Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

NHAC SI LUU HUU PHUOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.61 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>C</b>

ó lẽ khơng phải ai cũng được biết nhạc sĩ Lưu Hữu Phước xưa kia lại là
sinh viên Trường Y - Dược, một thành viên của Đại học Đông Dương vào
những năm 1940 - 1944 và cũng chính tại nơi đây ơng bắt đầu tham gia cách
mạng trong phong trào thanh niên - sinh viên yêu nước để rồi trở thành một
trong những cây đại thụ của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Ông đã cống
hiến cả cuộc đời, tài năng cho đất nước và đã để lại cho chúng ta một sự
nghiệp âm nhạc lớn lao, đa dạng, bao gồm nhiều thể loại từ những bài hát
lịch sử hào hùng, những hành khúc hoành tráng, những ca cảnh, những bản
nhạc múa cho đến những vở nhạc kịch cuối đời...


Sinh ngày 12.9.1921, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước lớn lên tại q nhà - huyện Ơ
Mơn, tỉnh Cần Thơ. Thuở nhỏ được cha cho học đàn kìm, về sau có chơi cả
mandoline, guitare và tự học lý thuyết âm nhạc. Vào năm 1940 khi còn là
học sinh Trường Trung học Pétrus Ký (nay là Trường Lê Hồng Phong, thành
phố Hồ Chí Minh), Lưu Hữu Phước đã sáng tác "Hành khúc của thanh niên
Nam Kỳ" với mục đích cổ vũ tinh thần đoàn kết yêu nước nhân phong trào
học sinh đang được phát động.


Bước ngoặt của cuộc đời ông bắt đầu từ sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước
cùng với người bạn nổi tiếng Mai Văn Bộ lên tàu hoả ra Hà Nội để học tiếp
bậc đại học. Dọc đường, ơng có dịp được ngắm nhìn nhiều phong cảnh của
đất nước và thực sự chưa bao giờ ông cảm nhận được tâm hồn và cái đẹp
của quê hương một cách sâu sắc đến như vậy. Tinh thần yêu nước, yêu đồng
bào lại càng được khơi dậy trong tâm trí của người thanh niên miền Nam
mới ra Bắc lần đầu tiên đã cảm thấy như mình được trở về với quê nhà. Bắt
đầu ý thức hướng về cội nguồn được nhen nhóm trong trái tim của ơng qua
ký ức ôn lại những chiến công oanh liệt của tổ tiên ta trong những cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, những địa danh linh thiêng: Thăng Long, Đông Đô,
Bạch Đằng, Chi Lăng..., những di tích lịch sử vẻ vang rải khắp miền Bắc, tất
cả đã đem lại cho ông những cảm xúc mãnh liệt để từ đó sáng tạo nên những
tác phẩm âm nhạc có sức lơi cuốn mạnh mẽ, thúc giục và động viên tinh


thần yêu nước của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, tiến lên theo
con đường cách mạng giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất đất
nước...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khơng khí sơi sục của cuộc đấu tranh chính trị giữa phong trào yêu nước của
nhân dân ta với thực dân Pháp đang diễn ra, được chứng kiến những sự kiện
trọng đại có liên quan đến vận mệnh dân tộc, từ việc Pháp đầu hàng phát xít
Đức, thực dân Pháp ở Đơng Dương đầu hàng phát xít Nhật đến hai cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ bị đàn áp khốc liệt. Trong phong trào hưởng
ứng chủ trương hướng về nguồn, sinh viên đã tổ chức nhiều đoàn xe đạp đi
thăm viếng những di tích lịch sử nhằm bồi dưỡng nâng cao tinh thần dân tộc,
đấu tranh chống ngoại xâm. Từ những chuyến đi thâm nhập thực tế độc đáo
và đầy ý nghĩa ấy, Lưu Hữu Phước đã sáng tác được nhiều ca khúc nổi tiếng
như "Bạch Đằng Giang", "Ải Chi Lăng", "Hát giang trường hận" (sau đổi
tên là "Hồn tử sĩ"), "Hờn sông Gianh", "Người xưa đâu tá" và "Hội nghị
Diên Hồng" là đỉnh cao của thể loại bài hát về đề tài lịch sử.


Một sự kiện quan trọng nữa là cuộc hành hương về Đền Hùng nhân ngày
Giỗ tổ Hùng Vương (năm 1942), dấy lên phong trào sinh viên từ bỏ mộng
học giỏi đỗ cao để làm quan cho thực dân Pháp, đồng lòng quyết tâm trau
dồi ý thức cứu dân, cứu nước, sẵn sàng tiến lên "đáp lời sông núi" khi Tổ
quốc cần. Lần đầu tiên bài hát "Tiếng gọi sinh viên" tựa như một lời hiệu
triệu đanh thép, hào hùng do một dàn hợp xướng mấy chục người trình diễn
được vang lên ở chân núi Nghĩa Lĩnh trong một đêm lửa trại lịch sử (Bài hát
này chính gốc là "Bài hát kêu gọi khởi nghĩa" được sáng tác năm 1940 sau
cuộc khởi nghĩa Nam Bộ bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu, về sau được đặt
lời mới dành cho phong trào sinh viên để dễ được phổ biến).


"Tiếng gọi sinh viên" sau đổi tên thành "Tiếng gọi thanh niên" là một chính
ca bất hủ nhanh chóng lan rộng từ Bắc chí Nam, theo sự lớn mạnh của


phong trào sinh viên yêu nước, góp phần mạnh mẽ đánh bại mưu đồ của
thực dân Pháp hịng làm lung lạc ý chí cách mạng của thanh niên ta thời bấy
giờ bằng bài hát có tên gọi "Maréchal, nous voilà!" (Thưa thống chế, có
chúng tôi sẵn sàng)...


Một sự kiện gây ấn tượng mạnh đối với mọi người là trong khi các bản nhạc
hùng tráng của Lưu Hữu Phước đang lần lượt vang lên trong khí thế cách
mạng tràn ngập trên cả nước thì vở ca kịch "Tục lụy" của ơng được trình
diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 21.3.1943, minh chứng thêm tài năng của
ông trong lĩnh vực âm nhạc trữ tình, lãng mạn, giàu bản sắc dân tộc, với bút
pháp bay bổng độc đáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đảo sinh viên ba miền Nam - Trung - Bắc rủ nhau bỏ học để trực tiếp tham
gia hoạt động cách mạng. Nhóm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai
Văn Bộ và Đặng Ngọc Tốt trong một đêm đã tập trung soạn ba bài hát: "Xếp
bút nghiên", "Mau về Nam" và "Gieo ánh sáng" để kịp thời cổ vũ cho phong
trào này, còn được gọi là phong trào Xếp bút nghiên, rầm rộ kéo dài đến mãi
tận ngày khởi nghĩa tháng 8.1945 cùng với sự ra đời của bài ca "Khúc khải
hồn" của ơng mang đậm phong cách ngợi ca, hoành tráng...


Tháng 5.1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra Hà Nội, đầu tiên lãnh
trách nhiệm thành lập Trung ương Nhạc viện (9.1946), sau đó ơng cùng tập
thể Hội Văn hoá Cứu quốc tản cư đi kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc.
Ông được giao nhiệm vụ thành lập đội Thiếu nhi tuyên truyền xung phong,
sau được đổi tên là Đoàn nhạc kịch Thiếu nhi kháng chiến thuộc Trung ương
Nhạc viện. Đoàn đã lần lượt trình diễn một số vở ca kịch do ơng sáng tác
như "Con thỏ ngọc", "Diệt sói lang", "Phá mưu bù nhìn", "Hai chàng lưng
gù" và "Hái hoa dâng Bác" nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Sau đó Bác Hồ cho thành lập Trường Thiếu nhi Nghệ thuật và nhạc sĩ
Lưu Hữu Phước được cử làm Giám đốc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cương vị lãnh đạo nào, ông vẫn không quên sự nghiệp âm nhạc thiêng liêng
của mình. Lưu Hữu Phước đã sáng tác cho miền Nam một loạt các bài hát
nổi tiếng như "Bài hát Giải phóng quân", "Giờ hành động", "Hành khúc giải
phóng", "Xuống đường", "Tiến về Sài Gịn", đặc biệt là "Giải phóng miền
Nam" là một đỉnh cao của thể loại hành khúc của âm nhạc cách mạng Việt
Nam.


Sau ngày giải phóng miền Nam, ơng trở về làm Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Âm nhạc (1978 - 1989), được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông
tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức, được bầu làm Chủ tịch Hội
đồng Âm nhạc Quốc gia, Thành viên Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, ngoài ra
cịn là Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hố và Giáo dục của Quốc hội, Uỷ viên Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Phó chủ tịch Đồn Chủ tịch Uỷ ban
Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.


GS. Lưu Hữu Phước là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, một trí thức lớn
đã có nhiều cơng lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam, đặc biệt đã để lại cho đất nước một di sản văn hố âm nhạc vơ
cùng q giá, xứng đáng là một trong những con chim đầu đàn của nền âm
nhạc mới Việt Nam. Những tác phẩm của ông, đặc biệt là những bài hát lịch
sử, những ca khúc cách mạng kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có tác
dụng to lớn trong việc giáo dục truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh
bảo vệ đất nước của dân tộc ta từ ngàn xưa đến nay, làm cho chúng ta hiểu
một cách sâu sắc những giai đoạn quan trọng của cách mạng Việt Nam ở
thời đại Hồ Chí Minh vĩ đại từ thời kỳ tiền khởi nghĩa đến ngày giải phóng
hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×