Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Hoạt động ngoại giao của chính phủ nước việt nam dân chủ cộng hòa năm đầu tiên sau cách mạng tháng tám từ ngày 291945 đến 19121946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 58 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH PHỦ
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM ĐẦU TIÊN
SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
TỪ NGÀY 2/9/1945 ĐẾN 19/12/1946

Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp
Giáo viên hướng dẫn

: Nguyễn Thị Ánh
: Sư phạm Lịch sử
: 13SLS
: Th.S Nguyễn Mạnh Hồng


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Lịch sử trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng và sự
đồng ý của thầy giáo hướng dẫn Th.S. Nguyễn Mạnh Hồng tôi đã thực hiện đề tài “Hoạt
động ngoại giao của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm đầu tiên sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 (2/9/1945 đến 19/12/1946)”.
Để hồn thành khóa luận này. Tơi xin chân thành cảm ơn thầy cơ giáo đã tận tình
hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở trường Đại
học Sư Phạm Đà Nẵng.Xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Th.S. Nguyễn Mạnh
Hồng đã chu đáo hướng dẫn tơi thực hiện khóa luận này.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiền đề tài một cách hoàn chỉnh nhất. Song
do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như những hạn chế về
mặt kiến thức và kinh nghiệm nên khơng thế tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản
thân chưa thấy được. Rất mong được sự góp ý của quý thầy, cô giáo và các bạn để khóa
luận được hồn chỉnh hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Ánh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .......................................................... 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 7
5.1. Nguồn tư liệu ....................................................................................................... 7
5.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................... 8
7. Cấu trúc của đề tài ...................................................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………...5
Chương 1. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO TRONG LỊCH SỬ..... 9
1.1. Thời kỳ Văn Lang-Âu Lạc .................................................................................. 9
1.2. Thời kì chớng phương Bắc đơ hộ ...................................................................... 10
1.3. Thời kì phong kiến............................................................................................. 12
1.4. Thời kì Pháp thuộc (1858 - 1945) ..................................................................... 14

1.4.1 Thời kì 1858 - 1920 ......................................................................................... 14
1.4.2 Hoạt động ngoại giao từ năm 1920 đến 1930.................................................. 17
1.4.3 Hoạt động ngoại giao từ 1930 đến năm 1939.................................................. 19
1.4.4 Hoạt động ngoại giao từ 1939 đến năm 1945.................................................. 20
Chương 2 HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM23
2.1 Những thuận lợi và khó khăn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm đầu
tiên sau Cách mạng tháng Tám ............................................................................. 23
2.1.1. Thuận lợi ......................................................................................................... 23
2.1.2 Khó khăn.......................................................................................................... 24


2.2 Hoạt động ngoại giao của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (2/9/1945 đến 19/12/1946) ......................... 26
2.2.1 Thực hiện hòa hỗn với Trung Hoa Dân q́c ở miền Bắc, chớng Pháp ở miền Nam
từ ngày 2/9/1945 đến ngày 6/3/1946 ........................................................................ 26
2.2.1.1 Tình hình……………………………………………………………...........21
2.2.1.2 Hoạt động ngoại giao……………………………………………………....22
2.2.1.3 Đánh giá……………....................................................................................26
2.2.2 Thực hiện hịa hỗn với Pháp để đuổi cổ qn Trung Hoa Dân quốc và tay sai của
chúng về nước từ ngày 6/3/1946 đến 19/12/1946 .................................................... 33
2.2.2.1 Tình hình trong và ngoài nước…………………………………………......27
2.2.2.2 Hoạt động ngoại giao………………………………………………............29
2.2.3 Đánh giá ........................................................................................................... 41
2.3 Bài học kinh nghiệm ........................................................................................ 42
PHẦN KẾT LUẬN……..……………………………………................................39
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 56



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử nhân loại, hoạt động ngoại giao xuất hiện rất sớm và ngày càng trở
nên quan trọng đối với mỗi quốc gia. Trải qua những chặng đường lịch sử, ngoại giao
Việt Nam từng bước được xây dựng và trưởng thành vững chắc, kế thừa truyền thống của
cha ông, kết hợp với những đặt trưng của thời kì mới để ngày càng phát triển. Sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, ngoại giao Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới.
Nền ngoại giao Việt Nam từ ngày 2/9/1945 đến ngày 19/12/1946 là một nền ngoại
giao mới cùng với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuy là khoảng thời
gian ngắn nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ngoại giao Việt Nam đã thực hiện
những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt lúc hồ với
Tưởng, tập trung sức chớng Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với Pháp để đuổi Tưởng
về nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ.
Với mong ḿn tìm hiểu rõ một nội dung quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện
đại, đồng thời xuất phát từ bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, tơi chọn đề tài:
“Hoạt động ngoại giao của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm đầu tiên
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (2/9/1945 đến 19/12/1946)” để làm khóa luận tớt
nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ngoại giao trong hai năm 1945 - 1946 đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu:
Tác giả Vũ Đình Huân trong tác phẩm: “Ngoại giao từ thời kì dựng nước đến
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” do Học viện Quốc tế biên soạn và xuất bản vào
năm 2001 đã cung cấp những thông tin quan trọng và quý báu về hoạt động ngoại giao
nước ta qua các thời kì: Văn Lang - Âu Lạc, thời Bắc thuộc đến thời phong kiến và cuối
cùng là Pháp xâm lược nước ta.


Trong cuốn sách “Những sự kiện lịch sử Việt Nam 1945 - 1975” đã có những trang
viết về hoạt động ngoại giao tài tình của Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tác giả Nguyễn Phúc Huân trong tác phẩm “ Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp giành độc lập tự do (1945 - 1975)” đã khẳng định: “Nhờ có đường lối kháng
chiến và chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, đồng thời nhờ kinh nghiệm trong hoạt
động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã phát huy
các nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn phức tạp, biến yếu tố quốc tế, yếu tố thời
đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường sức mạnh thực lực của nhân dân ta trong
cách mạng và kháng chiến” [16, tr7]. Bên cạnh đó tác giả còn khẳng định vai trị của tinh
thần đồn kết q́c tế đới với thắng lợi của đấu tranh ngoại giao.
Tác phẩm “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” của Nhà xuất bản Chính trị q́c gia là
một cơng trình ngoại giao lớn và có giá trị quan trọng. Các tác giả đã trình bày tồn bộ
hoạt động ngoại giao Việt Nam từ năm 1945 - 2000 trong đó tác giả đã phân tích sâu về
hoạt động ngoại giao của ta sau Cách mạng tháng Tám, khẳng định ngoại giao là một mặt
trận đấu tranh, một vũ khí tiến cơng sắc bén trên trường q́c tế.
Các nguồn tư liệu trên đây đều là các nguồn tư liệu quan trọng đề cập đến nhiều
khía cạnh khác nhau của cuộc đấu tranh ngoại giao trong thời gian từ năm 1945 đến năm
1946. Có tác phẩm trình bày một cách hệ thớng theo tiến trình của nền ngoại giao trong
cuộc đấu tranh, có tác phẩm chỉ tập trung đi sâu phân tích một giai đoạn cụ thể. Trên cơ
sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả, tôi sưu tầm tập hợp lại cố gắng làm rõ các
hoạt động ngoại giao của Đảng và Chính phủ ta trong thời gian từ 2/9/1945 đến
19/12/1946.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nắm vững những kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám. Thông qua việc nghiên cứu, đề tài nhằm mục đích dựng lại những hoạt động ngoại
giao của nước ta từ thời kì dựng nước đến Cách mạng tháng Tám thành công mà trọng
tâm là những ngày 2/9/1945 đến 19/12/1946 thấy được những cơng lao to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.


Làm rõ vai trò của mặt trận và đấu tranh ngoại giao đới với cơng cuộc xây dựng và
gìn giữ đất nước của Đảng và Chính phủ ta.

4. Đới tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các vấn đề liên quan đến nền ngoại giao nước ta
nhưng với đề tài này tôi tập trung nghiên cứu vào các hoạt động ngoại giao của Đảng và
Chính phủ ta sau Cách mạng tháng Tám.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động ngoại giao của Đảng và nhà nước
ta từ ngày 2/9/1945 đến ngày 19/12/1946.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện khóa luận này, tơi sử dụng các tài liệu từ các sách chuyên khảo, báo,
tạp chí, hồi kí, nguồn tranh ảnh trong và ngồi nước, một sớ cơng trình nghiên cứu, các
tài liệu trên các trang web liên quan tới lịch sử Việt Nam, cũng như nhiều tài liệu tham
khảo khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc phạm trù khoa học giáo dục liên quan đến khoa học lịch sử, tôi
chọn các phương pháp sau:
- Phương pháp luận: Cơ sở của việc nghiên cứu vấn đề này là lý luận CN Mác Lênin, Hồ Chí Minh, Đường lới của Đảng Cộng Sản Việt Nam về lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết các cơng trình
nghiên cứu, các tài liệu liên quan đến vấn đề lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Để nghiên cứu đề tài này ngồi việc sử dụng các phương pháp có tính ngun tắc
như: Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
khác nhau như phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh đới chiếu phù hợp với yêu cầu
của đề tài để rút ra các kết luận khoa học.


6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này tơi cớ gắng làm nổi bật được vai trị và phục dựng lại bức tranh về
nền ngoại giao sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mong muốn của tôi là đề tài sẽ góp
phần bổ sung tư liệu cho những ai quan tâm. Đồng thời rút ra những bài học tham khảo
cho cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao thời kì đất nước đang trong quá trình hội
nhập hiện nay.

7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài
được chia làm hai chương:
Chương 1: Vài nét về hoạt động ngoại giao trong lịch sử.
Chương 2: Hoạt động ngoại giao của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO TRONG LỊCH SỬ
1.1. Thời kỳ Văn Lang-Âu Lạc
Nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào
năm 258 TCN bởi An Dương Vương Thục Phán. Từ đây hình thành quan niệm dân gian
coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và
thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.Âu Lạc là nhà nước được thành lập
bởi Thục Phán năm 214 TCN, nhà nước này đã thống nhất 2 bộ tộc Âu Việt- Lạc Việt lại
với nhau và đã thành công trước cuộc xâm lược của nhà Tần, nhưng sau cùng thất bại
trước Nam Việt của Triệu Đà.
Sử sách Trung Quốc ghi nhận: Năm Mậu Thân (tức năm thứ 5 đời vua Đương
Nghiêu ở Trung Quốc) theo dương lịch là năm 2353 TCN, một sứ bộ ngoại giao đầu tiên
của vua Hùng nước ta đã chủ động tới thăm Trung Q́c. Theo sử Trung Q́c thì sứ bộ
của ta đã qua hai lần thông dịch mới tới được Trung Quốc điều đó cho thấy sứ bộ ta đã
tiếp xúc ngoại giao với nhiều dân tộc khác trên con đường tới Trung Quốc. Trong điều
kiện đường đất xa xôi, cách trở như vậy, mà sứ bộ của ta đã kỳ công đem tặng vua
Nghiêu (Trung Quốc) một con rùa lớn. Ở phương Đông từ thời cổ rùa là biểu tượng cho
sự sớng trường tồn hàng nghìn, vạn năm. Về ngoại giao, nhà nước ta từ thời vua Hùng
tặng nhà nước Trung Quốc thời vua Nghiêu con rùa quý này với một ý nghĩa tốt đẹp
mong muốn cho quan hệ thân thiện giữa hai nước được bền vững, dài lâu.
Hơn một nghìn năm sau Việt Nam và Trung Q́c vẫn xa nhau hàng vạn dặm

nhưng một sứ bộ ngoại giao của ta lại sang thăm Trung Quốc lần thứ hai vào năm thứ 6
đời vua Thành Vương nhà Chu tức năm 1110 TCN. Theo sử Trung Quốc qua ba lần
thông dịch sứ bộ của ta mới tới kinh đô nhà Chu ở vùng Cam Túc. Sứ bộ ngoại giao ta
đem tặng vua nhà Chu Trung Quốc chim trĩ trắng là loại chim quý nhất ở phương Nam


lúc bấy giờ. Nhà Chu Trung Quốc trân trọng đáp lại cho làm năm cỗ xe có kim chỉ nam
để đưa sứ bộ ngoại giao ta về nước.
Những sự tiếp xúc đối ngoại của dân tộc ta mà sử sách Trung Quốc ghi lại được
chứng minh dân tộc ta đã dựng nước sớm, tiến hành ngoại giao cũng sớm và rất chủ động
trong ngoại giao. Với những dân tộc ở xa như Trung Quốc thười ấy, dân tộc ta cũng chủ
động cho sứ tới giao thiệp, khơng ngồi mục đích thân thiện giữa hai dân tộc.
Phong cách ngoại giao của ta thời Hùng Vương còn cho thấy dân tộc ta là một dân
tộc sớm có văn hiến, hiểu biết được những biểu tượng cao đẹp của tình cảm con người
với con người, của dân tộc này với dân tộc khác và biết sử dụng những biểu tượng đó làm
quà tặng trong giao tiếp đối ngoại. Từ thời bấy giờ, dân tộc ta đã có ý thức đoàn kết, hữu
nghị trong sáng, nhiệt tình và chân thành với tất cả các dân tộc, dù ở xa ta hàng vạn dặm.
1.2. Thời kì chớng phương Bắc đơ hộ
Trong các thời đại xã hội có giai cấp, nhất là thời phong kiến, quan hệ đối ngoại
giữa các nước phổ biến là một thứ quan hệ bất bình đẳng “cá lớn ńt cá bé”, nước lớn
xâm lược nước nhỏ, xâm lược chưa được thì bắt nước nhỏ phải làm chư hầu, phiên thuộc,
phải nộp cớng, phục dịch nước lớn. Nước lớn ḿn gì, nước nhỏ phải cung phụng không
dám trái: Vàng bạc, châu báu, những thú vật quý hiếm, kể cả bắt người làm nô lệ… Giữa
các nước nhỏ với nhau, quan hệ tuy không căng thẳng lắm nhưng không tránh khỏi diễn
ra cảnh khiêu khích, xung đột, lấn chiếm lẫn nhau. Quan hệ đối ngoại của nước ta đối với
các nước khác cũng không sao tránh được các thông lệ của thời đại.
Đối với Trung Quốc, nước ta thời Hùng Vương đặt quan hệ thân thiện trong một
thời gian dài như thế là hiếm có. Nhưng rồi thời thế thay đổi, mối quan hệ giữa các nước
cũng đổi khác. Từ thời dựng nước ở vùng Cam Túc xa xôi, hẻo lánh, người Hán ngày
càng mở rộng biên giới, chiếm đoạt lãnh thổ của nhiều nước, xóa bỏ nhiều q́c gia lân

cận, bành trướng rất mạnh x́ng phía Nam và Trung Q́c nhanh chóng trở thành một
nước rộng lớn bậc nhất ở châu Á từ mấy thế kỷ TCN.
Tới cuối thế kỷ thứ III TCN, biên giới Trung Quốc đã mở rộng tới sát biên giới ta.
Lúc này, dù nước ta muốn giao hảo thì các triều đại phong kiến Trung Q́c cũng khơng


chịu dừng bước bành trướng xâm lược. Nhà Hán bắt đầu xâm lược, đánh phá nước ta liên
tiếp trong nhiều thế kỷ. Cũng từ đó quan hệ đối ngoại của ta với các triều đại phong kiến
Trung Q́c khơng cịn là hịa bình hữu nghị như trước. Dân tộc ta phải tiến hành một
cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ chống các đạo quân phong kiến Trung Quốc xâm lược
diễn ra liên tục trong hơn mười thế kỷ.
Trong thế kỷ thứ VII có các phong trào khởi nghĩa do Lý Tự Tiên, Đinh Kiến lãnh
đạo. Sang thế kỷ VII xuất hiện một phong trào cứu nước lớn mạnh do Mai Thúc Loan
lãnh đạo. Theo sách sử Trung Quốc và truyền thuyết của ta thì mùa hè năm Quý Sửu 713
Mai Thúc Loan bắt đầu ra quân đánh địch và thu phục ngay được Châu Hoan. Khi đã lên
ngôi vua, Mai Thúc Loan đề ra đường lối đối nội, đối ngoại rất rõ ràng, cụ thể và thật
sáng suốt.
Về đối nội, ông cho người đi các châu huyện báo tin thắng trận và kêu gọi nhân
dân 32 châu trong cả nước cùng nổi dậy phối hợp chiến đấu tinh thần đại đồn kết của
ơng được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ.
Về đối ngoại, ông tiến hành vận động liên minh quân sự với nước ngoài để cùng
đánh giặc. Đây là nét độc đáo trong kế sách đối ngoại của Mai Thúc Loan. Sử Trung
quốc ghi rằng ông đã liên minh với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp (tức Campuchia ngày
nay) và Kim Lân (tức Malaixia ngày nay). Truyền thuyết kể lại cụ thể: “Mai Đại Đế khởi
nghĩa năm Quý Sửu thì năm sau là năm Giáp Dần cử một tướng là Tiết Anh làm Lâm Ấp
thông vấn sứ và một tướng là Hoắc Đam làm Chân Lạp cáo dực sứ. Hai tướng chính
thức đi sứ sang hai nước Lâm Ấp, Chân Lạp để thông báo chiến thắng và đề nghị hai
nước liên minh quân sự cùng đánh giặc” [11, tr32]. Với hai nước láng giềng phía nam
này thì ngay từ khi chuẩn bị khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã cho một tướng là Ba Đội Hầu
sang liên hệ, hai nước Chân Lạp và Lâm Ấp đều nhiệt liệt hưởng ứng liên minh.

Đoàn kết với các nước láng giềng liên minh quân sự với các nước bạn để cùng
chiến đấu chống xâm lược là một sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại và đường
lối chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta cách đây hơn một nghìn năm. Đó cũng là
điểm rất cao quý trong tài năng chỉ đạo chiến tranh của các vị anh hùng dân tộc trẻ tuổi


của dân tộc ta, tuy xuất thân từ lớp người cùng khổ, lam lũ, nhưng tầm mắt chính trị,
quân sự, ngoại giao sâu rộng hơn người, biết kết hợp chặt chẽ chính trị, quân sự với ngoại
giao để đánh thắng giặc.
1.3. Thời kì phong kiến
Ći thế kỷ IX những binh lính người Việt dưới quyền tiết chế của tiết độ sứ nhà
Đường đã nổi lên làm một cuộc binh chiến rất lớn, đánh đuổi tiết độ sứ cùng toàn bộ
quan lại, quân sĩ của chúng về nước. Cả nước sạch bóng quân xâm lược một người anh
hùng dân tộc là Khúc Thừa Dụ lên cầm quyền trị nước, chấm dứt ách thống trị của bọn
xâm lược nhà Đường.
Về đối nội, nhân dân ta từ đây tự tổ chức lấy chính quyền độc lập của mình. Về
đới ngoại, Khúc Thừa Dụ thi hành một sớ chính sách mềm dẻo nhằm ngăn chặn nhà
Đường mưu đồ tái chiếm nước ta để ta xây dựng đất nước. Do đó, Khúc Thừa Dụ tự nhận
mình là tiết độ sứ thay mặt nhà Đường cầm quyền ở Việt Nam. Với phương thức đối
ngoại này của Khúc Thừa Dụ quan hệ giữa nước ta và nhà Đường tưởng như khơng có gì
khác trước nhưng về căn bản rất khác. Khác ở chỗ người Việt Nam tự cai trị người Việt,
nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ. Chủ trương ngoại giao hịa hỗn, mềm dẻo của Khúc
Thừa Dụ tạo điều kiện cho nhân dân ta và họ Khúc giữ vững chủ quyền dân tộc trong
khoảng nửa thế kỷ.
Sau khi đánh thắng quân Nam Hán đầu năm 939 Ngô quyền lên ngôi vua, cần
quyền trị nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các vương
quyền phương Bắc. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà ông vừa
đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong “Ngũ đại thập quốc” lúc ấy.
Nhưng ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được sinh cơ lập nghiệp ở lãnh
thổ do mình cai quản. Ngơ Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ Trung Quốc bị thất bại

trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta.
Đến thời Đinh, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, quan hệ ngoại giao với Trung Q́c
cũng chưa đặt ra ngay vì Trung Quốc chưa chấm dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc”.
Đinh Tiên Hồng lên ngơi vua được hai năm thì vào năm 970 ở Trung Quốc, Tống Thái


Tớ (tức Triệu Khng Dận) tiến qn x́ng phía Nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam
Hán bị diệt. Từ đấy biên giới Tống sát với nước ta.
Tống đặt quan hệ giao hảo với ta chưa có ý đồ gì khác, vì Trung Q́c chưa thớng
nhất. Nhà Tớng cịn phải lo đới phó với một sớ nước “thập quốc” ở phía bắc và phía
đơng cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hịa bình hữu nghị. Có điều đặc biệt
trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hồng là ơng vẫn làm vua, vẫn
cầm quyền trị nước nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông lại cho con trai là
Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hồng đế nhà Tớng.
Đến thời Lê, riêng về ngoại giao trong quan hệ với nhà Tớng, Lê Hồn đã thực
hiện một chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn để giữ vững hòa hảo giữa hai nước,
nhưng cứng rắn để hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống. Đây là một
thắng lợi ngoại giao tỏ rõ sức mạnh của dân tộc ta vào thời kỳ Lê Hoàn làm vua và ưu thế
của người Việt Nam trong quan hệ đối ngoại thời đó. Đối với nhà Tống quan hệ hòa hảo
giữa hai nước vẫn giữ vững nhưng chỉ mình sang nước người mà người khơng được sang
nước mình, chấm dứt mọi hành động hớng hách, hạch sách của sứ Tống đối với nhân dân
Việt Nam. Những thắng lợi ngoại giao của Lê Hồn có ảnh hưởng tớt trong nhiều năm
sau khi ông qua đời. Cuối năm 1005 Lê Long Đĩnh lên ngôi nhưng chưa đặt quan hệ với
nhà Tớng ngay vì sau khi Lê Hồn chết bọn vua chúa nhà Tớng mưu tính đánh cướp
nước ta.
Như vậy vua Tớng vẫn cịn do dự trong quyết định xâm lược nước ta chứng tỏ một
bước thắng lợi trong chính sách ngoại giao của triều đình và nhân dân ta dưới thời Lê sơ.
Khẳng định được vị thế của một đất nước có chủ quyền và Đại Việt khơng cịn là một
nước bé nhỏ dễ dàng bị xâm lược bất cứ lúc nào. Vua Tống nhận lời tặng áo giáp, mũ trụ
cho Lê Long Đĩnh và nhận để người Việt Nam sang buôn bán tại Liêm Châu và trấn Như

Hồng. Về con tê ngưu, vua Tống không muốn nhân lấy lý do là tê ngưu từ xa đến, không
hợp thủy thổ, muốn trả lại. Rõ ràng quan hệ giữa nhà Lê và nhà Tống giai cấp phong kiến
Việt Nam mặc dầu về danh nghĩa chịu thuần phục vua Tống và hàng năm nộp cớng
nhưng thực chất rất bình đẳng đơi khi còn giữ ưu thế.


Đối với Chămpalúc bấy giờ nằm vẫn giữ thái độ thù địch với nhà Lê. Sau khi lên
ngơi. Lê Hồn sai Thừ Mục và Ngô Tứ Canh sang sứChămpa giao hảo nhằm yên mặt
Nam. Kháng chiến chống Tống thắng lợi năm 982 Lê Hoàn liền cho quân: “Sửa sang
thuyền chiến và đổ giáp binh, tự làm tướng, đi đánh chém. Được tướng nước ấy là Bể Mi
Thuế tại trận, bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chàm bỏ thành. Ta bắt được rất nhiều
cung nữ và vàng bạc châu báu kể có hàng vạn” [1, tr75]. Từ đó quan hệ giữa Đại Cồ Việt
và Chămpa trở lại bình thường.
Đến nhà Trần (1226 - 1409) trong gần 200 năm tồn tại bao gồm cả quan hệ với các
nước Đông Nam Á nhưng chủ yếu là quan hệ với nhà Nguyên (1271 - 1368). Chính qua
quan hệ này mới tỏ rõ hết được tầm vóc ngoại giao của Đại Việt với nguyên tắc vững
vàng, sách lược mềm dẻo khôn khéo như thế này [21, tr27]. Thật nổi bật là việc nhà Trần
đã khơn khéo kéo dài hịa hỗn 25 năm trong hồn cảnh liên tục phải đới phó với các u
sách của Hốt Tất Liệt. Về sách lược, vua Trần Thánh Tông rồi vua Trần Nhân Tông vẫn
luôn luôn ra mặt tỏ sự tơn kính thiên triều, cử sứ bộ nộp cớng đều đặn, giữ lễ của nước
nhỏ với nước lớn, thậm chí phải chịu nhục để bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Như vậy ngoại giao nước ta từ khi dựng nước trải qua các thời kì với các triều đại
phong kiến đã được định hình và có những bước phát triển mới. Dựa vào tình hình hồn
cảnh của đất nước ta, các triều vua khi lên ngôi đã cố gắng tạo những mối quan hệ thân
thiện, hữu nghị với các nước láng giềng nhằm giữ vững chủ quyền độc lập dân tộc và tạo
điều kiện để đất nước phát triển.
1.4. Thời kì Pháp thuộc (1858 - 1945)
1.4.1 Thời kì 1858 - 1920
Ngoại giao của khởi nghĩa Lam sơn cũng có nét đặc thù là ngay từ đầu đã mở
được cục diện vừa đánh vừa đàn. Lúc mới dựng cờ khởi nghĩa, giữa nghĩa quân Lam Sơn

và quân chiếm đóng nhà Minh vẫn có trao đổi thư từ, phái viên. Hình thức ngoại giao
gián tiếp này duy trì mãi cho đến hết chiến tranh để cuối cùng phát triển thành đàm phán
trực tiếp tại Đông Quan, về giải pháp kế hoạch rút quân, trao đổi con tin. Như vậy thông


śt tồn bộ cuộc kháng chiến chớng Minh về cơ bản vẫn là mềm dẻo bên ngoài, giữ
vững thực lực và chủ quyền bên trong, mềm dẻo để đi đến tồn thắng ći cùng.
Đến triều đại Tây Sơn, điều đặc biệt trong đối ngoại là thời gian. Đặc điểm của
thời gian đó là giặc đến nhà thì phải đánh, giai đoạn sau là hòa hiếu giải quyết những vấn
đề sau chiến tranh bằng ngoại giao mềm mỏng ở đây giai đoạn hậu chiến mềm mỏng
nhưng không phải mềm mỏng nhân nhượng đến cùng mà xóa nhịa ngun tắc. Sau chiến
thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Quang Trung soạn tờ biểu gửi vua Càn Long và phân trần
rằng: “Tơi khơng có ý xâm phạm biên cảnh để đắc tội với thượng quốc” [2, tr.176]. Tờ
biểu thì mềm dẻo đã phân tích nguyên nhân xảy ra chiến tranh, kể tội Tôn Sỹ Nghị - kẻ
cầm đầu cuộc xâm lược nước ta nhằm khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ địch và xin
xưng thần nộp cớng, vẫn cớ ý giữ gìn thể diện của thiên triều. Quang Trung còn đòi 7
châu thuộc Hưng Hóa và cầu hơn cơng chúa nhà Thanh, địi Lưỡng Quảng. Hai việc sau
này tuy chưa có kết quả nhưng cũng đã nói lên giai đoạn hậu chiến là giai đoạn hòa hiếu,
tỏ rõ sự nhún nhường của Việt Nam. Tuy phải nhượng bộ nhưng vẫn tỏ rõ sức mạnh của
nước Nam.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, các vua Nguyễn như Gia Long (1802 - 1819),
Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1883) đã trả thù tàn
bạo nhà Tây Sơn. Năm 1804 nhà Nguyễn chính thức cơng bớ tên nước là Việt Nam, đóng
đô ở Phú Xuân (Huế).Nhà Nguyễn thuần phục nhà Thanh, đóng cửa cự tuyệt quan hệ với
các nước phương Tây. Từ thế kỉ XVIII các nước phương Tây bắt đầu nhòm ngó Việt
Nam, sự cầu cứu của Nguyễn Ánh đã làm cho Pháp chú ý nhiều hơn đến nước ta. Năm
1858 Pháp xâm lược nước ta, suốt thời kỳ Pháp xâm lược và đô hộ, cuộc đấu tranh chống
xâm lăng của nhân dân Việt Nam thực chất là cuộc đấu tranh ngoại giao.
Những hoạt động ngoại giao của nước ta trong thời kì này được thể hiện xun
śt qua các hiệp ước được kí kết với Pháp xong khơng đem lại lợi ích cho cách mạng

nước ta lúc bấy giờ. Đầu tiên đó là sau khi chiếm song ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ tướng
Pháp Boona đã nhân lúc vua Tự Đức cịn đang lưỡng lự và ḿn nghị hịa, cùng với các
đại diện của triều đình Huế là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp kí kết Hiệp ước Nhâm
Tuất với Hiệp ước này bước đầu gây bất lợi cho triều đình ta, vua Tự Đức khơng có sách


lược đúng đắn khi có thái độ không rõ ràng buộc nước ta phải bồi thường cho Pháp đến
20 vạn quan chiến phí, cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo, bãi bỏ
lệnh cấm đạo trước đây, cịn phía Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình khi nào
triều đình buộc dân chúng thơi chống Pháp, rõ ràng một điều Hiệp ước này chỉ có lợi cho
Pháp.
Thứ hai đó là Hiệp ước Giáp Tuất vào năm 1874 giữa triều đình Huế và Pháp,
Hiệp ước còn có tên gọi khác đó là “Hiệp ước hòa bình và liên minh” hay “Hiệp ước
Philastre”. Trong Hiệp ước thừa nhận chủ quyền của Pháp trên đất từ địa giới Nam tỉnh
Bình Thuận đến hết Nam Kỳ gồm có 22 điều khoản và có một nội dung quan trọng về
mặt ngoại giao đó là: “Vua nước Nam phải thi hành chính sách đối ngoại của mình cho
phù hợp với chính sách đối ngoại của nước Pháp, về mặt chính trị không được thay đổi
những mối quan hệ ngoại giao hiện nay với Pháp, không được tự ý ký hiệp ước thương
mại với bất cứ một nước nào khác mà khơng báo cho chính phủ Pháp biết” (điều 3) [2,
tr55]. Qua hiệp ước này đã gây nên sự phản ứng dữ dội trong quần chúng nhân dân cũng
như các quan chức yêu nước về việc triều đình Huế thừa nhận sự cai trị của Pháp ở xứ
Nam Kỳ cũng từ đây mà phong trào nhân dân đã có thực tiễn để tới một nhận thức mới
đó là chống Pháp phải đi đầu với việc chớng triều đình đầu hàng.
Chiến thắng Cầu giấy lần thứ hai làm quân Pháp thêm hoang mang dao động,
chúng đã toan bỏ chạy nhưng triều đình lại chủ trương thương lượng với Pháp để kéo dài
thời gian. Sau khi vua Tự Đức qua đời, nhà Nguyễn gặp nhiều khó khăn vì thế mà Pháp
lợi dụng cơ hội đó tấn công nước ta, bước đầu quân Pháp thắng lợi nên triều đình ta đã
hoảng hớt và xin đình chiến. Cao ủy Pháp lên ngay Huế và đưa ra bản hiệp ước thảo sẵn
buộc triều đình chấp nhận và kí ngày 25/8/1883 Hiệp ước mang tên Hắcmăng cịn gọi là
Hiệp ước Quý Mùi. Tuy hiệp ước chỉ nói đến mức bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì

nhưng thực chất là địi quyền đới nội, đới ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và
do Pháp quyết định. Song triều đình nhà Nguyễn vẫn phải đồng ý với Pháp, bởi lẽ ta k
còn con đường nào khác buộc phải chấp nhận gây ra nhiều khó khăn, mất lịng tin của
nhân dân vào triều đình và Pháp ngày càng cường bạo bóc lột nhân dân, khiến nhân dân


ngày càng cực khổ. Như vậy chính sách ngoại giao của triều Nguyễn lúc đó đã làm hao
mòn sức dân, nội bộ dân tộc chia rẽ sâu sắc. Chính sách cấm đạo, tàn sát giáo dân và các
giáo sĩ càng tạo thêm cớ cho tư bản Pháp đánh chiếm nước ta. Những chính sách ngoại
giao dưới triều Nguyễn khơng đem lại kết quả gì cho đất nước ta, ngược lại khiến đời
sống nhân dân ta lại cơ cực hơn.
1.4.2 Hoạt động ngoại giao từ năm 1920 đến 1930
Trong những năm hoạt động ngoại giao từ năm 1920 - 1930 nước ta đã có những
hoạt động ngoại giao tiêu biểu sau:
Đầu tiên đó là ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh
họp Hội nghị ở Vécxây. Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp,
Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của
nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Bản Yêu sách này đã được Nguyễn Ái Q́c
tới lâu đài Vécxây gửi cho văn phịng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi đến các đoàn đại biểu
các nước Đồng minh dự hội nghị.
Với chính sách ngoại giao này đã tác động mạnh mẽ đến cả người Pháp và người
Việt Nam trong nước và nước ngoài. Người Pháp coi đây là quả bom làm chấn động dư
luận nước Pháp, còn người Việt Nam lại coi đó là tiếng sấm của mùa xuân. Tiếng sấm ấy
báo hiệu một điều rằng ở xứ Đơng Dương thuộc Pháp có một dân tộc Việt Nam bị áp bức
đang khát khao vùng lên giải phóng để giành độc lập cho mình. Đặc biệt, từ bản Yêu sách
này còn cho thấy một điều quan trọng và ý nghĩa hơn đó là một người Việt Nam với tên
gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề về mặt chính trị và ngoại giao của Việt
Nam ra q́c tế, địi cho Việt Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực ngay
giữa vịng vây của kẻ thù.
Thứ hai đó là bỏ phiếu tán thành và xin gia nhập Quốc tế thứ III vào năm 1920.

Đồng chí Nguyễn Ái Q́c là đại biểu duy nhất của Đảng bộ Đông Dương. Đại hội khai
mạc ngày 25/12/1920 lần đầu tiên có một người Việt Nam tham gia một đại hội đại biểu
của một chính đảng Pháp là một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động ngoại giao trên
trường q́c tế. Đồng chí Nguyễn Ái Q́c đứng lên với tư cách của một chiến sỹ yêu


nước trong hàng ngũ vô sản theo quan điểm của Quốc tế III. Lời phát biểu ngắn gọn,
nhưng đã lưu ý Đại hội quan tâm đến một vấn đề: “Chống chủ nghĩa tư bản Pháp áp
bức, bóc lột nhân dân Đơng Dương thuộc địa. Đồng chí kết hợp tố cáo tội ác của chủ
nghĩa tư bản trên đất Đông Dương với yêu cầu Đảng Xã hội phải hoạt động một cách
thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức và Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa
xã hội trong tất cả các thuộc địa đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa” [1,
tr103]. Là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đồng
thời cũng là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Như vậy với sự kiện ngoại giao quan trọng trên đãcó ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan
trọng trong quá trình đi tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đánh đấu một
mốc son lớn cho chặng đường lịch sử đã qua, mở ra một chân trời mới cho sự hoạt động
ngoại giao rộng lớn của nước ta. Sự kiện lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng
sản báo hiệu giai đoạn đen tối của dân tộc đang đến hồi kết, đã hé ra ánh bình minh của
tương lai dân tộc, hứa hẹn ngày vinh quang sẽ đến với dân tộc Việt Nam. Bước đầu
chứng minh cho các nước trên thế giới thấy được sự đúng đắn trong việc nhìn nhận hồn
cảnh của Nguyễn Ái Quốc và được các nước bạn tin tưởng và ủng hộ không xem thường
như ở giai đoạn trước.
Sự kiện thứ ba đó là vào năm 1921 đã thành lập tổ chức yêu nước như Hội Liên
hiệp thuộc địa. Hoạt động ngoại giao này được nhiều nước tham dự và tán thành với
những mục đích, phương châm của Hội. Hội đã ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) làm
cơ quan ngôn luận của Hội. Như thế, không chỉ trên phương diện lý luận ngoại giao mà
ngay trong hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người khởi
xướng và tiên phong trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Và cuối cùng đó là tham dự Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ V vào năm 1924 tại

Matxcơva từ ngày 17 - 6 đến ngày 8 - 7 - 1924. Người trình bày đầy đủ lập trường, quan
điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, đây là sách lược ngoại giao của
Nguyễn Ái Quốc về các vấn đề thuộc địa tồn tại trên thế giới, vai trò to lớn của giai cấp
vô sản và lợi dụng điều đó để kéo dài thời gian cũng như tìm hiểu về đường lới, phương
châm chiến lược đấu tranh của các nước để rút ra kinh nghiệm cho nước ta. Cũng như đã


vạch trần tội ác của thực dân Pháp trước các nước trên thế giới và tranh thủ điều đó để
nhận sự ủng hộ, đồng tình của các nước.
Như vậy, Nguyễn Ái Q́c đã có những hoạt động ngoại giao tích cực, nhằm mục
đích phục vụ trong việc xây dựng chính quyền, củng cố lực lượng cách mạng. Đồng thời
những hoạt động ngoại giao này mang động thái tích cực cho cách mạng Việt Nam ta
trong thời kì chớng Pháp.
1.4.3 Hoạt động ngoại giao từ 1930 đến năm 1939
Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929 -1933 và
tình trạng tiêu điều tiếp theo trong các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho
mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần
chúng dâng cao.
Trước tình hình đó, Đại hội VII của Q́c tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7 1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrớp. Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do
Lê Hồng Phong dẫn đầu. Trong thời gian này, các chính sách ngoại giao được đưa ra và
tranh thủ sự ủng hộ, thắng lợi của các nước để chống lại Pháp. Các Đảng cộng sản đã ra
sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít. Mặt trận nhân dân
Tây Ban Nha, Mặt trận thớng nhất chớng phát xít của nhân dân Trung Quốc lần lượt được
thành lập.
Đặc biệt, Mặt trận nhân dân Pháp chớng phátxít thành lập từ tháng 5 - 1935 do
Đảng Cộng sản Pháp làm nịng cớt, đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng
tuyển cử năm 1936, đưa đến sự ra đời một chính phủ tiến bộ, Chính phủ Mặt trận nhân
dân Pháp. Thắng lợi đó đã tạo ra khơng khí chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các
quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân các nước trong hệ thống thuộc địa
của đế quốc Pháp trong đó có Đông Dương.

Tiếp sau đó thì để cổ vũ tinh thần của nhân dân thì đã ra chiến lược ngoại giao
mềm dẻo. Mặt trận nhân dân phản đế do Đảng đề ra là cuộc liên hiệp các giai cấp trong
các dân tộc ở Đơng Dương đấu tranh địi quyền lợi hàng ngày, chớng lại chế độ thuộc địa
vô nhân đạo của thực dân Pháp, chuẩn bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc phát triển.


Cuối năm 1938, từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc tại đây yêu cầu Đảng
phải tổ chức một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, mặt trận ấy không phải chỉ có nhân
dân lao động tham gia mà cịn phải lơi ćn cả giai cấp tư sản dân tộc, không phải chỉ có
người Đông Dương mà cịn có cả những người Pháp tiến bộ ở Đơng Dương nữa và nhân
cơ hội đó Đảng phải đấu tranh không khoan nhượng chống tư tưởng bè phái, phải chú ý
tổ chức học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho Đảng viên.
Trong giai đoạn từ năm 1936 - 1939 với sách lược ngoại giao lúc thì mềm dẻo lúc
thì cứng rắn, đã khẳng định được vai trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương rất to lớn. Dựa
trên những hoạt động ngoại giao đó ta đã tranh thủ nhận được sự giúp đỡ trên các mặt
trận, sự ủng hộ của lực lượng dân chủ thế giới chống phát xít và nguy cơ chiến tranh.
Được các nước Liên Xô và Trung Quốc xem trọng đánh giá cao và nhiệt tình giúp đỡ.
1.4.4 Hoạt động ngoại giao từ 1939 đến năm 1945
Điểm nổi bật nhất trong ngoại giao của Đảng và Hồ Chí Minh giai đoạn này là chủ
động đặt quan hệ ngoại giao với Mỹ trong bối cảnh chúng ta chưa nhận được bất kỳ sự
trợ giúp nào trên thế giới. Trong bới cảnh đó, Hồ Chí Minh đã biến ý tưởng táo bạo thành
hành động cụ thể khi trực tiếp đưa viên Trung úy phi công Mỹ William Shaw sang Vân
Nam giao cho phe Đồng minh là Mỹ. Hồ Chí Minh ḿn khẳng định với Mỹ rằng trong
thời điểm đó trên đất nước Việt Nam chỉ có Mặt trận Việt Minh mới đủ năng lực phối
hợp với Mỹ để đánh đuổi phát xít Nhật.
Sự kiện này thể hiện phong thái ngoại giao rất chủ động, rất chi tiết và có tầm nhìn
xa của Hồ Chí Minh khi một vị lãnh tụ của một phong trào cách mạng đích thân dẫn một
viên phi cơng Mỹ đi bộ từ Việt Nam sang Trung Q́c để tỏ thiện chí sẵn sàng hợp tác
với Mỹ.
Với thiện chí này, Mỹ nhận thấy đây chính là cơ hội để tiếp tục sự hiện diện sâu

hơn của mình tại Đơng Dương, đặc biệt là sau khi Pháp đã bị Nhật lật đổ, Mỹ mất đi một
nguồn tin tình báo quan trọng về động thái của quân Nhật tại chiến trường này. Đây
chính là sự hợp tác đơi bên cùng có lợi vì thế, Mỹ đã đồng ý hỗ trợ Việt Minh về vũ khí,


kỹ thuật, điện đài và huấn luyện quân sự để đổi lại việc Mặt trận Việt Minh cung cấp các
thông tin về quân Nhật tại đây.
Trong thời gian hợp tác với Mỹ, Hồ Chí Minh đã đề nghị Mỹ cung cấp bản sao
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ để trên cơ sở đó viết nên bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi soạn thảo xong bản Tun ngơn, Hồ Chí Minh đã
đưa dự thảo này cho Thiếu tá Martin – thuộc Cơ quan Công tác Chiến thuật OSS của Mỹ
đọc và nhờ góp ý. Đây là biểu hiện tinh tế trong ngoại giao Hồ Chí Minh khi tham khảo ý
kiến của những người mà Người cho rằng khó có thể hợp tác lâu dài tại thời điểm đó khi
gián tiếp khẳng định với Mỹ rằng, Việt Nam mong muốn độc lập, tự do và sẵn sàng chiến
đấu vì độc lập tự do.
Bằng những hoạt động ngoại giao đã giúp nước ta nhận được nhiều sự giúp đỡ của
các nước trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ đó Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những chính sách đúng đắn và đưa ra những quyết định kịp thời đem đến sự thành công
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ngay sau đó đã khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng và là một sự kiện có nhiều ý nghĩa về
mặt đới ngoại.
Thứ nhất với thành công của Cách mạng tháng Tám Việt Nam đã trở thành một
tấm gương của một dân tộc biết đấu tranh và giành được độc lập cho mình, biết lượng sức
mình và biết dựa vào sức mạnh chủ quan của dân tộc, nhưng lại tận dụng được tối đa điều
kiện quốc tế thuận lợi.
Thứ hai Việt Nam đã biết tận dụng sự giúp đỡ của quốc tế trong tiến hành cuộc
cách mạng. Đó là việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh - đã đứng về phía quân Đồng minh để chớng phát xít Nhật. Cụ thể là Hồ Chủ
tịch đã chủ động liên hệ với lực lượng Đồng minh (đứng đầu là Mỹ) để yêu cầu trợ giúp
xây dựng đội quân vũ trang cho Việt Nam, với đầy đủ vũ khí, trang bị, chiến thuật nhằm

hỗ trợ cho lực lượng chính trị đấu tranh giành chính quyền.
Ý nghĩa thứ ba là chúng ta không chỉ nhanh chóng trong giành chính quyền mà
cịn vơ cùng khẩn trương tun bớ độc lập để đóng vai trò chủ nhân của một đất nước có
chính quyền, đứng ra đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân phát xít khi Thế chiến


II kết thúc. Điều này cho thấy sự nhạy bén của Đảng và Bác Hồ trong việc thể hiện mong
muốn Việt Nam có một vị thế bình đẳng với các nước trên thế giới, chỉ sau khi chúng ta
giành chính quyền vài ngày.
Tuy nhiên sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hịa ra đời nhưng không có một quốc gia nào trên thế giới cơng nhận. Khi đó, Hồ
Chí Minh vẫn tiếp tục đường hướng ngoại giao là kêu gọi nhân dân và chính phủ các
nước trên thế giới ủng hộ Việt Nam. Cụ thể, Người đã viết thư cho Tổng thống Mỹ Harry
S.Truman, rằng với tư cách là một cường quốc trên thế giới, Mỹ hãy ngăn chặn Pháp xâm
lược trở lại đối với Việt Nam để dân tộc Việt Nam có cơ hội hưởng tự do và hạnh phúc.
Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để nâng cao vị thế cho đất nước
và tranh thủ mọi lực lượng bên ngoài để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh đối với Việt
Nam.
Như vậy đường lối ngoại giao của Đảng ta trong thời kỳ 1939 - 1945 là luôn đứng
về phía lực lượng đồng minh chớng phát xít tranh thủ sự giúp đỡ của đồng minh mà chủ
yếu ở đây là lực lượng Mĩ ở Trung Quốc để xây dựng lực lượng chuẩn bị lực lượng trong
nước, tranh thủ dư luận quốc tế để nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ
đến.


Chương 2
HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1. Những thuận lợi và khó khăn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm đầu
tiên sau Cách mạng tháng Tám

2.1.1. Thuận lợi
Sau Cách mạng tháng Tám thành cơng tình hình thế giới có nhiều biến động có lợi
cho ta. Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc với phần thắng thuộc về Liên Xô các lực lượng
đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hàng loạt các nước Dân chủ Nhân dân và xã hội chủ
nghĩa ở châu Á và châu Âu cùng với Liên Xô trở thành hệ thống trên thế giới. Bên cạnh
đó phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển, cuộc đấu tranh địi quyền sớng
và quyền tự do, dân chủ của nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra mạnh mẽ. Tất cả
những điều đó tạo thành ba mũi nhọn tấn công vào hệ thống tư bản chủ nghĩa, tạo điều
kiện cho cách mạng Việt Nam phát triển.
Đới với tình hình trong nước thì lúc này nước ta đã giành được chính quyền, lần
đầu tiên dân tộc ta được hít thở bầu khơng khí tự do, độc lập sau hơn 80 năm cai trị của
Pháp, 5 năm của Nhật và hàng ngàn năm của chế độ phong kiến. Ta có Đảng Cộng sản
lãnh đạo một Đảng dày dặn kinh nghiệm sau 15 năm lãnh đạo nhân dân làm nên Cách
mạng tháng Tám thành công vang dội.
Đặc biệt, ta có chủ tịch Hồ Chí Minh tài giỏi, u nước thương dân, Người đã đưa
ra những quyết định đúng đắn vào thời điểm khó khăn cho cách mạng Việt Nam, đem lại
những thắng lợi vang dội khắp nơi là một vị lãnh tụ vững vàng chèo lái con thuyền cách
mạng vượt qua sóng gió thác ghềnh.
Và một yếu tớ khơng thể thiếu đó là nhân dân ta vớn có truyền thống yêu nước bất
khuất trong chống giặc ngoại xâm và cần cù sáng tạo trong lao động. Đó bước chuyển để
giúp ta có cơ sở xây dựng và củng cớ chính quyền vững mạnh là động lực cho Đảng và
nhân dân quyết tâm hơn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


2.1.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đó, chính quyền non trẻ đứng trước vơ vàn những khó
khăn và thử thách cần phải vượt qua.
- Đầu tiên đó là sự đe dọa của giặc ngoại xâm và nội phản:
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc, phản
động quốc tế và trong nước đã cấu kết, bao vây, chớng phá hịng thủ tiêu mọi thành quả

cách mạng của nhân dân ta đặt lại ách thớng trị của chúng và xố bỏ nền độc lập mà dân
tộc ta vừa giành được.
Thứ nhất: Quân Trung Hoa Dân q́c gần 20 vạn qn của chính quyền Tưởng
Giới Thạch (Trung Quốc) - đồng minh của đế quốc Mỹ - kéo vào miền Bắc dưới danh
nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân
đảng Trung Hoa là: “Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam
đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng”
[24, tr141].
Thứ hai: Quân Anh và Pháp Ở phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào, cũng với danh
nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật. Nhưng trên thực
tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương.
Ngày 23/9/1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm
Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị
ở Việt Nam và Đông Dương.
Thứ ba: Các thế lực phản động ở trong nước quân Tưởng kéo theo lực lượng phản
động người Việt lưu vong ở Trung Quốc tập hợp trong tổ chức Việt Nam quốc dân đảng
(Việt Quốc) của Vũ Hồng Khanh và Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) của
Nguyễn Hải Thần. Được quân Tưởng khuyến khích, hỗ trợ, các lực lượng phản động này
củng cố chỗ đứng và ngày càng tǎng cường chớng phá chính quyền cách mạng và chiếm
giữ một sớ địa phương. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung
bạo và xảo quyệt như vậy.


- Về kinh tế: Do hậu quả của sự vơ vét, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp từ cuộc
khai thác thuộc địa để khôi phục lại nước Pháp sau chiến tranh, người dân Việt Nam đã
phải chịu một đời sống vô cùng khổ cực, xã hội bị phân hóa sâu sắc. Hơn thế việc phát xít
Nhật tiến vào Đơng Dương năm 1940 khi Pháp vẫn cịn ở đó đã đặt nhân dân ta vào cảnh
“một cổ hai tròng”. Sự áp bức bóc lột đới với nhân dân ta tăng lên gấp bội. Hậu quả là
nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản đã gây ra làm chết 2 triệu người và
hàng triệu người bị nạn đói đe dọa. Nạn đói đã làm cho sự yếu kém của nền kinh tế trở

nên trầm trọng.
- Về tài chính: Vào thời điểm này q́c khớ đã gần như trớng rỗng. Thêm vào đó
chính sách vơ vét của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã làm cho lạm phát ngày càng tăng
do tiền cung cấp cho Nhật tăng lên. Trong khi đồng bạc Đông Dương mất giá như vậy thì
quân Tưởng tung“quan kim” và “quốc tệ” làm lũng đoạn thì trường miền Bắc.
- Về xã hội: Nạn mù chữ là hậu quả “Chính sách ngu dân” của Pháp với mục đích
dễ dàng áp bức cai trị. Tính đến năm 1945 có tới 95% người dân Việt Nam không biết
chữ bên cạnh đó các tệ nạn mê tín dị đoan rất nhiều phổ biến ở nông thôn. Một mặt, nạn
dốt kết hợp với bối cảnh ở Việt Nam lúc đó đang thực thi chế độ đa nguyên đa đảng với ít
nhất ba đảng phái tham gia chính quyền đó là Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Quốc,
Việt Cách sẽ làm người dân khơng có đủ trình độ để nhận thức rõ những luận điệu mị
dân, phản động của các lực lượng chống phá cách mạng, gây ra sự chia rẽ dân tộc sâu sắc
Điều này gây khó khăn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trong việc tập
hợp mọi tầng lớp nhân dân đi theo con đường cách mạng để tiến hành cuộc đấu tranh
chống thù trong giặc ngồi. Mặt khác, khi người dân khơng biết chữ, họ khó có thể thực
hiện được quyền cơng dân của mình như tham gia tổng tuyển cử bầu ra Q́c hội, thành
lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và xây dựng hiến pháp sẽ gặp nhiều trở ngại.
Như vậy rõ ràng ta thấy một điều chính quyền cách mạng nước ta cịn rất non trẻ,
chưa được củng cớ, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo việc củng cớ chính quyền mặt khác lực
lượng vũ trang còn non trẻ và trang bị thô sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Trước những
khó khăn, thử thách đó địi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối chiến lược


×