Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Cau chuyen ve IQTuan Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.57 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Người Việt thông minh đến đâu? </b>


Thật khó phán xét trí thơng minh của một người, chưa muốn suy rộng ra sự
thông minh của cả một cộng đồng, một chủng tộc, một dân tộc. Bởi thơng


minh có thể có rất nhiều loại.


<b>Thơng minh và những khái niệm khác biệt</b>
Xưa kia, trong những câu chuyện kể, các thần đồng ở nước ta được coi là
thông minh xuất chúng qua những câu ứng đối, "xuất khẩu thành thi" và
nhất là đối ngay được một vế đối đặt ra ("xuất đối dị, đối đối nam" mà!), kể
cả những câu đối bằng chữ Hán phức tạp bao gồm cả chiết tự, điển tích...
Cách kiểm tra ấy tuy khơng tính thành điểm cụ thể nhưng có thể coi là kiểu
xác định IQ của ta. Nhiều sự nghiệp của một danh nhân chúng ta chẳng biết
được gì hơn, ngồi khoảng một chục đôi câu đối "để đời". Điều này cũng
tương tự với việc đo chỉ số IQ ở chỗ là so sánh sự phát triển trí tuệ vượt trội
của những người cùng lứa tuổi (IQ vốn là thương số thông minh, xác định tỷ
số giữa tuổi trí tuệ và tuổi sinh học).
Cũng theo truyền thuyết này, nhiều "thần đồng" giỏi ứng đối ấy thường là
những vị đỗ đầu (tức Trạng nguyên) trong cuộc thi tuyển của Triều đình,
thậm chí ngay khi cịn ở lứa tuổi thiếu niên, mới 13, 14 tuổi đã "cưỡi cổ"
thiên hạ.


Thơng minh đơi khi có thể đánh giá qua
sự nhanh trí giải quyết một vần đề cụ
thể. Có thể lấy Trạng Lường Lương Thế
Vinh (1441-1495) làm ví dụ. Từ hồi nhỏ,
ơng đã tìm được cách đổ nước để lấy quả
bưởi trong hố lên, sau này khi đã là
Trạng, nổi tiếng cả ở Trung Quốc, đã
giải những bài toán kiểu "cân voi", "xác


định chiều dày một tờ giấy" theo thách
đố của sứ Tàu (mà những bài toán kiểu
này chắc các em lớp 3, lớp 4 ngày nay


cũng nghĩ ra ngay)...


Theo sử liệu, ông là tác giả của tác phẩm
là "Đại thành tốn pháp", được nói đến
như sách giáo khoa cho các sĩ tử suốt
mấy trăm năm (?). Nhưng bản thảo đã thất truyền khiến ta khơng thể bíết đó
có phải những phát minh về Toán học (hoặc chỉ là những tổng kết) và ở mức
độ nào trong lịch sử Toán học thế giới.
Cùng năm sinh với Lương Thế Vinh, cịn có Vũ Hữu, được vua Lê Thánh
Tơng khen là "Thần tốn", viết cuốn "Lập thành tốn pháp" cũng thất truyền,


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nói về cách đo tính ruộng đất rất phổ biến trong tồn quốc.
Hiểu "thế nào là thơng minh" khác nhau khá nhiều từ Đông sang Tây. Khoa
học hiện đại dù bộ môn Thần kinh học rất phát triển: Đo điện não đồ, quét
não, chụp não, xác định tốc độ truyền dẫn thần kinh, rồi khám phá bản đồ
gen để biết tập hợp những nhóm ADN nào liên quan đến khả năng gì... vẫn
chẳng thể cho ta một câu trả lời rõ ràng, thuyết phục.
Những tranh luận xung quanh trí thơng minh đã, đang và sẽ tốn không biết
bao nhiêu thời gian và giấy mực nữa, song dù chưa có những nhất trí, người
ta vẫn tuyển chọn, bồi dưỡng và thu hút được nhân tài với những thành công
đáng kể và thu được những hiệu quả xã hội lớn.
<b>9 kiểu thông minh và "những nhà bác học ngốc nghếch"</b>
Theo phân loại của Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner (Hoa Kỳ) được
nhiều người thừa nhận (và thường gọi là thuyết đa thông minh - theory of
multiple intelligences), có ít nhất 7 kiểu thơng minh (thơng minh về lời nói,
ngơn ngữ; thơng minh về logic, tốn học; thơng minh về thị giác, không


gian; thông minh về âm nhạc; thông
minh về cơ thể, cử chỉ; thông minh về
xã hội, giao tiếp; thông minh về nội
tâm). Sau này, người ta còn bổ sung
thêm hai kiểu thông minh nữa là trí
thơng minh thiên nhiên và trí thông


minh sinh tồn.


Cách phân chia như vậy dường như
khơng có sự phân biệt giữa 2 khái niệm
"thơng minh" và "năng khiếu". Mà theo
cách hiểu thông thường một số dạng
thơng minh mà Gardner nói đến chỉ là


năng khiếu mà thôi.


Vả chăng, trong ngôn ngữ học, đôi khi
khơng có những từ ngữ đối chiếu hồn
tồn tương đương nên nếu đi sâu hơn
nữa sẽ không tránh khỏi những tranh
luận kéo dài.


Lại còn những trường hợp những người
bị tự kỷ (autisme) khó mà đánh giá là
người thơng minh mà ngược lại (theo
cách nghĩ thông thường) nhưng lại trở
thành những danh họa, những nhạc
công tuyệt với, chỉ nghe một bản giao

<i><b>Tài liệu tích lũy</b></i>




<i>Việt Nam sử lược của học giả Trần</i>
<i>Trọng Kim (viết năm 1919, cách</i>
<i>đây gần một thế kỷ) đã nhận xét: "Về</i>
<i>đàng trí tuệ và tính tình, thì người</i>
<i>Việt Nam có cả tính xấu lẫn tính</i>
<i>tốt. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn,</i>
<i>học chóng hiểu, khéo chân tay,</i>
<i>nhiều người sáng dạ nhớ lâu, lại có</i>
<i>tính hiếu học, trọng sự học thức,</i>
<i>quí sự lễ phép, mến điều đạo đức,</i>
<i>lấy sự nhân, lễ, nghĩa, trí tín làm 5</i>
<i>đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy</i>
<i>vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có</i>
<i>khi quỷ quyệt và hay bài bác, nhạo</i>
<i>chế".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hưởng một lần là nhớ hoặc từ trên máy bay, bay ngang qua một thành phố
lớn, trở về có thể vẽ lại từng vị trí, hình dáng các cơng trình kiến trúc hồn
tồn chính xác. Hiện tượng đó, các nhà tâm lý gọi là "hội chứng các nhà bác
học ngốc nghếch". Nhà phát minh thiên tài của nhân loại (tất nhiên, một đầu
óc sáng tạo khủng khiếp) là Edison thuở nhỏ chẳng bị đuổi học vì "khơng có
khả năng học tập" đó sao? Rồi Einstein thuở nhỏ nghe nói cũng bị tự kỷ.
Mỗi kiểu thơng minh theo phân loại trên có những phẩm chất và khả năng
cơ bản, có thể có hoặc khơng liên hệ với nhau. Mỗi kiểu có một vùng khác
nhau trên não bộ phụ trách (?) và đều có thể cải tạo, phát huy.
Cách phân loại ấy có thể giải thích thoả đáng vì sao một người học hành rất
dở nhưng lại thành cơng trong kinh doanh hoặc trên chính trường. Vì sao
một thiên tài toán học đầy đủ các bằng cấp, danh hiệu, giải thưởng, song khi
đặt vào vị trí lãnh đạo một viện Tốn lại để cho cơ quan bí bét, rối beng.


Người ta đã từng vận dụng cách phân loại này để hướng nghiệp cho học
sinh, nhằm sắp xếp "người nào việc ấy", "dụng nhân như dụng mộc", "hạn
chế sở đoản, phát huy sở trường" làm lợi cho bản thân người lao động, tăng


hiệu quả phục vụ xã hội.


Cũng như vậy, để tuyển những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ như
hoạt động khoa học chẳng hạn, cần lựa chọn những người nổi trội về trí
thơng minh logic, sáng tạo... Đó là những người có khả năng tiếp thu những
kiến thức mới nhanh, nhạy cảm, chính xác và có khả năng tự tìm ra những
kiến thức mới (khả năng khai phá) trong từng vấn đề cụ thể, và trí thơng
minh theo cách hiểu thơng thường thuộc loại này.


Albert Einstein


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nếu trí thơng minh có tính cá nhân, thì chủng tộc, cộng đồng và cả một dân
tộc có vai trị gì khơng? Nói cách khác, có chủng tộc nào có trí thơng minh
vượt trội khơng? Khẳng định điều này rất dễ rơi vào "thuyết ưu sinh" của


chủ nghĩa quốc xã Đức.


Năm 1994, tác phẩm "Đường cong hình quả chng" của hai tác giả
Herrstein và Muray, trên cơ sở phân tích chỉ số IQ đã rút ra một loạt kết luận
khi áp dụng vào xã hội, không những chỉ gây tiếng vang rộng rãi trong giới
khoa học mà còn bị phản ứng gay gắt của quần chúng đối với nó. Thậm chí
các tác giả còn bị lên án là "phân biệt chủng tộc" khi đề cập đến trí thơng
minh của các cộng đồng trong một xã hội.
Nếu quả thật trí thơng minh bị tách rời khỏi chủng tộc, tại sao khi GS Ngơ
Bảo Châu được giải Tốn học Fields tầm cỡ lớn của quốc tế, từ các lãnh đạo
cao cấp đến báo chí đều nói "điều đó chứng tỏ "trí tuệ của dân tộc Việt



Nam" khơng hề thua kém"?


Lại nữa, trong cuộc tranh luận của Quốc hội, liệu có nên đường sắt cao tốc
khơng, một vị đại biểu nói "những nước có chỉ số IQ cao đều làm đường sắt
cao tốc". Nói như vậy có hàm ý trí thơng minh có gắn với dân tộc hay


khơng? Chắc chắn là có hàm ý ấy.


Những thống kê về tỷ lệ các giải thưởng quốc tế như giải Nobel, giải
Fields... mà người "gốc Do Thái" sở hữu, những nhân vật gốc Do Thái đứng
đầu các ngành văn học, nghệ thuật và cả chính trường nữa buộc ta phải suy
nghĩ đến sự liên quan giữa trí thơng minh và chủng tộc.
Song từ thơng minh đi đến thành cơng thì cịn phải địi hỏi nhiều điều kiện
nữa, bao gồm cái tạm gọi là "nội lực" (phẩm chất cá nhân) và "ngoại lực"


(môi trường và diều kiện làm việc).


Tuy nhiên, khơng thể nói dân tộc nào thơng minh hơn dân tộc nào vì thế giới
phát triển khơng đồng đều vì khoảng cách giữa các nước quá chênh lệch và
ngày càng chênh lệch, khiến chẳng bao giờ mọi người được bình đẳng về
điều kiện sống và làm việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Từ thông minh đi đến thành cơng thì cịn phải địi hỏi nhiều điều kiện
<b>Người Việt Nam có thông minh không ? </b>
"Người Việt Nam rất thông minh, cần cù lao động", "đất nước ta rừng vàng
biển bạc, ruộng đất phì nhiêu, tài nguyên đa dạng và phong phú"... Đó là
những điều chúng ta được dạy dỗ từ khi bắt đầu cắp sách đến trường, được
nói đến trong những cuốn sách giáo khoa dùng cho học sinh và tự giới thiệu



ra nước ngồi.


Tuy vậy cũng có những quyển sách viết dè dặt hơn. Chẳng hạn Việt Nam sử
lược của học giả Trần Trọng Kim (viết năm 1919, cách đây gần một thế kỷ)
đã nhận xét: "Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính xấu
<i>lẫn tính tốt. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay,</i>
<i>nhiều người sáng dạ nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức,</i> q sự
<i>lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, lễ, nghĩa, trí tín làm 5 đạo thường</i>
<i>cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt và hay</i>


<i>bài</i> <i>bác,</i> <i>nhạo</i> <i>chế".</i>


Nếu quả thực về đàng trí tuệ, nếu "trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, ..., sáng
dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức", thì đó mới chỉ là những
lợi điểm có thế phát huy ở giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Học hành để tích
luỹ kiến thức, dùng cho giai đoạn chủ yếu của cuộc đời là làm việc, gây
dựng sự nghiệp, ni sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Chính tại giai
đoạn chủ yếu này, trí thông minh thể hiện rõ nét và phát huy.
Bằng sự trải nghiệm của một người đã làm công tác nghiên cứu khoa học ở
tuổi ngồi 70 và cố gắng khách quan, khơng e ngại ý kiến của mình có thể
đụng chạm, tơi xin đưa ra một nhận định cá nhân. Đó là: Người Việt chỉ
thông minh vừa phải mà không thuộc loại thật xuất sắc.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×