn nhiều so với vị từ miêu tả tri giác. Vị từ nội dung tri giác có diễn
tố Hành thể và Nội dung hoặc Mục tiêu, diễn đạt theo khung tham tố [ thấy
(Mục tiêu) (Hành thể) (Nội dung)]. Tính chất phức tạp của vị từ thấy bao trùm
lên tất cả các phương thức tri giác; và có các trường hợp sau:
-Khi đề là chủ thể tri giác thì vị từ nội dung sẽ hoạt động theo cấu trúc:
[Chủ thể tri giác + thấy + danh ngữ biểu thị đối tượng được tri giác] ( đối tượng
này có thể là vật, hành động hoặc sự kiện);


16 


-Nếu có tham tố Hướng xuất hiện thì vị từ nội dung tri giác lại hoạt động
theo cấu trúc: [Vị từ tri giác thứ nhất ( đánh dấu phương thức tri giác) + tham tố
Hướng + thấy (vị từ tri giác thứ hai biểu thị nội dung tri giác)] bổ ngữ của vị từ
trước) + tham tố Hướng.
Cấu trúc câu của vị từ nội dung tri giác sẽ là chuỗi vị từ mà trong chuỗi
vị từ này vị từ đi trước đánh dấu phương thức tri giác và vị từ đi sau biểu đạt
nội dung tri giác là bổ ngữ của vị từ trước. Vị từ nội dung sẽ có mặt ở tất cả các
phương thức tri giác, chẳng hạn hoạt động thị giác có cặp tương quan nhìn thấy, ở hoạt động thính giác có cặp tương quan nghe - thấy và các hoạt động tri
giác khác có các cặp tương quan sờ - thấy, ngửi - thấy và nếm - thấy.
Nói chung về mặt ngữ nghĩa, sau vị từ hành động tri giác là Mục tiêu và
sau vị từ nội dung tri giác là Nội dung.
Về ngữ pháp, khi có mặt cả hai vị từ hành động tri giác và vị từ nội dung
tri giác thì sau vị từ nội dung phải là một tiểu cú (kết cấu chủ-vị) đầy đủ hay
không đầy đủ – lý do là nó diễn đạt một nhận biết (= nhận định) của chủ thể về
đối tượng. Điều này đã dẫn đến một hệ luận là sau vị từ phương thức tri giác
không thể có một tiểu cú.
Về mặt cấu trúc thơng báo, trong cấu trúc có hai vị từ đang đề cập, vị từ
thứ hai chính là tiêu điểm thơng tin. Có thể chứng minh: trong thực tế nói năng,
phương thức là thành phần có thể bị lược bỏ, khi đó cấu trúc câu vẫn biểu hiện
một quá trình tri giác (quá trình tinh thần), nghĩa là đặc trưng chính của cấu trúc
vẫn được bảo tồn; trong khi đó, nếu lược bỏ vị từ nội dung, ta chỉ có một cấu
trúc biểu hiện quá trình vật chất (material process) (Halliday 2004).
Tuy nhiên khái niệm “đối tượng tri giác’’ và “nội dung tri giác’’ ở các
q trình thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác có sự khác biệt cần
thuyết minh thêm:
(i) Đối tượng của quá trình thị giác là bản thân cái thực thể mà mắt chúng
ta phóng đến (chẳng hạn ta nhìn cơ gái thì cơ gái chính là đối tượng), và nội
dung tri giác là những nhận biết (rất đa dạng) về thực thể (như cao, thấp, vui,



17 

buồn, ăn, nói) hoặc cảm xúc, cảm giác của chúng ta về thực thể (vui, buồn, lạ,
quen, yêu, ghét), trong nhiều trường hợp chúng ta lại có nhận biết về một thực
thể khác (như nhìn cơ gái nhưng lại thấy con sâu trên tóc cơ gái thì lúc này đối
tượng tri giác lại là con sâu trên tóc cơ gái); thậm chí, có khi đối tượng thị giác
khơng có mặt mà chỉ có hướng, khi đó nội dung tri giác chính là thực thể, hành
động, sự kiện nhận được (chẳng hạn nhìn vào nhà và thấy chị hai đang khóc);
(ii) Đối tượng của quá trình xúc giác là cái thực thể đem lại cho chúng ta
cảm giác hay cảm xúc về nó (như sờ vào con dao (= đối tượng) chúng ta nhận
thấy sắc, lạnh, cứng, đau, nhói, sợ (=nội dung)); có khi cái thực thể mà chúng
ta tiếp xúc là một khách thể định danh và nội dung mà chúng ta nhận biết chính
là bản chất của thực thể ấy (sờ vào một khối mềm mềm và thấy đó là con gấu
bơng);
(iii) Đối tượng của các q trình cịn lại, thông thường được hiểu là mùi,
vị, tiếng, đem lại cho chúng ta cảm giác hay cảm xúc về mùi, vị, tiếng đó (như
ngửi mùi cà phê (= đối tượng) thấy cho chúng ta cảm giác hay cảm xúc về mùi,
vị, tiếng đó (ngửi mùi cà phê (= đối tượng) thấy thơm hoặc thấy thèm (= nội
dung), nghe tiếng đứa bé cười (= đối tựợng). Có trường hợp đối tượng khơng
phải là mùi, vị, tiếng mà chính là nguồn phát hoặc thực thể tạo ra mùi, vị, tiếng
– khi đó tính chất, bản chất của mùi, vị, tiếng hoặc cảm giác, cảm xúc do mùi,
vị, tiếng tạo ra mới là nội dung tri giác được (ngửi tô phở (= đối tượng) thấy
thơm hoặc thấy thèm (= nội dung).


18 

CHƯƠNG II
VỊ TỪ TRI GIÁC TIẾNG VIỆT
Có thể nói tri giác chính là một phần khơng thể thiếu trong hoạt động của

động vật nói chung và con người nói riêng. Nó gắn với hoạt động của các cơ
quan cảm giác (ngũ quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác).
Để tham gia vào nhóm vị từ tri giác thì chủ thể tri giác phải là một thực thể: con
người, động vật, vật (được nhân cách hóa) có năng lực tri giác nhất định. Qua
quá trình khảo sát và nghiên cứu, căn cứ vào khung nghĩa của vị từ, chúng tôi
nhận thấy vị từ tri giác trong tiếng Việt xuất hiện dưới hai dạng gồm: một là vị
từ tri giác chính danh, và hai là vị từ tri giác phái sinh. Hai dạng này đều thể
hiện ở các phương thức tri giác khác nhau.
Căn cứ vào khung nghĩa của vị từ tri giác, chúng tơi có thể liệt kê các vị
từ tri giác chính danh chẳng hạn: nhìn, xem, thấy, trơng, coi, dịm, ngắm, nhịm,
ngó, quan sát, mục kích, nghe, sờ, rờ, ngửi, đánh hơi.
Ví dụ
(1) a. Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, em sung sướng
reo lên: “Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông.”
(Theo Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan, Truyện cổ tích
Thạch Sanh)
b. Ơng cứ đứng vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe

lỏm.

(Kim Lân, Làng)
c. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều.
(Theo truyện cười dân gian Việt Nam, Quả bí khổng lồ)
d. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ qn
quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhịm vào nói những câu bóng gió xa xơi,
như khía vào thịt ơng lão.
(Kim Lân, Làng)


19 


e. Nghe các anh, các chị đọc, những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí
óc tơi.
(Theo Thúy Lan, Cầu Long Biên-chứng nhân lịch sử)
Có thể kể một số vị từ tri giác phái sinh như háy, săm, săm soi, ngó
ngàng, ngắm nghía, dịm dỏ, dịm ngó, chú ý, chú mục, coi ngó, coi sóc, canh
chừng, canh giữ, bắt gặp, canh, canh gác, lắng, nhấn, rờ rẫm, đụng, chạm, hít,
hít hà,v.v...
(2)

a. Nó đưa mặt lên canh chừng rồi lại nhét tất cả vào túi sau khi cho
màu đen nhọ nồi vào một cái lọ cịn bỏ khơng. Xong nó vui vẻ
chạy đi làm những việc bố mẹ tôi phân công.
(Tạ Duy Anh, Bức Tranh của em gái tôi)
b. Thưa anh, em cũng muốn khôn nhưng khôn không được. Đụng
đến việc gì là em thở rồi, khơng cịn hơi sức đâu mà đào bới nữa.
(Tơ Hồi, Bài học đường đời đầu tiên. Trích Dế Mèn phiêu
lưu ký )
c. Mẹ tơi lấy xác mì, chứ khơng phải củ khoai mì ngun nấu lên,
thêm chút ít lá rau dại hái chung quanh nhà. Chúng vẫn ăn ngấu
nghiến, đêm đêm chèo queo bên thềm để canh trộm.
(Theo NLĐO, Sao nỡ ra tay tàn độc với lồi chó)

Các vị từ tri giác chính danh sẽ biểu đạt quá trình hành động của tri giác,
chẳng hạn “Mã Lương nhìn cây bút màu vàng sáng lấp lánh” (câu 1a), yếu tố
sau nhìn là diễn tố Mục tiêu của quá trình tri giác nhìn. Trong khi các vị từ tri
giác phái sinh chỉ thể hiện quá trình tri giác ở một số cấu trúc, còn lại đa phần
các vị từ này là vị từ hành động trong quá trình vật chất.
Theo quan điểm của Nguyễn Vân Phổ, chúng tơi chia vị từ tri giác ra
thành hai nhóm, gồm một bên là vị từ biểu thị phương thức tri giác và bên còn

lại là vị từ biểu thị nội dung tri giác. Trong nhóm vị từ biểu thị phương thức tri


20 

giác sẽ chia làm hai tiểu nhóm là vị từ hành động tri giác và vị từ miêu tả tri
giác, chúng tơi sẽ đi vào phân tích về ngữ pháp và ngữ nghĩa của từng loại.
2.1. VỊ TỪ HÀNH ĐỘNG TRI GIÁC (ACTIVITY PERCEPTION VERBS
HOẶC ACTIVE VERBS)
Vị từ hành động tri giác nhằm tri giác đối tượng (có thể gọi là đối tượng
tri giác), là những vị từ [+chủ ý], chủ thể của hành động (hành thể) cũng đồng
thời là Đề (chủ ngữ) của vị từ chính, vì đây là những vị từ [+chủ ý ] nên có thể
cấu tạo thức mệnh lệnh, có thể tham gia cấu trúc mục đích, có thể có yếu tố
phương hướng hành động đi kèm, các danh ngữ sau các vị từ hành động tri giác
đều là những đối tượng mà hành động của chủ thể hướng đến, xét về mặt ngữ
nghĩa, danh ngữ theo sau vị từ hành động tri giác là Mục tiêu.
Các vị từ hành động tri giác địi hỏi có hai diễn tố : diễn tố thứ nhất là
Hành thể (actor-chủ thể tri giác) và diễn tố thứ hai là Mục tiêu (goal) hoặc
Hướng (direction), riêng phương thức thị giác có thể có diễn tố Hướng.
Vị từ hành động tri giác có trong tất cả các phương thức gồm phương
thức thị giác, phương thức thính giác, phương thức khứu giác, phương thức xúc
giác và phương thức vị giác. Trong chương này, chúng tơi sẽ khảo sát nhóm vị
từ hành động tri giác qua từng phương thức mà đầu tiên là phương thức thị giác
(phương thức biểu đạt hành động tri giác bằng mắt).
2.1.1. Phương thức thị giác
Ở phương thức thị giác, chúng tơi sẽ phân tích vị từ nhìn - vị từ hành
động tri giác, và sau đó tiến hành các bước so sánh nhìn với xem và trơng để
tìm ra điểm khác biệt về ngữ nghĩa - ngữ pháp của các vị từ này.
2.1.1.1. Nhìn - vị từ hành động tri giác
Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ, nghĩa của một từ được xác định căn

cứ vào ngữ cảnh chứ không phải chỉ dựa vào nghĩa trong từ điển. Theo Từ điển
tiếng Việt (Hoàng Phê (Chủ biên), Trung tâm Từ điển ngơn ngữ, Nxb Đà
Nẵng,2006) nhìn có nghĩa là đưa mắt về một hướng nào đó để thấy.


21 

Ví dụ: Hai con mắt long lanh của cơ tơi chằm chặp nhìn tơi.
(Ngun Hồng, Những ngày thơ ấu)
Nhìn là hành động để mắt vào một thực thể nào đó (người hoặc vật), hoặc
đưa mắt về một hướng nào đó (khơng có hay chưa có đối tượng cụ thể). Ở đây,
nhìn khơng hẳn “nhằm mục đích tri giác đối tượng”, điều này thể hiện rõ ở cấu
trúc diễn tố của nhìn và ở sự đối lập giữa nhìn và xem, thấy.
Nhìn là một hành động có chủ ý của chủ thể, chủ thể phải sử dụng giác
quan trong một thời gian nhất định để thực hiện hành động đó. Theo Cao Xuân
Hạo trong “tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng” chỉ rõ sự khác biệt giữa
hành động nhìn với các hành động khác ở chỗ: khi thực hiện hành động nhìn
chủ thể khơng làm biến đổi, tạo mới hoặc hủy diệt đối tượng mà thông thường
chỉ sử dụng các giác quan của mình để tri giác đối tượng [tr. 235]
Ví dụ:
(3)

a. Con mèo nhìn em bé.
b. Nghe gọi, con bé giật mình, trịn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng.
Cịn anh, anh khơng ghìm nổi xúc động.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc Lược Ngà)

Trong hai ví dụ (3a,b) nêu ở trên “em bé” (câu 3a) và “con bé” (câu 3b)
không phải chịu sự tác động trực tiếp nào cả, đôi khi “em bé” hoặc “con bé” có
thể có sự thay đổi thái độ nào đó, ví như sợ hãi, lo lắng, an tâm, vui mừng. Tuy

nhiên, sự thay đổi đó là sự thay đổi về tâm lý, không tất yếu là kết quả của hành
động “nhìn”
Trong thực tế, nhìn khơng hẳn nhằm mục đích tri giác đối tượng mà cịn
nhằm mục đích khác. Có thể thấy rõ qua những ví dụ sau đây:
(4)

a. Anh giận dữ nhìn con. Cơ bé nép sát vào tường, đôi mắt tự dưng
rưng rưng lệ.
b. Anh nhìn cơ đắm đuối, dường như nỗi nhớ bao ngày qua dồn hết
vào đơi mắt ấy.
c. Mẹ nhìn tơi trìu mến, tình u mẹ đã dành hết cho tơi.


22 

Ở những câu trên, nhìn nhằm truyền đạt một thái độ (4a) hay tình cảm
(4b), (4c) đến đối tượng. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm nhận của chủ thể, chứ khơng
thể hiện về mặt từ vựng, do đó vẫn thỏa tiêu chí: nhìn chỉ là hành động để mắt
hoặc hướng mắt đến đối tượng.
Như vậy, nhìn địi hỏi hai diễn tố: diễn tố thứ nhất là Hành thể (chủ thể
tri giác) và diễn tố thứ hai là Mục tiêu (Goal) hoặc Hướng (Direction). Nói như
Halliday trong “An Introduction to Functional Grammar” : sau nhìn là một vật
(thing), một hoạt động (act) chứ không thể là một sự kiện (fact) [tr. 203-206]
(5)

a. Tơi nhìn con chim.
b. Tơi nhìn con chim đang bắt sâu trên cành.

Trong cấu trúc ngữ nghĩa của nhìn, ngồi diễn tố Mục tiêu, sau nhìn cịn
diễn tố Hướng.

Xét các ví dụ sau:
(6)

a. Bà cụ ngồi trong nhà nhìn ra đường.
b. Nhìn vào mưa thấy hình em rất rõ
Trong màn mưa xanh ụ súng quê nhà
Ngoài xa tiếng bánh xe trong gió
Tàu chở hàng tiền tuyến đã rời ga.
(Thi Hồng, Thư ngày mưa)

Danh ngữ “đường” sau vị từ nhìn trong câu (6a) là thành phần diễn đạt
Hướng của hành động. Danh ngữ “mưa” theo sau vị từ nhìn ở câu (6b) cũng là
thành phần diễn đạt Hướng của hành động, đóng vai trị diễn tố thứ hai, bảo
đảm cho cấu trúc trên hoàn chỉnh về cả ngữ pháp và ngữ nghĩa.
Nhìn là một hành động [+chủ ý], như vậy hành động có đặc điểm như: có
một khoảng thời gian nhất định, có thể cấu thành thức mệnh lệnh, có thể mang
ý nghĩa mục đích, có thể có hành động kèm theo.
Xét các ví dụ sau:
(7)

a. Thi thoảng con bé vẫn quay lại nhìn Hạnh, cố tìm lấy một nét
thân thuộc và gần gũi với hình ảnh người mẹ trong bức ảnh để đầu


×