Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghệ thuật dựng chân dung nhà văn của vũ bằng trong bốn mươi năm nói láo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.96 KB, 67 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

NGUYỄN THỊ HUỆ

Nghệ thuật dựng chân dung nhà văn
của Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói
láo

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mang án oan bao nhiêu năm trời, danh phận không được công
nhận, Vũ Bằng ra đi trong nỗi cô đơn, túng thiếu và tủi hận. Những tác
phẩm của ông viết ra, người ta không màng đến thậm chí là cấm xuất bản.
Trải qua bao nhiêu năm cho đến hơm nay khi nhìn lại những đóng góp
của ơng trên văn học, báo chí chúng ta mới thực sự biết được rằng đó là
một Vũ Bằng thật đáng quý, một Vũ Bằng lao động không biết mệt mỏi,
không bao giờ ngơi nghỉ trong chặng đường cầm bút của mình. Suốt bảy
mươi năm trên dịng sơng cuộc đời, ơng đã gửi trọn thân mình cho nghề
văn, nghề báo, viết nên những trang văn giá trị, thấm đẫm tình đời, tình
người, viết nên những trang báo nóng hổi, mang tính thời sự cao. Phải nói
rằng Vũ Bằng đến với bạn đọc khơng chỉ cả văn mà cịn cả báo. Ví như


trong tùy bút Miếng ngon Hà Nội là sự day dứt hồi niệm xót xa của tác
giả khi nhớ về quê hương, về cội nguồn, về phương trời cách trở. Hay
trong Thương nhớ mười hai, người đọc thấm thía hơn những nỗi niềm
hồi vọng, những hình ảnh của dĩ vãng cứ hiện về, se thắt, đứt ruột, nhớ
vẩn vơ, buồn nhè nhẹ.
Đọc những trang đời ấy của Vũ Bằng ta như bâng khuâng, bảng
lảng, xao xuyến lạ kỳ. Thế nhưng đó khơng phải là tất cả bởi Vũ Bằng
còn đưa đến cho chúng ta sự cảm phục đến khó tin. Trong cuốn hồi ký
Bốn mươi năm nói láo của ông, bằng sự quan sát tinh tế, sự thông hiểu
đặc biệt, Vũ Bằng đã ghi lại rất thành công một thời kỳ lịch sử đáng nhớ
của văn học và báo chí Việt Nam qua việc dựng lên rất nhiều chân dung
văn nghệ sĩ mà bây giờ đã trở thành người muôn năm cũ.


3

Cuốn hồi ký có sức hấp dẫn, lơi cuốn khơng ngờ bởi nó khơng chỉ
là cuốn tự truyện độc đáo của người thư ký trung thành Vũ Bằng mà đó
cịn là nét đặc sắc, tỉ mỉ trong nghệ thuật xây dựng chân dung các nhà
văn. Và bởi tất cả những điều trên, chúng tơi đã mạnh dạn tìm hiểu đề tài
Nghệ thuật dựng chân dung nhà văn của Vũ Bằng trong Bốn mươi năm
nói láo để có cái nhìn mới mẻ và toàn diện hơn về cuộc đời, tài năng, tư
tưởng cũng như những đóng góp trên văn đàn của nhà văn trong những
tháng năm ông cầm bút.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đề tài này là những nét đặc sắc trong nghệ
thuật dựng chân dung nhà văn của Vũ Bằng qua hồi ký Bốn mươi năm
nói láo.
Trong khn khổ của đề tài, văn bản mà chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu là tác phẩm Bốn mươi năm nói láo của nhà văn Vũ Bằng do

nhà xuất bản Văn hóa thơng tin tái bản năm 2001.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và khai thác đề tài này, chúng tôi đã sử
dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả – tác phẩm
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
4. Lịch sử vấn đề
Văn chương cũng như con người Vũ Bằng là một sự rất đặc biệt.
Vì thế cho nên việc nghiên cứu và khám phá về ông không phải là việc dễ
dàng. Gần đây có khá nhiều cơng trình nghiên cứu tìm tịi ở các góc độ về
cuộc đời cũng như sự nghiệp văn chương Vũ Bằng. Sự nghiệp sáng tác
của ông trải rộng, mang những giá trị quan trọng trong nền báo chí lẫn
văn học nghệ thuật nước nhà. Khơng một ai dám phủ nhận cơng lao đó
thế nhưng bởi do những phức tạp khách quan trong thời chiến, mang nỗi


4

oan trong cuộc đời mình mà các tác phẩm của Vũ Bằng bị cấm một thời
gian dài. Từ đó việc nghiên cứu về ông chưa được đề cập một cách đúng
mực, đúng vai trò. Chỉ khi sau này, khi Vũ Bằng được công nhân danh
phận, được gột bỏ mối oan “theo giặc” thì độc giả cũng như giới nghiên
cứu mới chú ý đến ơng nhiều hơn trước đó.
Nhà văn Triệu Xuân là một trong những người say mê tài năng văn
chương Vũ Bằng. Năm 1992, khi mà danh phận Vũ Bằng còn trong u tối,
Triệu Xuân đã hợp tác với Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin xuất bản tác
phẩm Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng. Sách phát hành được vài
ngày, đang bán chạy như tơm tươi thì có lệnh cấm và từ đó bị giam trong
kho vài năm rồi tiêu hủy.

Quý I năm 2006, Nhà xuất bản Văn học cho ra mắt bộ sách Vũ
Bằng Toàn tập gồm 4 tập. Đây là cơng trình tiếp theo của bộ Tuyển tập
Vũ Bằng đã được Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2000, do nhà văn
Triệu Xuân sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn và giới thiệu. Việc xuất bản
Tuyển tập Vũ Bằng những năm trước đã góp phần giúp các cơ quan chức
năng của Nhà nước nhanh chóng làm sáng rõ việc nhà văn Vũ Bằng đi
Nam năm 1954 không phải là “di cư theo giặc”, mà ông là một mắt xích
trong mạng lưới tình báo của cách mạng, từ đó cơng nhận danh phận Vũ
Bằng, truy tặng Huân chương kháng chiến cho cố nhà văn Vũ Bằng.
Trong bài giới thiệu của Triệu Xuân cho Vũ Bằng Toàn tập ông viết: “Là
một nhà văn lớn, cũng như nhiều nhà văn lớn của Việt Nam, Vũ Bằng rất
xứng đáng để được xuất bản Tồn tập. Cịn rất nhiều sáng tác của Vũ
Bằng thuộc nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện vừa, ký sự, phóng sự,
tiểu luận, phê bình văn học, sân khấu, điện ảnh, nhiều tác phẩm nổi tiếng
thế giới do Vũ Bằng dịch… in rải rác trên các báo từ những năm Ba mươi
cho đến cuối những năm Bảy mươi thế kỷ XX” [26, tr.20].
Vì những điều trên khiến chúng ta thiết nghĩ việc xuất bản Vũ Bằng
Toàn tập cho thấy: Những gì là thực sự tài năng, tâm huyết cho dân cho


5

nước, cho nền văn hóa dân tộc ln ln được trân trọng, dù có bị dập vùi
cũng khơng bao giờ bị quên lãng, bị phai mờ trong lòng bạn đọc! Đọc Vũ
Bằng, bị cuốn hút bởi văn chương của ông đã đành, người đọc càng say
mê hơn khi cảm nhận được cái tâm của ông vô cùng sáng, đẹp. Văn Vũ
Bằng nhiều khi khiến ta cười vang trời, bể bụng, cười đến đã đời, cũng
như đớn đau phát khóc đến tan nát tâm can… Những dòng chữ như là sự
ngẫm lại trước cuộc đời, có cái vui, có cái buồn, có cái đẹp và cũng có cái
xấu xa, tất cả hịa trộn khó tách rời... Văn ơng đầy đủ những cung bậc như

thế đó. Nó ghi tạc vào lịng ta tình yêu quê hương đất nước, yêu những gì
bình dị, chân chất; cho dù có tha hương, phiêu du đến tận chân trời góc
biển xa lắc nào nhưng suốt đời không thể nào quên. Không thể quên một
bát phở nghi ngút khói, một đĩa bánh cuốn Thanh Trì ăn với đậu rán sốt
và các thứ như một chai mắm, một chén ớt khơ, một gói cốm Vịng màu
xanh não nùng hay một mẹt bún chả thơm ngào ngạt...
Nhắc đến Vũ Bằng là nhắc đến ba bộ ký nổi bật của ông: Bốn mươi
năm nói láo, Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai. Trong đó hồi
ký Bốn mươi năm nói láo đã thể hiện tất cả những giải bày, tâm sự của
ông một cách sáng tạo độc đáo. Người đọc ấn tượng với tác phẩm ngay từ
tên tiêu đề với nhiều ẩn chứa nghệ thuật bên trong cũng như cách sử dụng
ngơn ngữ vừa bình dị mang lại hiệu quả nghệ thuật cao phù hợp với chất
giọng có phần chua xót, mà có chút gì tự trào ngơng với đời nhưng cũng
đầy suy tư và chiêm nghiệm.
Cuốn sách Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp của Nhà
xuất bản Hội nhà văn in xong năm 2004. Trong lời giới thiệu của nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Vũ Bằng vốn đã được nhiều người biết
tiếng với tập Bốn mươi năm nói láo. Tập chân dung văn học bạn đang
cầm trên tay là một sự bổ sung cần thiết cho cuốn hối ký đó. Nếu cuốn
trước nghiêng hẳn về đời làm báo của Vũ Bằng thì cuốn này cho thấy một
phần hoạt động văn học sôi nổi của ông. Trước sau chúng ta cũng gặp


6

một Vũ Bằng linh hoạt, hấp dẫn và đầy sức sống” [18, tr.9]. Có thể nói
rằng khi đọc xong cuốn sách này ta đã phần nào hiểu được những ký ức
sinh động về các đồng nghiệp nảy sinh từ những gắn bó sâu sắc của một
thời viết văn làm báo sôi nổi. Tuy chỉ viết về mười bốn gương mặt nhưng
có thể nói Vũ Bằng đã tái hiện được một phần bức tranh đời sống văn

nghệ tiền chiến.
Không dừng lại ở đời sống con người, trong văn chương Vũ Bằng
nét đẹp lý tưởng của các trang ký ẩm thực hay tâm sự u uẩn lạc loài, xa
quê cũng đầy day dứt. Đó là cảm xúc khi sống ở một khơng gian xa lạ
thiếu hẳn “cái rét ngọt ngào” cùng với thứ “mưa tím hắt hiu” của miền
quê thương nhớ Hà Nội. Đề tài Hà Nội vì thế ln hiển hiện trong văn Vũ
Bằng như niềm thương nỗi nhớ khôn nguôi. Và nhắc đến Hà Nội không
thể không nhắc đến Vũ Bằng. Hà Nội hiện ra như một đơ thị có lịch sử
lâu đời, giàu có về sản vật, giàu có về truyền thống và đặc biệt là giàu có
về bản sắc văn hóa mà chúng ta có thể đọc ra được tinh thần và tâm hồn
Hà Nội trong văn học. Và Vũ Bằng trút vào những trang văn của mình
nỗi nhớ, tình yêu Hà Nội qua hồi ký Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ
mười hai.
Chúng ta cũng cần nhắc đến tuyển tập phóng sự Hà Nội trong cơn
lốc do Võ Văn Nhơn sưu tầm và tuyển chọn của Nhà xuất bản Phụ nữ in
năm 2010. Hà Nội ở đây thật khác bởi đó là “một Hà Nội trong thời kỳ bị
thực dân Pháp tạm chiếm với đủ các sinh hoạt bi hài, từ chuyện ăn ở, ăn
mặc, ăn chơi, ăn mày, ăn cắp cho đến chuyện lo thầy chạy thuốc, chuyện
sinh hoạt văn nghệ. Những phóng sự này bây giờ đọc lại xem ra vẫn rất
thời sự” [19, tr.6]. Phải thừa nhận rằng những trang viết về Hà Nội của
nhà văn Vũ Bằng rất chân thực, hấp dẫn với ngịi bút đầy tài hoa, óc phân
tích lý giải cặn kẽ.
Nhà nghiên cứu Văn Giá là người có cơng sưu tầm giới thiệu các
tác phẩm của Vũ Bằng nói chung và tìm hiểu, đánh giá về quan niệm


7

sáng tác của ơng nói riêng một cách tương đối cơng phu. Trong cơng tình
nghiên cứu Đời sống và đời viết ấn hành năm 2005, Nhà xuất bản Hội

nhà văn – Trung tâm văn hóa Đơng tây,Văn Giá đã dành nhiều trang viết
về Vũ Bằng, đáng chú ý nhất là bài viết về chân dung văn học Nhà văn
cùng thời qua con mắt Vũ Bằng. Ở đây Văn Giá bàn về vấn đề chân dung
văn học qua nhãn quan của Vũ Bằng, là chân dung “những người bạn văn
một thuở với ơng, kẻ cịn, người mất, kẻ Bắc người Nam. Đó là những
văn nghệ sĩ, mà trong đó có số khơng ít những gương mặt lớn của nền
Văn học Việt Nam hiện đại như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Tn, Nam Cao, Nguyễn Bính, Tơ Hồi” [8, tr.118 – 119]. Theo Văn Giá,
mỗi chân dung văn học được dựng lên là một cuộc “xét duyệt tâm hồn”
từ chính tác giả. Các bài viết là chuỗi hành trình Vũ Bằng tìm lại q khứ,
trong đó có bạn bè cùng hình ảnh con người thực của tác giả hơn ba chục
năm về trước, từ hơm nay nhìn về hơm qua, từ trong này nhìn về ngồi ấy
tạo nên sự xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Và những bài viết ấy theo
như Văn Giá nhận xét thì đó là “những tài liệu rất bổ ích, rất cần thiết cho
những ai muốn tiếp tục nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của những
gương mặt ấy”.
Nguyễn Ánh Ngân trong lời giới thiệu của cuốn Tạp văn Vũ Bằng
của Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2003 đã mượn lời của Tơ Hồi nhận
xét về Vũ Bằng rằng: “Trong ký ức của những nhà văn đương thời, Vũ
Bằng được nhắc đến với lòng trìu mến và ít nhiều tri ân. Đó là một nhà
văn mang nặng nỗi niềm xa quê đau đáu, về cuối đời ngậm ngùi an phận
mà hồi tưởng quá khứ tung hoành” [17, tr.9]. Cuốn sách này là tập hợp
những bài viết của Vũ Bằng trên các tạp chí, qua đó cung cấp thêm cho
người đọc có nhận định đầy đủ và sâu sắc hơn đối với Vũ Bằng.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan in năm 2005 do
Nhà xuất bản Văn học ấn hành, ông đã nhận xét tổng quát về nghiệp văn
của Vũ Bằng như sau: “Tiểu thuyết của Vũ Bằng rất gần với tiểu thuyết


8


của Nguyễn Công Hoan về lối tả cảnh và nhân vật. Khi tả nhân vật, dù là
họ ở vào cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả
bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá hoạt kê một chút; cịn về cảnh,
ơng chỉ tả sơ sơ; ông chú trọng cả vào hành vi của các nhân vật vì các
hành vi ấy là động tác của cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh riêng
biệt cho nhân vật…” [20, tr.435]. Với việc dành đến mười bảy trang viết
nói đến Vũ Bằng phần nào chứng tỏ những đóng góp lớn lao của Vũ
Bằng cho nền văn học và báo chí nước nhà sẽ khơng thể nào bị lãng qn.
Khơng những thế khơng ít nhà văn, nhà phê bình nghiên cứu văn học cho
rằng: Ngay từ những năm Ba mươi, Vũ Bằng là một trong những người
có cơng lớn cách tân tiểu thuyết Việt Nam, hiện đại hóa nền văn xuôi Việt
Nam .
Trong Từ điển văn học (Bộ mới) của tác giả Đỗ Đức Hiểu, Nhà
xuất bản Thế giới in năm 2004 cũng đã giới thiệu khá rõ về cuộc đời lẫn
sự nghiệp sáng tác, nêu lên những nội dung cốt lõi các tác phẩm nổi tiếng
của Vũ Bằng. Với tác phẩm “Bốn mươi năm nói láo quả là một bức tranh
sống động và độc đáo, đã gợi lại được khơng khí và lịch sử báo chí miền
Bắc, và sau này, ở miền Nam trong khoảng bốn mươi năm giữa thế kỷ
XX [10, tr.2019]. Hay Miếng ngon Hà Nội viết về những món ăn đặc biệt
cổ truyền Hà Nội: một gói cốm Vịng đẹp não nùng xanh màu xanh lưu
ly, một bát phở bốc khói nghi ngút, một mẹt bún chả thơm ngào thơm
ngạt, một đĩa bánh cuốn Thanh Trì để bên cạnh một đĩa đậu rán phồng
nóng rẫy lên v.v...” [10, tr.2019]
Cũng trong cuốn từ điển, tác giả Trần Đăng Suyền và Văn Giá
cũng đã nhận xét về văn chương Vũ Bằng với những lời ngợi ca: “Văn hồi
ký của ơng là loại văn trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm,
hướng về phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở. Các câu văn tràn đầy cảm
xúc, cảm giác tinh tế. Cùng với Miếng ngon Hà Nội và Bốn mươi năm
nói láo, Thương nhớ mười hai đã góp phần định hình kiểu hồi ký trữ tình



9

độc đáo. Có thể xem đây là một đóng góp quan trọng của nhà văn Vũ
Bằng vào thể ký nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung” [10,
tr.2020].
Tác giả Hà Minh Châu trong bài viết “Tính hình tượng trong ngôn
ngữ tùy bút và bút ký của Vũ Bằng”, số 23, Tạp chí khoa học ĐHSP TP
HCM cũng đã nói đến đóng góp của ngơn ngữ ký Vũ Bằng trong sự phát
triển ngơn ngữ văn xi. “Tính hình tượng trong ngôn ngữ tùy bút và bút
ký Vũ Bằng được tạo nên từ cách kết ghép từ ngữ đa dạng, độc đáo và từ
trường liên tưởng thú vị với nhiều biện pháp tu từ” [5, tr.26]
Bài viết Vũ Bằng với nghệ thuật viết chân dung văn học của tác giả
Đỗ Ngọc Thạch cũng đã đề cập đến nét tài hoa trong việc dựng chân dung
văn học của nhà văn Vũ Bằng. “Đó chính là nói về biệt tài viết chân dung
nhân vật của Vũ Bằng. Thể loại Chân dung văn học là hoàn toàn mới
trong làng văn làng báo Việt Nam. Vì thế, có thể nói rằng, Vũ Bằng chính
là một trong những người đi tiên phong trong thể loại chân dung văn học
với những trang viết độc đáo về những nhà báo, nhà văn Việt Nam đầu
thế kỷ như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phùng Tất Đắc, Vũ Đình Long, Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng, Thâm Tâm, Thanh Châu, Nguyễn Tuân, v.v...”
Trong những năm gần đây, Vũ Bằng được đề cập nhiều qua các
cơng trình nghiên cứu: các khóa luận tốt nghiệp tại các trường đại học,
các luận văn, luận án. Trong bài nghiên cứu có tham khảo cơng trình:
Đặc sắc tản văn Vũ Bằng (qua Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười
hai) – Bùi Tiến Sỹ (2010, Đại học Đà Nẵng).
Vũ Bằng là một nhà văn có số phận kỳ lạ trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Suốt cả cuộc đời phải chịu nhiều thiệt thịi, cay đắng…
nhưng những gì Vũ Bằng thể hiện trong trang viết của mình đều chứng tỏ

ơng là một con người có tầm văn hố. Sự tận tuỵ, tài hoa trong văn
nghiệp, sự năng động trong báo nghiệp, sự quên mình một cách thầm lặng


10

cho sự nghiệp chung của đất nước… tất cả đã làm toát lên một nhân cách,
một lý tưởng và một phong cách Vũ Bằng không lẫn với bất kỳ ai.
Bây giờ đã hơn hai mươi năm trôi qua, kể từ ngày Vũ Bằng từ giã
cõi đời, các tác phẩm văn học, báo chí của ơng ngày càng được phổ biến
rộng rãi tới người đọc. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu về các sáng tác và
quan niệm văn chương của nhà văn, nhà báo tài năng này còn quá khiêm
tốn. Để có một cách nhìn tổng thể, sâu sắc về văn nghiệp của ơng cần
phải có thời gian với một cơng trình nghiên cứu cơng phu và đầy đủ hơn.
Với luận văn này, chúng tơi đi sâu vào tìm hiểu nét đặc sắc trong nghệ
thuật dựng chân dung văn nghệ sĩ của Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói
láo với mong muốn góp phần tạo ra một cái nhìn tổng thể, bao quát về
những đặc sắc của các sáng tác Vũ Bằng, qua đó góp thêm một tiếng nói
vào việc chiếm lĩnh một tác gia có nhiều đóng góp trong nền văn xi
hiện đại Việt Nam.
5. Bố cục đề tài
Ngồi phần Mở đầu và phần Kết luận thì trong phần Nội dung có
hai chương là:
Chương 1: Nhà văn Vũ Bằng và hồi ký Bốn mươi năm nói láo
Chương 2: Nét tài hoa Vũ Bằng trong dựng chân dung nhà văn qua
hồi ký Bốn mươi năm nói láo.


11


CHƯƠNG 1
NHÀ VĂN VŨ BẰNG VÀ HỒI KÝ BỐN MƯƠI NĂM NÓI LÁO
1.1. Vũ Bằng – một con người tài hoa và cô đơn
1.1.1. Vũ Bằng – nhà văn, nhà báo tận tụy với nghề
Vũ Bằng tên đầy đủ là Vũ Đăng Bằng, sinh ngày 3 tháng 6 năm
1913 tại Hà Nội, lớn lên trong một gia đình Nho học thuộc dòng họ Túc
nho ở Vũ Hồn, quê gốc ở đất Ngọc Cục, huyện Lương Ngọc, nay là Bình
Giang, tỉnh Hải Dương. Với nền tảng gia đình có học thức và trên mảnh
đất vốn được mệnh danh là “địa linh nhân kiệt”, là cái nôi của nền văn
minh sông Hồng có truyền thống hiếu học, khao khát tri thức, Vũ Bằng đã
chịu sự ảnh hưởng giáo dục từ gia đình và mảnh đất ơng sinh ra. Bên cạnh đó
từ nhỏ ông theo học trường Anbe Xarô (Albert Sarraut) – một ngơi
trường trường trung học danh tiếng ở Đơng Dương có rất nhiều nhân vật
nổi tiếng theo học, sau đó học đến hết Ban Tú tài Pháp.
Ngay khi cịn nhỏ ơng đã say mê viết văn, làm báo. Năm 16 tuổi
ông đã có tập tùy bút châm biếm Lọ văn đăng báo, và từ đó ơng bước vào
trường văn trận bút để trở thành một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi nhà văn nhà báo Vũ Bằng.
Bởi Vũ Bằng đã hiến dâng trọn vẹn cả đời mình cho văn, cho báo, trong
suốt dịng sơng của cuộc đời có mặt, Vũ Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để
xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ thuật. Về văn học ơng viết nhiều
loại hình như tiểu thuyết, bút ký, phê bình, truyện ngắn v.v... Cịn về báo
chí thì cộng tác với rất nhiều tờ báo mà người ta thường gọi đó là những
“đoạn trường nghề báo”. Gồm các tờ báo như: Hồn nước Nam, Hữu
Thanh, Đông Tây, Rạng Đông, Bắc Kỳ Thể Thao, Nhật Tân, Trung Bắc


12

Tân Văn... Ngồi bút hiệu Vũ Bằng, ơng cịn ký với các bút hiệu khác:

Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hồng Thị
Trâm... Vì đam mê nghiệp viết mà ông đành chịu tội bất hiếu với Mẹ. Mẹ
ơi: Nếu trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo!? Vũ Bằng là thế đấy,
cả một đời cống hiến tài năng bất tử của mình nhưng lại mang những nỗi
oan để rồi làm kẻ lữ hành suốt đời đơn cơi ngay trên đất nước q hương
mình!
Hồn cảnh và gia đình cũng đã có sức ảnh hưởng lớn đến cuộc đời
Vũ Bằng. Là con trai của một nhà xuất bản nên có lẽ từ những ngày cịn
nhỏ, Vũ Bằng đã đọc rất nhiều sách báo, vì thế ít nhiều cái máu văn
chương đã ăn vào ông. Người cha mất sớm. Người mẹ, một phụ nữ tảo
tần, hết lòng vì con. Bà mở một hiệu sách báo ở phố Hàng Gai làm nguồn
sống cho cả gia đình. Vũ Bằng ở với mẹ làm chủ một tiệm bán sách và
giấy ở 115 Hàng Gai, Hà Nội. Đó là Nhà sách Quảng Thịnh, chuyên bán
buôn các loại sách văn học. Vũ Bằng khá được cưng chiều khi sống với
mẹ, người mẹ vì tương lai của con trai, với nguyện ước sau này Vũ Bằng
sang Pháp du học, trở thành bác sĩ để giúp người, giúp đời. Nhưng Vũ
Bằng lại theo nghề báo chí, văn chương.
Năm 1935, ơng lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ xinh đẹp, đảm
đang, hơn ông 7 tuổi người Thuận Thành, Bắc Ninh. Thời điểm Vũ Bằng
cưới bà Quỳ, có lẽ ơng đã chưa cảm hết được những gì là cao quý nhất,
thẳm sâu nhất trong con người bà. Một người đàn bà hiện lên như bao
người phụ nữ Bắc Việt xa xưa. Là người khéo léo, đảm đang trong đời
sống thường nhật gia đình, là người biết nâng niu, giữ lại những món
ngon truyền thống, những nét phong tục cổ truyền trong các dịp lễ hội…
Người đàn bà Bắc Việt này cịn là người có tâm hồn tinh tế, biết cảm và
thưởng thức cái đẹp... Người vợ tảo tần lo cho cuộc sống còn Vũ Bằng lại
sa đà và dính nghiện, sớm hơm quăng mình vào chốn ăn chơi như khơng
hề có mặt bà trên đời. Cịn bà, bà kiên trì tìm mọi cách để khuyến khích



13

ơng cai nghiện, kể cả lấy tình u mà đánh thức lịng trắc ẩn. Đây chính
là người vợ mà Vũ Bằng tri ân, thương nhớ suốt đời. Đó là tri kỷ, là
người đã góp phần quyết định làm nên một Vũ Bằng nhà văn, nhà báo, là
nguồn cảm hứng để văn chương Vũ Bằng bay cao… Và ông viết Thương
nhớ mười hai và Miếng ngon Hà Nội để thể hiện nỗi nhớ niềm yêu Hà
Nội vốn luôn cháy bỏng trong trái tim và gửi đến người vợ thân yêu tình
cảm chân thành, đáng quý nhất trong những tháng năm cách trở.
Đọc những trang tùy bút của Vũ Bằng, mấy ai mà không động tâm
nao nao trong dạ. “Một thời gian đã trôi qua, biết bao nhiêu là kỷ niệm
chẳng thể lãng quên. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng.
Lê bước chân trên nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì khơng mất
hẳn, nhưng khơng còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhè nhẹ, cái buồn khơng
se sắt, cái nhớ khơng day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới
thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lịng người cũng như cánh
hoa, chóng già đi vì thế. Người ta khơng nặng lắm về hiện tại nhưng thiết
tha với quá khứ hơn” [4, tr.7]. Vũ Bằng và bà Quỳ có với nhau một người
con trai là Vũ Hoàng Tuấn, nhà giáo, sau chuyển từ Hà Nội vào dạy tại
Trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 1946, Vũ Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng
chiến. Những năm chiến tranh, sống trong cái tranh tối tranh sáng nửa
hậu phương, nửa chiến trường của Hà Nội đầy khổ cực nhưng Vũ Bằng
và gia đình ln cố gắng vượt qua. Cuối năm 1948, Vũ Bằng bắt đầu
tham gia hoạt động trong mạng lưới tình báo cách mạng. Đây là ngã rẽ
quan trọng của nhà văn trong bước đường đời của mình. Thời kỳ này Vũ
Bằng là một tình báo viên, là người của Việt Minh hoạt động trong tầng
lớp trí thức văn nghệ sĩ. Năm 1952, nhận sứ mệnh đặc biệt, Vũ Bằng về
Hà Nội, để lại vợ và đứa con trai yêu quý ở vùng tản cư. Thế nhưng lúc
này nhà văn lại bị hiểu lầm là “dinh tê” về thành, quay lưng lại với cách

mạng, với kháng chiến. Bởi có ai hiểu được rằng đằng sau một Vũ Bằng


14

mang những tội lỗi người ta gán ghép là một cán bộ tình báo, một người
làm nhiệm vụ mật. Ơng không một lời thanh minh, vẫn âm thầm viết,
sống lặng lẽ và trung thành, đã nhận trách nhiệm của một chiến sĩ tình
báo thì phải thực hiện đến cùng. Khơng vì những lời khinh trách cay
nghiệt mà từ bỏ nhiệm vụ, ơng hy sinh hạnh phúc gia đình để gửi cả cuộc
đời cho cách mạng với bao chìm nổi. Qua đó phần nào cho chúng ta thấy
được một Vũ Bằng với nhân cách trong sáng, một con người tận tụy,
quên đi ích kỷ cá nhân để sống cho những điều chung cao cả.
Lại nói thêm về chuyện nguyên mẫu nhân vật Hồng trong truyện
ngắn Đơi mắt của Nam Cao. Cũng từ câu chuyện này mà dư luận xấu về
Vũ Bằng lại thêm một lần nữa phê phán gay gắt hơn. So với Vũ Bằng,
Nam Cao là anh giáo nghèo ở làng, “nhà quê” từ đầu đến chân. Còn Vũ
Bằng là dân trí thức – tiểu tư sản thành thị đích thực. Hình dáng Vũ Bằng,
dưới ngịi bút Nam Cao hiện ra phong độ và mang cái gì đó của sự đủ đầy
...Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bước vì người
khí to béo q, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệch ra hai bên, những
khối thịt ở dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá...
Lúc Nam Cao viết truyện ngắn Đôi mắt, dường như hai người đã
dạt về hai “chiến tuyến” chính trị. Nam Cao đã bắt đầu viết bằng nhân
sinh quan của một nhà văn vô sản. Truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao
cũng đã làm cho cái án phản bội cách mạng, sống xa rời quần chúng của
Vũ Bằng dường như nặng nề hơn. Nhưng cho dù thế nào đi nữa thì Vũ
Bằng vẫn sống vững tâm, dạ sắt gan vàng vượt qua những tháng ngày ấy.
Vũ Bằng sống hết mình, ngơng nghênh, có phần kiêu bạc... nhưng lại rất
chí tình, chí nghĩa....

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Mỹ thay chân Pháp ở miền
Nam Việt Nam, Vũ Bằng được sự phân cơng của tổ chức, ơng vào Sài
Gịn, để lại vợ và con trai ở Hà Nội. Vậy là dư luận lại khép thêm cho Vũ
Bằng một cái án “đi theo bọn phản động”. Vũ Bằng vẫn lặng câm bởi


15

việc nhà văn đi Nam không phải là “di cư theo giặc”. Ơng là một mắt
xích trong mạng lưới tình báo của cách mạng. Năm 1956, bà Quỳ được tổ
chức bố trí vượt sơng Bến Hải vào Huế, rồi Vũ Bằng từ Sài Gịn ra Huế
đón vợ vào, ở nhờ nhà bạn là Thượng Sỹ hơn một tháng. Khi bà Quỳ trở
ra Bắc, ông Trần Văn Hội là chỉ huy trực tiếp của Vũ Bằng đã gửi báo
cáo tình hình Sài Gòn trong đế giày bà Quỳ. Bà Quỳ chuyển báo cáo an
toàn tới Trung ương. Bà Quỳ trở ra Bắc đến năm 1967 thì mất nhưng Vũ
Bằng vẫn khơng thể về thăm vợ. Nỗi nhớ thương day dứt cào xé tâm can
người chồng đối với người vợ tấm mẳn ngày xưa, đã thật xa, là hình bóng
cứ phảng phất hoang hoải theo thời gian, theo từng giờ khắc của đời sống
thường nhật. Ông viết và cứ viết để diễn tả nỗi lịng mình, để phần nào
giải bày những u uẩn trong tâm can, và như mượn lời văn chương gửi đến
người vợ quá cố ít duyên nhiều nợ với ơng. Cảm thơng cho nỗi lịng se
thắt của ơng, có người viết: “Vũ Bằng ơi… Hồn ông ở đâu, sao sau hàng
chục năm đất nước thống nhất, ông vẫn không chịu về Hà Nội lấy một lần
mà thăm lại ngôi mộ của người đàn bà ông yêu đến đứt ruột gan, lẻ cùng
tơ mộng nơi đất Bắc?”
Có thể nói những năm tháng hoạt động tình báo cũng là khoảng
thời gian ông chịu nhiều khổ đau và oan ức vì không thể thanh minh cho
mình. Sự hi sinh của ơng khơng gì bù đắp nổi: ơng hi sinh quyền lợi cá
nhân, làm cơng việc tình báo đầy nguy hiểm. Cuộc dấn thân vào nhiệm vụ
mới với ông thật đầy mất mát, vất vả càng làm sáng tỏ bản chất dũng cảm

của ông – một chiến sĩ tình báo cách mạng.
Thời gian khi ở Sài Gòn, Vũ Bằng lấy người vợ thứ hai là bà
Lương Thị Phấn quê Cần Thơ nhỏ hơn ông mười lăm tuổi – một cô gái
miệt vườn, quê miền châu thổ sơng Cửu Long lên Sài Gịn làm ăn,
thường nấu cơm cho Vũ Bằng. Họ có với nhau sáu người con: ba trai, ba
gái, sống nghèo khó tại căn nhà nhỏ dưới chân cầu Tân Thuận. Nhìn vào
cuộc sống khốn khó của Vũ Bằng khơng ai khơng cảm thương. Tạ Tỵ


16

viết: “Nếu Vũ Bằng không cần tiền để trang trải tiền hộ sinh cho vợ đẻ và
trả nợ thì cịn lâu độc giả mới được nghe Vũ Bằng nói láo. Chính vì cần
tiền nên cứ vào khoảng 3 giờ sáng, Vũ Bằng một mình một bóng vừa viết
Bốn mươi năm nói láo vừa ngồi hứng từng chậu nước đổ vào bể chứa cho
vợ nấu cơm và giặt giũ. Buổi trưa đến cây xăng Cống Bà Xếp ngồi giữa
hơi xăng và đống dầu mỡ mà viết, vì về nhà con cịn nhỏ, la hét um sùm
khơng viết nổi. Có lúc nhà in giục gấp quá, Vũ Bằng viết luôn tại nhà in,
được trang nào đưa sắp chữ ngay trang ấy. Nhiều khi Vũ Bằng viết ở ghế
đá công viên, nghĩa là chỗ nào và lúc nào anh cũng viết được vì chữ
nghĩa đã có sẵn, chờ dịp trút xuống” [27, tr.19]. Từ hồn cảnh éo le đó mà
hơm nay chúng ta có Bốn mươi năm nói láo.
Năm 1992, khi mà danh phận Vũ Bằng cịn trong u tối, vì ngun
nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc cho nên sau 30 – 4 –
1975, cuộc sống Vũ Bằng đầy tủi hận, vợ là bà Phấn lúc bấy giờ phải đi
bán cà phê, gia cảnh nheo nhóc. Vũ Bằng chết trong bệnh tật và cảnh
thiếu ăn, thiếu thuốc chữa bệnh. Thử thách cả một đời người, chịu oan
khiên, chịu nhưng năm tháng dài đau khổ cho đến khi trút hơi thở cuối
cùng để về với đất mẹ vẫn hàm oan, vẫn mang theo bao nỗi tủi nhục đau
đáu.

Ngày 08/04/1984, Vũ Bằng quy tiên tại tư gia ở Sài Gòn, hưởng
thọ 70 tuổi. Vũ Hoàng Tuấn, con trai của Vũ Bằng đến một tờ báo đăng
tin cáo phó nhưng tồ soạn chỉ chấp nhận với điều kiện: không đăng hai
chữ “Nhà văn” trước tên Vũ Bằng. Như vậy, gần mười năm sau hồ bình,
tư cách nhà văn, chiến sĩ tình báo của Vũ Bằng vẫn chưa được Nhà nước
chính thức cơng nhận. Vũ Bằng mất đi, mang trong lịng nỗi khắc khoải
về danh phận của mình.
Chỉ đến năm 2000, khi được Tổng cục II – Bộ Quốc phòng xác
nhận tư cách cơng dân, cơng trạng thì Vũ Bằng mới từ bên trời thương
nhớ thênh thang trở về và đường hoàng gia nhập vào nền văn học Việt


17

Nam hiện đại trở thành một trong những nhà văn tiền phong của chúng ta.
Từ năm 2000 trở đi, người ta mới được biết về một nhà văn Vũ Bằng đã
nhiều năm có chân trong mạng lưới tình báo cách mạng giữa đơ thị Sài
Gịn, mới hiểu ra những tai tiếng thiệt thịi mà nhà văn và thân nhân gia
đình hứng chịu trong những tháng năm qua.
Sau mọi chuyện sáng rõ thì vào năm 2007, nhà văn Vũ Bằng đã
được truy tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Hy vọng
rằng ở nơi chín suối, hương hồn nhà văn Vũ Bằng sẽ thanh thản sau
những năm lao động đầy mệt nhọc, vất vả cho sự nghiệp viết văn, làm
báo, tình báo nhưng vẫn chịu oan khuất cho đến lúc trút hơi thở cuối
cùng. Công sức, cống hiến cả đời người đã được đền đáp xứng đáng phần
nào.
Có thể nói Vũ Bằng là một nghệ sĩ đa tài nhưng có cuộc đời đầy éo
le, trắc trở. Cùng một lúc, ông mang trên vai trách nhiệm với nhiều nghề:
nghề báo, nghề văn và tình báo. Ở lĩnh vực nào ơng cũng bộc lộ là người
có tâm, có tài. Sự tận tụy cùng tài năng trong văn nghiệp, sự năng động,

sắc sảo trong báo nghiệp, sự hi sinh quên mình cho sự nghiệp chung của
đất nước, tất cả đã toát lên một nhân cách, một phong cách, một lí tưởng
Vũ Bằng khơng lẫn với bất kì ai ở bất cứ đâu. Thế nhưng cuộc đời lại lấy
đi của Vũ Bằng có nhiều thứ dẫu cho mai này ơng có được đền đáp như
thế nào. Một con người sống thủy chung, nhân hậu, quên bản thân cống
hiến cho cuộc đời lại bị xã hội ruồng bỏ, ghẻ lạnh bởi nỗi oan không ai
thấu cùng. Một con người hội tụ những phẩm giá đầy cao đẹp. Một nhân
cách kết hợp độc đáo, tài tình giữa nghề viết và nhiệm vụ chính trị: Cả hai
đều đạt tới độ chín và sự thành cơng mà không phải ai cũng làm được. Để
rồi cho đến hôm nay và về sau người ta vẫn luôn nhắc đến ông, nhắc đến
một tâm hồn tựa hồ gương sáng, một tài năng phẩm hạnh sống mãi trong
lòng người đọc. Vũ Bằng quả là một nghệ sĩ đáng trân quý và ngưỡng
vọng.


18

1.1.2. “Nghề văn nghiệp báo” của Tiêu Liêu Vũ Bằng
Tôi xin cảm tạ cuộc đời
Đời đáng sống, muôn ngàn lần đáng sống.
Hai câu trên thật đúng để nói cho cuộc đời Vũ Bằng – một cuộc đời
đầy ý nghĩa, đầy giá trị bởi ông say sưa làm báo, viết văn, đam mê với
nghiệp viết cống hiến hết mình cho sự nghiệp nghệ thuật. Tên tuổi ông
xuất hiện khá sớm trong làng báo nước nhà. Niềm đam mê viết đã đưa
ông trở thành một nhà văn có tiếng bởi sự thành thạo và chững chạc trong
ngịi bút. Ơng nhanh chóng đi trên con đường chuyên nghiệp của nghề
văn với nhiều sáng tác đa dạng về thể loại.
Trong lãnh vực báo chí, ngay từ thời trai trẻ ông đã cộng tác với
nhiều tờ báo ở Hà Nội trong thập niên 30, 40... Chủ bút tờ Tiểu Thuyết
Thứ Bảy, Thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật... cho đến khi tên tuổi

của ông quen thuộc trong làng báo, nhiều tờ, nhiều mục đều có Vũ Bằng.
“Viết báo, viết báo, thầu báo cai đầu dài ba bốn tờ một lúc. Anh viết đủ
thứ, từ thượng vàng hạ cám, từ cái hộp thư, cái tin vặt, cái vui cười, cái
biết ai tâm sự đến truyện ngắn, truyện dài đăng từng kỳ” (Tơ Hồi).
Ơng dấn thân vào nghiệp báo với nỗi đam mê, song song với nhiều
thể loại đóng góp trên tờ báo, ơng sáng tác đều đặn nhiều tác phẩm. Mỗi
nhà văn đến với nghề nghiệp bằng một con đường riêng và sẽ tồn tại
trong nghề theo những phong cách riêng. Song ở các nhà văn có thể gọi là
thành đạt, những nhà văn có một cái tên mà đọc lên, nhớ ngay được,
người ta thường nhận ra một nét chung: ấy là, những độc đáo trong tính
cách, trong số phận khiến cho họ gần như nhất thiết phải làm nghề ấy, mà
không thể làm nghề khác.
Sau tạp văn Lọ văn, ông viết tiểu thuyết Một mình trong đêm tối
(Trung Bắc Tân văn, 1937) với chủ tâm “mở một lối riêng”. Từ đây, tên
tuổi Vũ Bằng trong làng văn được nhiều người biết đến. Tiếp đến là các
tiểu thuyết “Truyện hai người” (Tân Dân, 1940), Tội ác và hối hận (Phổ


19

thông Bán nguyệt san, số 66, 1940), Chớp bể mưa nguồn (đăng nhiều kỳ
trên Tiểu thuyết Thứ bảy từ số 1, 3 – 1949), Để chàng khỏi khổ (Phổ
thông Bán nguyệt san, số 77, 1941), Bóng ma nhà mệ Hốt (Nguyễn Đình
Vượng xuất bản, Sài Gịn – 1973; Nhà xuất bản Cà Mau tái bản, 1994).
Vũ Bằng cũng viết với số lượng khá nhiều các bài ký như: Hội Lim
(1931), Cái búa con (1931), Người Hà Nội nhớ người Hà Nội (1949),
Vườn xuân tơi bời lá gieo (1949)… Tuy nhiên, ấn tượng mà Vũ Bằng để lại
nhiều nhất là hai tác phẩm có tính chất tự truyện rõ rệt: Cai (1944) và Bốn
mươi năm nói láo 1969). Cuốn Cai ra đời năm 1944 (sau này đổi tên là
Phù dung ơi! Vĩnh biệt), là những lời “gan ruột” của chính tác giả kể về

những năm tháng nghiện ngập, sa đoạ, trai gái và q trình cai nghiện
“nàng tiên nâu”. Cịn Bốn mươi năm nói láo là cuốn vừa biên khảo về
lịch sử báo chí, văn học Việt Nam vừa là cuốn tạp ghi về sinh hoạt nghệ
thuật của giới cầm bút. Nó đã nói lên tất cả mọi khía cạnh đặc thù – trong
đó – Vũ Bằng đã ký thác tâm sự mình, ký thác “nghiệp chướng” mình
một cách quá đầy đủ.
Ở thể loại truyện ngắn, Vũ Bằng cũng đã để lại nhiều thành công
đáng kể. Từ khi bước vào nghề viết văn cho tới những năm cuối đời, ông
cho ra đời nhiều tác phẩm gắn liền với những khoảng thời gian lịch sử nổi
bật của đất nước: Trước cách mạng tháng tám có một số truyện ngắn đáng
chú ý: Một người bưng mặt khóc (Tiểu thuyết Thứ bảy, 1938), Gặp nhau
lại xa nhau (Tiểu thuyết Thứ bảy, 1938), Một người rơi xuống hố (Tiểu
thuyết Thứ bảy, 1938), Chàng Kim người Bắc cô Kiều người Kinh (Tiểu
thuyết Thứ bảy, 1938)… Từ 1945 – 1954: AT (Tiểu thuyết Thứ bảy,
1949), Ở đây bán sách cũ (Tiểu thuyết Thứ bảy, 1949), Cây hoa hiên bên bờ
sông Na (Tiểu thuyết Thứ bảy, 1949)...
Giai đoạn 1954 – 1975, ông chuyển vào sinh sống tại Sài Gịn và
được cơng chúng biết đến trong vai trị một nhà văn, nhà báo tự do, ông
viết khỏe với một loạt tập truyện ngắn: Mê chữ (tập truyện, Tân Văn, Sài


20

Gòn – 1971, gồm các tác phẩm: Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu; Mơ về
một cuộc chọi trâu; Ăn tết thuỷ tiên; Một cuộc đấu kiệu… giết người; Một
chục bạc, một trận đòn, một kiếp người; Mê chữ); Bát cơm (tập truyện ký,
Tân văn, Sài Gòn, 1971. Đây là tập hợp các tác phẩm đăng báo từ 1948 –
1950, tiêu biểu: Bữa cỗ; Giai đoạn mới; Tất cả để chiến thắng; Có một
người cũng biết cười; Truyện trăm năm cũ; Đất khách; Tiếp theo và hết
truyện Lưu Bình – Dương Lễ; Bát cơm…); Bảy đêm huyền thoại (truyện

ký, Văn học Sài Gòn – 1972), Người làm mả vợ (tập truyện ký, Văn Sài
Gòn – 1973)...
Thời kỳ này, Vũ Bằng có nhiều tác phẩm đáng chú ý, tuy nhiên chỉ
đến khi Miếng ngon Hà Nội (1960), Miếng lạ miền Nam (1969), Thương
nhớ mười hai (1972) ra đời thì tên tuổi nhà văn Vũ Bằng mới thật sự trở
thành một hiện tượng. Đây là những tác phẩm tản văn bất hủ viết về nghệ
thuật ẩm thực, về nỗi nhớ nhung Bắc Việt của một người đang sống cảnh
xa xứ. Sự nghiệp văn học của Vũ Bằng còn đánh dấu qua các thể loại như
biên khảo: Khảo về tiểu thuyết (Phạm Văn Tươi xuất bản năm 1955), Cười
Đông – cười Tây – cười kim – cười cổ, Nói có sách, Đơng Tây cổ học tinh
hoa (túi khôn muôn đời)…; Thể loại chân dung văn học: Chân dung văn
học (Văn học, Giai phẩm, 1974), Nhà văn lắm chuyện (Nguyệt san Nhân
văn, 1971)…
Giai đoạn cuối đời 1975 – 1984, Vũ Bằng không cho đăng bất kì
sáng tác nào. Tuy nhiên, sau khi ơng qua đời, người thân tìm thấy tập bản
thảo Những kẻ gieo gió và cho xuất bản. Đây là tập truyện với những tác
phẩm có nội dung báo ân, báo ốn.
Nhận định ảnh hưởng của Vũ Bằng trong sự phát triển của nền văn
xi thời kì hiện đại hóa, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định sự đóng
góp của ơng. Nhà văn Tơ Hồi đánh giá: “Vũ Bằng đã góp vào đó một
sức nặng quan trọng”. Nhiều nhà văn nhà nghiên cứu cùng thời Vũ Bằng
và cả sau này đã khẳng định: ơng là một cây bút có cá tính sáng tạo riêng,


21

thể hiện trên nhiều thể loại. Vũ Bằng cũng xác lập vị trí của mình trong
thể loại kí – hồi kí. Cùng với Miếng ngon Hà Nội và Bốn mươi năm nói
láo, Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng đã góp cơng rất lớn trong thể loại
ký.

Ơng tự nguyện bước vào nghề báo, nghề văn trong sự can ngăn,
khuyên nhủ và trong nỗi buồn của gia đình, đặc biệt là ở người mẹ.
Thương mẹ, nhưng trong trường hợp này ông lại không thể nào nghe theo
mẹ. Vào trường văn trận bút và ơng đã theo nó cho đến khi nhắm mắt
xi tay. Chính vì say mê đời nghệ sĩ, Vũ Bằng đã dìm những tháng,
những năm của tuổi trẻ vào đam mê, vào sa đoạ làm vỡ nát một ước
mong của bà mẹ muốn cho con học thành bác sĩ, và làm khổ lây đến
người cô già lận đận suốt đời cơ độc bên cạnh đứa cháu hư, bị gia đình
ghét bỏ. Cũng may, vì tình thương vơ cùng lớn của người cơ khả kính đó
– mẫu người đàn bà Việt Nam cổ – mà thay vì Vũ Bằng chơn sâu thân thế
và sự nghiệp văn chương vào sợi khói phù dung có thể đi đến tuyệt vọng
cả thể xác lẫn linh hồn, Vũ Bằng đã trải qua bao nhục nhằn một cách
dũng cảm so với khả năng chịu đựng của một con người. Đã trải qua
những cuồng phong sóng gió để sống, để lao động nghệ thuật không
ngừng.
Nhà văn Vũ Bằng trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo từng đã định
nghĩa một cách đơn giản văn chương chữ nghĩa là một thứ không trường
không thầy. Kết thúc tập sách Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã có
những lời thật tâm huyết, “thật là Vũ Bằng”: “Tôi biết rằng nếu một ngày
kia, Trời xử phiên án cuối cùng, hỏi tơi nếu cho trở lại làm người thì sẽ
làm gì, tơi cũng sẽ nói khơng cần suy nghĩ gì hết và chỉ trả lời một câu:
“Người Mẹ nào sinh ra con lại chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm
ra, có vai có vế, nhưng Mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với Mẹ: nếu trở
lại làm người, con cứ lại xin làm báo!” [3, tr 389].


22

Cuộc đời cầm bút của mỗi người không chỉ bao gồm những ngày
vui vẻ, những phút run rẩy trước trang văn, trang báo còn thơm mùi mực,

hoặc cuốn sách giấy trắng nõn nà, mà, giống như phần chìm của những
tảng băng trơi, ẩn dưới những ngày vinh quang kia, cịn cả cuộc đời lầm
lũi làm việc, suy nghĩ, tranh cãi biện luận bàn nát việc này việc khác cốt
tìm ra một hướng đi đúng đắn! Vũ Bằng đã chịu hy sinh tất cả vì con
đường nghệ thuật, vì sự nghiệp chung của cả dân tộc, không màng đến
nguy hiểm gánh trên vai mình những trách nhiệm nặng nề. Đã thế ông
còn bị mang tiếng oan, nhận sự hiểu lầm khinh mạt từ dư luận. Nhưng
trên tất cả nếu ai đã từng tiếp xúc với Vũ Bằng đều nhận xét rằng: Vũ
Bằng là một con người chân chính, một nhà văn u nước, có tấm lịng
son sắt với Hà Nội.
1.2. Bốn mươi năm nói láo trong sự nghiệp trước tác của Vũ Bằng
“Văn hồi ký của ông là loại văn trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào
biểu hiện nội tâm, hướng về phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở. Các
câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế. Cùng với Miếng ngon Hà
Nội, Thương nhớ mười hai và Bốn mươi năm nói láo đã góp phần định
hình kiểu hồi ký trữ tình độc đáo. Có thể xem đây là một đóng góp quan
trọng của nhà văn Vũ Bằng vào thể ký nói riêng và nền văn học hiện đại
nói chung” [10, tr.2020]
Vũ Bằng dấn thân vào nghiệp báo với nỗi đam mê song trong lĩnh
vực văn học, ông cũng có khơng ít những cống hiến đặc biệt là ở thể loại
hồi ký. Trong đó Bốn mươi năm nói láo (1969) là một thiên hồi ký với
những nét đặc sắc tiêu biểu. Qua ngòi bút tinh tế, đầy tài năng của Vũ
Bằng tác phẩm đã thể hiện tất cả những giải bày, tâm sự của mình một
cách sáng tạo độc đáo. Người đọc ấn tượng với tác phẩm ngay từ tên tiêu
đề với nhiều ẩn chứa nghệ thuật bên trong cũng như cách sử dụng ngơn
ngữ vừa bình dị dân dã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao phù hợp với
chất giọng có phần chua xót, mà có chút gì tự trào ngông với đời nhưng


23


cũng đầy suy tư và chiêm nghiệm. Đồng thời với tài năng của một nhà
văn, nhà báo đầy tâm lực, Vũ Bằng đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa thể
loại ký báo chí và ký văn học để tạo một phong cách và hơi thở riêng cho
tác phẩm của mình.
Chúng ta đã từng bắt gặp những cái tên tác phẩm khiến người đọc
phải suy nghĩ như “Đôi mắt” của Nam Cao hay “Vợ nhặt” của Kim Lân ...
và ở đây ta lại bắt gặp Vũ Bằng với cách đặt tên tiêu đề cho tác phẩm của
mình khá thú vị: “Bốn mươi năm nói láo”. Vậy đằng sau tiêu đề đó ẩn chứa
điều gì? Ngay từ trang viết đầu tiên trong tác phẩm của mình, Vũ Bằng đã
lý giải cách đặt tiêu đề của mình như sau: “Bây giờ, người ta gọi nghề làm
báo là nghề nói láo ăn tiền. Kẻ viết bài này ngã vào nghề đó đã lâu, hơm
nay, ngồi giở lại cuốn sổ ký ức của mình, xin nhận ngay là mình làm nghề
“nói láo”. Vì thế tác giả lấy đầu đề tập ký ức là “Bốn mươi măm nói láo”
chớ khơng dám đề là “Bốn mươi năm làm báo” vì tác giả nhận thấy rằng
“nói láo” là một cái vinh dự, làm nghề “nói láo” là làm một nghề đặc biệt ít
ai dám đem ra khoe khoang. Thực vậy, đa số các nhà làm báo bây giờ nghe
thấy danh từ “làm báo nói láo ăn tiền” ngồi mặt thì có vẻ bất cần, nhưng
thâm tâm thì hơi giận: tại sao làm một cái nghề cao quý như nghề báo, tại
sao lãnh một cái sứ mạng nghiêm trọng là hướng dẫn dư luận, tại sao phụng
sự một quyền lực lớn mạnh vào bực thứ tư trên trái đất này mà có người
dám bảo là làm nghề “nói láo”?” [3, tr.15 – 16]. Hóa ra cái đầu đề là một lối
chơi chữ, một cách nói ngược lại với chính nội dung cuốn sách. Nghề “Nói
láo” là một tiếng thơng dụng chỉ những người viết báo có tính châm biếm
nhưng nghề nghiệp nào thì cũng có vinh và nhục, có bề mặt và bề trong.
Đúng hơn đấy là bốn mươi năm làm báo, bốn mươi năm trăn trở,
sám hối, suy tư và vượt lên khỏi những cám dỗ danh vọng và tiền tài để
làm tròn trách nhiệm của một nhà báo, chống lại cái câu mà người đời đã
gán ghép cho họ: Nhà báo nói láo ăn tiền!



24

Có thể nói hai tác phẩm Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười
hai là những khoảng lặng hướng về nơi sâu kín nhất trong tâm hồn. Trong
những lần trở về không – thời gian thiêng đã mất, nhà văn trải lịng khơng
dứt với bất cứ cái gì dẫu bình dị, nhỏ nhặt nhưng giờ đã trở nên vô cùng
thiêng liêng và xiết bao trìu mến. Viết bằng hồi niệm, viết trong “nỗi
thèm tiếc mờ mờ”, viết bằng thứ tình yêu gián cách cả về không gian cả
thời gian, những trang ký Vũ Bằng có sức hút và ám ảnh kỳ lạ. Qua việc
kể tả miếng ngon của “đồng đất mình”, nhà văn đã làm bừng lên, sống
dậy tất cả vẻ đẹp lịch lãm, tinh tế của cảnh vật, sản vật, con người, văn
hóa, mỹ học… của ngàn năm Thăng Long – Hà Nội. Những miếng ngon
Hà Nội, qua ngòi bút Vũ Bằng, đã gợi lên cả một không gian và thời gian
đã lùi xa vào dĩ vãng. Nó đâu phải chỉ là miếng ăn mà còn là màu sắc,
hương vị và linh hồn của quê hương đất Bắc. Vũ Bằng là phải viết trong
tình cảnh “buồn nhớ xa xơi, mang nặng trong lòng những biệt ly xứ sở”.
Những dòng ký Vũ Bằng hay một cách kỳ lạ mà một người có số phận
trơn tru có lẽ khơng bao giờ tới được. Vì thế có người nhận xét rất đúng
rằng:Vũ Bằng là một nhà văn độc đáo, hai lần độc đáo!
Cũng như Miếng ngon Hà Nội, Thương nhớ mười hai, trong Bốn
mươi năm nói láo vẫn là Vũ Bằng yêu thương q hương với tất cả tấm
lịng mình, con tim mình. Vẫn là Vũ Bằng trân trọng, yêu quý bạn bè,
kính trọng nhân cách và văn tài. Ơng ln thể hiện vốn sống của mình
qua việc chắt lọc những tinh tế từ cuộc sống để sáng tạo tác phẩm. Những
chân dung các nhà văn Việt Nam đượcVũ Bằng dựng lên giúp người đọc
hiểu thêm về những nét đẹp văn hoá của con người và đất nước Việt
Nam.
Những tâm sự và những nhận định xương máu đó của Vũ Bằng
trong “một vạn rưỡi ngày làm báo” được ông thể hiện ở phần 5 (Báo là

gì) của cuốn hồi ký. Đó cũng chính là những điều mà Vũ Bằng muốn
nhắn gửi, những lời tâm huyết của nhà văn về việc làm báo. Đồng thời


25

ông cũng nêu lên những phẩm chất, đạo đức mà những người làm báo
tương lai hơm nay cần phải có để hồn thành nhiệm vụ của mình theo
đúng nghĩa của một người làm báo, để báo chí xứng đáng là “quyền lực
thứ tư” của xã hội, là thứ mà “đưa người ta đến bất cứ đâu”
Phần lớn những tác phẩm của Vũ Bằng đều thai nghén từ nỗi nhớ
và viết về q khứ giúp tác giả tìm lại chính mình cũng như tìm lại những
kỉ niệm xưa. Chính tấm lịng đã cùng với ngòi bút tài hoa Vũ Bằng tạo
nên giá trị văn chương của tác phẩm đến nay những giá trị đó vẫn cịn
sống mãi. Có thể khẳng định Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng đã thâu
tóm được khá toàn diện và trung thực bộ mặt của báo chí cơng khai nước
nhà từ những năm 30 dưới chế độ Pháp thuộc đến tận những năm dưới
chế độ Mỹ – Ngụy ở Miền Nam sau này. Bao thăng trầm, thua hay dở của
hàng mấy chục tờ báo có tên tuổi trong thời Pháp và thời Mỹ đều được
Vũ Bằng với tư cách là một chứng nhân, một người hoạt động dài hơi
nhất.
Sau những lời hồi kể của ông, người đọc hình dung được một bức
tranh khá sống động thuộc một dịng chảy khác của báo chí nước nhà mà
ngày nay chúng ta rất cần nhìn ngắm lại. Cái dịng chảy đó rất phong phú
và đa dạng và khơng kém phần phức tạp như chính tình hình chính trị –
xã hội lúc đó. Nếu qn hoặc khơng cơng bằng với nó, vơ hình chung
chúng ta đã đánh mất hoặc làm nghèo đi một mảng quan trọng của đời
sống tinh thần và trí tuệ dân tộc. Đừng qn nó, đó là điều mà Vũ Bằng
đã nhắn gửi qua cuốn hồi ký này.
Cuộc sống con người khơng phải là cái gì tồn tại riêng biệt mà đó

là sự hịa trộn khó phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái
tầm thường... Vậy nên mỗi chúng ta phải viết làm sao để chọn lựa cho
mình cái phù hợp nhất với cuộc sống của mỗi người. Vũ Bằng đã chọn
cho mình một con đường đi đầy những gấp khúc, gập ghềnh, ơng hịa
chung với cái xấu để “khai quật” cái đẹp. Và rồi trong những điều tưởng


×