ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
TRƯƠNG THỊ HIỀN
Yếu tố tiên tri kỳ diệu trong tiểu thuyết “Người
Mỹ trầm lặng” của Graham Greene
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đã được biết đến nước Mỹ với một nền kinh tế chính trị lớn
vào hàng bậc nhất thế giới. Không những thế, nước Mỹ luôn được biết đến
bởi con người hấp dẫn, lịch thiệp, nhưng đến bất cứ đâu cũng có mục đích
thầm kín. Và gần như thuật ngữ “người Mỹ trầm lặng” đã trở thành thuật
ngữ phổ biến biểu trưng cho tính cách và tinh thần đó của họ. Và những tính
cách và tinh thần đó đã hội tụ đầy đủ trong tiểu thuyết “Người Mĩ trầm
lặng” của Graham Green. Tiểu thuyết này đã in gần 500 triệu bản bằng
nhiều ngôn ngữ, được liệt vào một trong 37 cuốn sách chính trị - văn học
hàng đầu của thời đại.
Graham Greene là một tiểu thuyết gia lớn của văn học thế giới của thế kỷ
XX. Là một ký giả, có gắn bó nhiều đến các hoạt động tình báo, tiểu thuyết
của ơng có sức sống động kỳ lạ bởi các diễn biến của bố cục truyện có
những nét hiện thực của các biến cố nóng bỏng trên thế giới. “Người mỹ
trầm lặng” của Graham Greene là một tiểu thuyết như vậy. Đây là cuốn tiểu
thuyết chính luận - trữ tình, vừa tái hiện chân thực bối cảnh Việt Nam những
năm 1950 - 1960 của thế kỷ trước, vừa thể hiện được thái độ phản đối Mỹ,
chống chiến tranh, nói lên sự bất lực của tôn giáo trước những cuộc chiến
của con người. Điều đặc biệt Graham Greene đã tiên đoán được sự thất bại
của cuộc chiến tranh mà “người đồng minh” của ông đã tiến hành với tất cả
sự tàn bạo của nó.
Là một tiểu thuyết viết về chiến tranh của một người Anh – một người
châu Âu ở bên kia chiến tuyến của chúng ta. Nhưng Greene đã dũng cảm
phủ nhận ngay chính mình. Ơng đã dám tơn trọng sự thật và không bẻ cong
ngòi bút ngay từ đầu đặt chân đến Việt Nam , ơng đã nhận ra từ trong sâu xa
của lịng mình sự đồng cảm lớn lao đối với nhân dân Việt Nam.... Tình cảm
chân thật ấy đã giúp cho những trang viết của Greene lung linh vẻ đẹp về
một dân tộc thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nơ lệ như dân tộc Việt
Nam... Tình u đất nước – yêu con người Việt Nam của những người ngoại
quốc thiện chí đó là điều thật đáng trân trọng. Hãy đến và yêu nơi này,
nhưng hãy tôn trọng quyền tự quyết của họ... đó là thơng điệp mà tác giả gửi
cho thế giới
Càng có độ lùi về thời gian, khi chiến tranh đã thực sự rời xa, những lời
tiên tri của Graham Greene càng được sáng tỏ và càng được nhân loại nhìn
nhận và biết ơn. Tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng” chứa đựng những yếu tố
tiên tri, những điều có thể biết trước được, báo trước được thế trận của cuộc
chiến tranh ở Việt Nam hiện tại và về sau. Và rồi, lời tiên tri của ông đã dần
dần trở thành hiện thực. Chính sự linh nghiệm của yếu tố tiên tri trong tác
phẩm đã làm cho nó trở nên kỳ diệu hơn, đáng tin cậy hơn.
Tiểu thuyết đã hấp dẫn người đọc ngay từ đầu với thế giới nhân vật
sinh động, cách dẫn dắt câu chuyện mới lạ, hấp dẫn. Và có thể khẳng định
một điều rằng, chính đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết này là “mang tính tiên
tri kỳ diệu” chính yếu tố tiên tri này đã thực sự hấp dẫn và thu hút người đọc
cho nên chúng tôi muốn tiếp cận sâu hơn về tác phẩm. Đồng thời, cũng là
tìm hiểu các phương thức nghệ thuật mà nhà văn Graham Greene dùng để
tạo nên yếu tố tiên tri trong tác phẩm của mình. Cũng như để hiểu rõ về đặc
điểm này để từ đó thấy được tâm hồn và tài năng của Graham Greene đó là
lý do vì sao chúng tơi đến với đề tài “ Yếu tố tiên tri kỳ diệu trong tiểu thuyết
“Người Mỹ trầm lặng” của Graham Greene” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
“Người mỹ trầm lặng” (The Quet American, 1955) là cuốn tiểu thuyết
được viết bởi tác giả người Anh - Graham Greene. Cuốn sách được dựng
thành phim 2 lần, năm 1958 và 2002. Graham Greene là tiểu thuyết gia
người Anh, ông là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Mỹ thế kỷ
XX. Vì vậy đã có khá nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu nước ngồi về
Graham Greene cũng như tiểu thuyết “Người mỹ trầm lặng” đã được các
dịch giả Việt Nam dịch, phần lớn đăng trên báo mạng.
- Phạm Tồn (dịch), Graham Greene cịn tỏa bóng “Điểm nổi bật nhất của
tiểu thuyết và của bộ phim là sự phát hiện một mưu đồ, tiên đoán một thế
cuộc tương lai, cảnh báo ngay từ buổi đầu về sự dính líu ngày càng sâu
rộng của Mỹ vào bàn cờ chính trị ở VN sau này”(Theo Văn Hóa, 31/1), [14]
- Thu Hương, Thu Trang: Người Mỹ trầm lặng ra mắt tại Hà Nội “Người Mỹ
trầm lặng” được xếp vào loại “truyện nghiêm túc”, do G.Greene tự phân biệt
để chỉ “ loại truyện đi sâu vào tâm lý con người, khám phá bản chất của nó,
muốn xác định về mặt triết học thái độ và vị trí con người trong xã hội hiện
đại”.[13]
- Bàn về cuốn tiểu thuyết này, Hoàng Lại Giang – người viết lời giới thiệu
trong cuốn tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng”, Nxb Văn nghệ TP.Hồ Chí
Minh, (2000) nhận định rằng: “…Greene đã nhận ra sự phi nghĩa cuộc
chiến tranh của người Pháp…Và cũng từ suy nghĩ ấy ông đã tuyên đoán sự
thất bại của cuộc chiến tranh mà “người đông minh” của ông đang tiến
hành với tất cả sự tàn bạo của nó” [4, tr.5]. Kèm theo đó là những thắng lợi
to lớn và nhân dân Việt Nam giành được - đó cũng là giá trị cơ bản, giá trị
cuối cùng được rút ra từ tiểu thuyết này.
Tuy nhiên, đó chỉ là một nhận xét khái quát bước đầu, sơ đẳng về giá trị
của một cuốn tiểu thuyết ở một khía cạnh khác, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu cụ thể và đi sâu vào khai phá những giá trị to lớn của tác phẩm,
nhất là ở yếu tố tiên tri kỳ diệu trong tiểu thuyết.
Nhận thấy từ trước đến nay chưa có một cơng trình hay bài viết nào bàn
về yếu tố tiên tri trong tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng”. Vì vậy, chúng tơi
đã mạnh dạn đến với đề tài này và hi vọng đóng góp chút cơng sức nhỏ bé
của mình vào cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng”
nói riêng và về tác giả Graham Greene nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố tiên tri kỳ
diệu trong tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene.
- Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian và năng lực có hạn nên với đề
tài này, chúng tơi chỉ đi sâu vào tìm hiểu yếu tố tiên tri kỳ diệu trong tiểu
thuyết “Người Mỹ trầm lặng” của Graham Greene, Vũ Quốc Uy (dịch),
NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua việc tổng hợp các tài liệu nghiên
cứu, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá khách quan nhằm làm nổi bật
yếu tố tiên tri kỳ diệu, những lời dự báo, tiên đoán trong tiểu thuyết “Người
Mỹ trầm lặng” của Graham Greene.
+ Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại
những khía cạnh nổi bật nhất về lời dự báo, tiên đoán kỳ diệu trong tiểu
thuyết nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp lịch sử nhằm liên hệ với
hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, để có thể hiểu rõ và có
hướng phân tích đúng hơn, về yếu tố tiên tri kỳ diệu trong tiểu thuyết này.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của chúng tôi bao gồm
những chương chính sau:
Chương Một: Graham Greene và tiểu thuyết “ Người Mỹ trầm lặng”
Chương Hai: Những dự báo về cuộc chiến tranh của Mỹ trong tiểu thuyết
“ Người Mỹ trầm lặng” của Graham Green
Chương Ba: Phương thức nghệ thuật trong tiểu thuyết “ Người Mỹ trầm
lặng”
- Cuối cùng là mục tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
Chương Một : Graham Greene và tiểu thuyết
“ Người Mỹ trầm lặng”
1.1 Quan niệm về vấn đề tiên tri trong tiểu thuyết
Trước hết, phải khẳng định rằng, tiên tri là hiện tượng tâm linh của con
người. Nó thể hiện mối “thần giao cách cảm” mà con người cảm nhận được
về thế giới mà họ đang sống. Theo Kinh Thánh, tiên tri là người đoán trước
tương lai, một người mà nói trước những biến cố xảy ra trong tương lai,
thường được gọi là “nhà tuyên sấm”. Từ “tiên tri” (prophet) bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp (“προφήτης” có nghĩa là “tiên đốn”), mang ý nghĩa chỉ những
người phát ngơn thay mặt một người khác.[ 14 ]
Trong văn học, chúng ta đã bắt gặp nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề
“tiên tri” và xuất hiện phần lớn trong các tác phẩm văn học hiện thực của
một số nhà văn Pháp như: BanZắc với tác phẩm Miếng da lừa, nhà văn
Đickin với tác phẩm Người báo hiệu, rồi của Xtăngđan với Đỏ và đen. Và
giờ đây đến với văn học Mỹ ta lại bắt gặp yếu tố tiên tri trong tác phẩm
“Người Mỹ trầm lặng” của Graham Greene.
Và cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa duy nhất nào dùng chung
cho khái niệm về lời tiên tri được ra mắt bạn đọc. Nhưng từ trước, đã có
nhiều định nghĩa xuất hiện và được bạn đọc chấp nhận như:
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm xuất
bản năm 1997 cho rằng: Tiên tri nghĩa là biết trước những việc chưa xảy ra
[11, tr.765].
Còn theo cuốn Từ điển Hán - Việt của Khổng Tử, Long Cương, Đạt Sĩ
xuất bản năm 2002 cho rằng: Tiên là trước, sớm. Tri là biết. Như vậy, tiên tri
có nghĩa là : biết trước, biết sớm những điều sẽ xảy ra.[3, tr.152]
Như vậy, ta có thể hiểu một cách ngắn gọn rằng, Tiên tri có nghĩa là:
Biết trước được những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Có khả năng đốn biết
được mọi việc sẽ xảy ra.
1.2 Graham Green – tác giả viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất
Hơn 30 năm qua đi, chiến tranh đã có độ lùi về thời gian nhưng hậu
quả cũng như những dư âm của nó để lại trong tâm trí những người Việt
Nam và cả bạn bè quốc tế vẫn còn đọng mãi. Chiến tranh kết thúc, chiến
thắng thuộc về chúng ta đó là một điều tất yếu bởi lẽ đó là một quá trình đấu
tranh lâu dài kiên trì và bền bỉ của dân tộc ta trước các thế lực xâm lược. Với
cuộc chiến tranh này, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của bạn
bè quốc tế không chỉ về vật chất mà cả về tinh thần. Dù họ không phải là
người Việt Nam, cũng không phải là bạn đồng minh với nhân dân Việt Nam
nhưng một trong số ít họ đã gắn bó và có tình cảm đặc biệt đối với nhân dân
Việt Nam. Và nhà văn yêu quý của chúng ta - Graham Greene là một người
như vậy .
Nhà văn Graham Henry Greene, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1904 – mất
ngày 3 tháng 4 năm 1991, là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại
Berkhamsted, Hertfordshire – nước Anh. Ông đã từng làm việc cho nhiều tờ
báo, trong đó có tờ The Times nổi tiếng của London (giai đoạn 1926-1929 )
rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho
tờ Spectator, và đến năm 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời
gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi.
Vào Chiến tranh thế giới thứ Hai, ơng là một nhân viên tình báo Anh (MI 6) và phải thường xuyên di chuyển đến những nơi xa xôi và nguy hiểm. Sau
chiến tranh, Greene làm nghề phóng viên tự do, viết tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch và sách du ký [14].
Graham Greene có một thời niên thiếu khơng hạnh phúc, đó cũng
chính là điều đã tạo nên sự cân bằng vơ cùng bổ ích cho ơng. Tuổi thơ của
ơng là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại
là chính người cha của mình, một người cha khắc nghiệt. Cho nên, đã nhiều
lần vì q bất mẫn với cha mình, ơng đã tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên
nhưng cuộc đời không dễ dàng để ông ra đi như vậy. Và rồi sau đó ơng bị
trầm cảm nặng nhưng rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia
tâm thần học chữa bệnh cho mình. Graham Greene sống nội tâm và hơi lập
dị, ông không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời gian đọc tiểu
thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R.M. Ballantyne...
Chính những câu chuyện này đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Graham Greene
và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình.
Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc
loại “giải trí” hành động, như truyện gián điệp. Sau đó, ơng mới chuyển qua
thể loại “tiểu
thuyết”, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết The quiet
American (Người Mỹ trầm lặng). Graham Greene có xu hướng viết về
những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của
ơng có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều
nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới
những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Ơng là người có
quan điểm chống Mỹ kịch liệt. Trong số những tác phẩm của Graham
Greene được đọc rộng rãi có Stamboul train, A gun for sale, Our man in
Havana và The third man (đã được dựng thành một bộ phim nổi tiếng).
Song bản thân Greene thích những kiểu phản ánh sự quan tâm sâu sắc của
ông đến tôn giáo và những vấn đề đạo đức, gồm: Brighton rock, The power
and the glory, The end of the affair, The heart of the matter, A burnt out case
và The human factor. Có lẽ do đi nhiều, biết nhiều, chứng kiến những nỗi
đau khổ của những dân tộc bị mất nước, bị đàn áp ở những vùng đất ông đã
qua nên Graham Greene ln thấu hiểu và có sự đồng cảm với những đất
nước đang bị những cuộc chiến tranh phi nghĩa giày xéo. Đó phải chăng
cũng là một lý do khiến nhà văn viết nên tiểu thuyết “Người Mỹ trầm
lặng”.
Giới văn học Anh có nhiều tài năng, nhưng hiếm có nhà văn nào biết
tiết chế nguồn tư liệu chan chứa trong mình như Graham Greene. Những tác
phẩm tiêu biểu của ơng như: The Heart Of The Matter, The Power and The
Glory, Brighton Rock và The End Of The Affair đều bộc lộ rõ cuộc vật lộn
tinh thần của con người giữa trần thế và tâm linh. Graham Greene thường
giới hạn mình chỉ viết 500 chữ mỗi ngày và thực hiện nguyên tắc này
nghiêm ngặt đến mức bỏ dở cả câu viết khi hết “quota”. Dẫu vậy nhưng
trong cuộc đời sáng tác gần 87 năm của mình, Graham Greene cũng xuất
bản gần 100 cuốn sách, nhiều vở kịch, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình phim
và kịch bản. Và nếu như Graham Greene còn sống cho tới những năm gần
đây của thế kỷ này thì chắc chắn Graham Greene sẽ là một trong số ít người
phản đối quyết liệt cuộc chiến khốc liệt của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn
tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam: “Đây không chỉ là việc
làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...” [14]. Graham Greene nói
như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ơng cịn chỉ trích về chính
sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Graham Greene từng nói
rằng, nhiệm vụ của ơng là mơ tả “nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi
khi theo quan điểm chính trị”.[14]. Đọc sách của ơng, độc giả nhận thấy
phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ơng bộc lộ những xung đột giữa
lịng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và
đạo đức. Tác phẩm cuối cùng của Graham Greene là “ A dream
diary “(1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác
giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24
năm. Và vào năm 1981Graham Greene được trao Giải Jerusalem .[14]
Bản chất của Graham Greene vốn là một là người trầm lặng, kín đáo
nhưng lại có cuộc sống riêng rối như tơ vị. Có lẽ với vẻ lãng tử của một
người đàn ông bản lĩnh, với bản chất công việc phải đi nhiều và viết viết
nhiều, đi đến đâu Graham Greene cũng có những mối tình của mình. Là nhà
văn Anh nổi tiếng, tác giả “Người Mỹ trầm lặng” đã có hàng tá cuộc tình,
từ dài hạn lẫn qua đêm. Ơng đã trắng trợn ngồi liệt kê mình đã có 1 vợ, 4
người tình và 47 gái mại dâm. Ơng tự nhận mình là “một người chồng tồi và
người u khơng kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú
đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Về cuối đời, Graham Greene
dành nhiều tâm trí và sinh lực để “phịng thủ” kẻ thù lớn nhất của mình là sự
buồn chán. Thậm chí để thử trị may rủi với cuộc đời mình với một viên đạn
đã được nạp sẵn trong súng. Người ta kể lại, vài năm trước khi qua đời
(tháng 4/1991) ở tuổi 86, khách đến nhà ln thấy Greene cầm trong tay nửa
ly rượu Vodka. Ơng giải thích một cách “ranh mãnh” rằng: “Bác sĩ khun
tơi chỉ nên uống 1 ly/ngày, và nó đây...”. Nhiều người thấy bất bình bởi
Graham Greene khơng hề được trao giải Nobel Văn học, mặc dù nhiều lần
được đề cử. Họ đổ lỗi cho sức ép từ Mỹ, đất nước từng bị ơng chỉ trích về
chính sách đối ngoại. Nhưng con gái ơng, bà Caroline Bourget, nói: “Tơi
nghĩ, cha tơi chẳng hề bận tâm tới điều đó”.[14]
Có thể nói trong thế kỷ XX, khơng nhà văn nào có được những nhìn
nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với
con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức
tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Graham Greene là bậc thầy
trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ơng tồn tại trong hệ
thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng....Với thành cơng đó, nhà văn nào
cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp
dẫn như Graham Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà
ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong
mình.
Đọc “Người Mỹ trầm lặng”, chúng ta rất dễ dàng nhận ra tình cảm mà
nhà văn dành cho Việt Nam, một thứ tình cảm đặc biệt mà hiếm có một
người ngoại quốc nào có được tuy thứ tình cảm đó không phô trương, bày vẽ
nhưng hết sức chân thật. Tuy khơng có nguồn gốc, nịi giống Việt Nam thế
nhưng đối với nhà văn người Anh này, Việt Nam trở thành mảnh đất hứa
hẹn của tình u, của cơng việc, đã đi vào tâm hồn của nhà văn từ khi nào
không hay. Ngay chính bản thân nhà văn cũng khơng thể lí giải nổi điều đó.
“Tơi khơng biết điều gì đã làm tơi u Việt Nam, đó là giọng nói của người
phụ nữ có thể làm cho bạn mê mẩn. Đó là mọi thứ rất mãnh liệt, màu sắc,
hương vị, kể cả những giọt mưa…không giống như mưa lầy lội ở Ln Đơn.
Người ta nói rằng, những gì bạn muốn tìm, bạn sẽ tìm thấy ở đó. Họ nói
rằng khi bạn đến Việt Nam và bạn sẽ hiểu rất nhiều điều chỉ trong vài phút
nhưng phải sống mới hiểu hết những gì cịn lại. Điều đâu tiên bạn gặp sẽ là
mùi vị hứa hẹn mọi thứ sẽ thay đổi trong tâm hồn bạn. Và hơi nóng, bạn có
thể nhớ rõ tên mình hay bạn muốn trốn tránh điều gì. Nhưng vào buổi tối, ở
đó ln có những luồng gió nhẹ, dịng sơng rất đẹp. Bạn có thể được thứ lối
khi nghĩ nơi đó khơng có chiến tranh và đan pháo là pháo bơng …”.[12,
tr.26]. Đúng như những gì mà ơng đã tâm sự. Nhà văn – nhà báo người Anh
này đã có những tình cảm gắn bó kỳ lạ đối với đất nước Việt Nam, con
người Việt Nam. Ông căm ghét chiến tranh, khơng đồng tình với sự áp bức
của Pháp và Mỹ đã đặt lên Việt Nam.
Graham Greene là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày
càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận
thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là
một nhà văn chính trị. Với “Người Mỹ trầm lặng”, ngồi Greene, “khơng ai
có thể đưa được câu chuyện về cuộc chiến thấm đẫm nước mắt ở Đông
Dương vào tiểu thuyết, mà tạo nên ảnh hưởng lớn mang tính vấn đề như
ơng” [13]. Graham Greene được coi là nhà văn nước ngoài viết về chiến
tranh Việt Nam ấn tượng nhất.
1.3 “Người mỹ trầm lặng” – là tiểu thuyết về cuộc phiêu lưu, câu chuyện
hay về chiến tranh
Câu chuyện xảy ra tại Sài Gòn năm 1952, trong bối cảnh Việt Nam đang
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Để đương đầu với phong
trào quốc tế cộng sản đang phát triển mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế chiến
thứ hai, đặc biệt là sau sự ra đời của Nhà nước Trung Hoa (1949), các thế
lực quân sự và chính trị Mỹ đã câu kết với Pháp tìm mọi cách đẩy mạnh
phong trào chống Cộng. Mọi chiêu bài viện trợ kinh tế thực chất là che đậy
âm mưu khủng bố và thơn tính cả về chính trị lẫn quân sự của Mỹ. Đọc tiểu
thuyết này chúng ta có thể hình dung xã hội và con người Việt Nam những
năm 50 dưới con mắt của một nhà văn được chứng kiến tận mắt chiến tranh
tại đất nước cách xa Mỹ hàng vạn dặm. Nhà văn Graham Green đã lưu lại
khách sạn Metropole trong lần đầu tiên đến Hà Nội vào năm 1951 để viết
cuốn sách về chiến tranh Việt Nam và câu chuyện tình tay ba giữa cơ gái tên
Phượng với một ký giả người Anh và một nhân viên Viện trợ kinh tế Hoa
Kỳ, hai nhân vật này cùng sống ở Sài Gịn năm 1952. Cuộc tình rối rắm
được mô tả một cách chân thực, đầy uẩn khúc, bí ẩn khiến người ta liên
tưởng đến những mối tình rối như tơ vị trong cuộc đời nhà văn.
Mở đầu tiểu thuyết là cái chết của Pailơ, nhân vật xuất hiện qua hồi ức
của Phulơ, nhà báo người Anh, là người kể chuyện. Câu chuyện là sự đan
xen giữa quá khứ, hiện tại, giữa tình yêu tay ba của Phulơ với một cô gái
người Việt Nam, sự giằng co trong tình yêu của Pailơ, cùng cái nhìn sắc sảo
với thời cuộc… Cô gái Việt Nam tên Phượng – nhân vật chính của câu
chuyện đã được miêu tả với những tình cảm trân trọng. Có thể nói “Người
Mỹ trầm lặng” là một tiểu thuyết chính trị, trên nền một chuyện tình tay ba
vừa mang tính tâm lý, lãng mạn vừa mang tính chất biểu tượng. Về khía
cạnh chính trị, những gì được đề cập đến trong tiểu thuyết đều mang tính
hiện thực khách quan, khơng hề bịa đặt thêm bớt. Như đạo diễn Philiip
Noyce khi chuyển thể tiểu thuyết này thành phim đã nói: “Chưa có một bộ
phim nào từ trước tới nay cắt nghĩa nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt
Nam đầy đủ như trong tiểu thuyết của Graham Greene”. [13]
Tiểu thuyết đã bộc lộ được quan điểm rõ ràng của từng nhân vật cũng
như bộc lộ rõ quan điểm thái độ của tác giả. Các nhân vật ở đây có sự giằng
xé nội tâm dữ dội, quanh quẩn trong tam giác của tình yêu và qua sự giằng
xé nội tâm của mỗi nhân vật đã thể hiện được cá tính của mình một cách
mạnh mẽ. Phulơ một nhà báo luôn đặt sự thật lên trên hết, coi trọng sự thật
nhưng đã có lúc đã phải lừa dối Phượng (nói dối rằng vợ mình đã đồng ý ly
dị) để khỏi mất cơ vào tay Pailơ. Cịn Pailơ với tính cách hồn nhiên thẳng
thắn đã lặn lội qua bao nhiêu nguy hiểm ra tận Phát Diệm để thú nhận với
Phulơ về tình yêu của mình dành cho Phượng. Cả Phulơ và Pailơ – người
thừa hành mọi âm mưu của Mỹ tại miền Nam đều si mê cô. Phượng gắn với
hình tượng con chim phượng hồng, một lồi chim vốn đẹp và cao quý
nhưng lại rất tội nghiệp. Phulơ yêu Phượng, tình yêu chu đáo và khá tế nhị
nhưng không thể cưới Phượng bởi vợ ông ở Anh không chịu ly hôn. Pailơ,
anh chàng người Mỹ trầm lặng, trẻ trung, thẳng thắn, sòng phẳng muốn cải
tạo Phượng, muốn đưa cơ về New Zeland sinh sống đàng hồng. Giữa Phulơ
và Pailơ có sự mâu thuẫn về tình u của Phượng và bất đồng về tư tưởng
chính trị. Phulơ phản đối chiến tranh dù không thể hiện bằng hành động
nhưng ông luôn có sự đồng cảm , thái độ của ơng tuy kín đáo nhưng vẫn tốt
lên sự cảm thơng sâu sắc đối với người dân Việt Nam - những nạn nhân của
các âm mưu chính trị ngầm.
Các sự kiện và bầu khơng khí căng thẳng của Sài Gịn đã được nhà
báo Anh - Phulơ phản ánh qua những bức ảnh và bài viết. Phulơ là một nhà
báo người Anh, ông sang Việt Nam làm phóng sự cho tờ báo Times của
Anh. Và khi sang Việt Nam, ông đã yêu mến và gắn bó với mảnh đất và con
người nơi đây từ khi nào khơng hay “Khơng biết điều gì đã làm tôi yêu Việt
Nam đến vậy”. Và Phulơ đã đem lịng u Phượng – một cơ gái Việt Nam
rất dịu dàng, hiền lành và xinh đẹp. Và cũng ở đây, ngay chính nơi này, ơng
đã gặp được Pailơ – một người Mỹ trầm lặng. Với ông, dù thế nào đi nữa
Pailơ là một người bạn tốt mà ông cùng hắn ta đã trải qua nhiều kỷ niệm và
hắn ta đã từng cứu ông.
Ngay từ lần đầu tiên gặp mặt, Phulơ đã nhận ra những điều lạ lẫm,
khả nghi ở con người này rồi. Chẳng hạn, khi kể về câu chuyện chiến tranh ở
Việt Nam, hắn nghe một cách say sưa, rồi hỏi vì sao Pháp thất bại, Đảng
Cộng Sản lại thắng, hắn tỏ ra rất quan tâm. Trong khi công việc của hắn là
sang Việt Nam nhằm viện trợ kinh tế, giúp chữa bệnh dịch về đau mắt hột.
Chính điều này đã làm Phulơ cảm thấy rằng, anh ta là một người phức tạp,
trái với vẻ ngoài tỏ ra vô tư, hiền lành của hắn đúng với vẻ của một “người
Mỹ trầm lặng”. Dần dần, Phulơ đã theo dõi những bước đi, những âm mưu
và hành động mờ ám của hắn. Thực ra, hắn đang câu kết với Mười và Tướng
Thế (những kẻ phản động, chống lại Cộng Sản, chống lại Pháp, muốn tách ra
một lưc lượng độc lập để trị vì đất nước) nhằm thực hiện một chương trình
viện trợ đó là người Mỹ cung cấp nguyên liệu cho họ làm bom - đó là thứ
chất làm mềm trong công thức nổ, mang tên Diolacton. Nhưng dưới danh
nghĩa, hắn ta giả vờ nói đó là một nguyên liệu dùng để làm gọng kính, phục
vụ cho cơng việc của hắn, cho cơn dịch bệnh đau mắt hột ở Việt Nam. Trong
mắt Phulơ, ơng nhìn Pailơ đâu cũng thấy âm mưu. Và ông biết trước được
những âm mưu, hành động đen tối của hắn. Và rồi, ông đã quyết định tiếp
tay cho người Việt minh giết chết hắn, quẳng hắn xuống sơng Sài Gịn. Và
rồi cái chết của Pailơ như chứng minh được một điều rằng lời tiên tri đã linh
nghiệm, đó là một cái chết tất yếu mà hắn phải hứng chịu và đó cũng là sự
thất bại tất yếu cho những âm mưu của Mỹ đối với Việt Nam ở giai đoạn
lịch sử tiếp theo. Pailơ đã thất bại cũng giống như tinh thần Mỹ đã sụp đổ.
Khái niệm về người Mỹ trầm lặng đã không đúng ở Việt Nam.
“Người Mỹ trầm lặng” là lời tiên tri của một nhà thiên tài, là câu chuyện
hay về chiến tranh bởi ông đã đưa ra được kết cục của cuộc chiến tranh, là
sự thất bại của Pháp và báo trước được những âm mưu và hành động mờ ám
của Mỹ, sự thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam. Và những lời tiên tri
của ông càng kỳ diệu hơn bởi sự thật lịch sử của cuộc chiến tranh của người
Pháp và Mỹ ở Việt Nam. Phải là một người rất u Việt Nam, có tấm lịng
với đất nước và con người Việt Nam thì nhà văn Graham Greene mới viết
nên một câu chuyện chiến tranh hay như vậy.
Chương Hai: Những dự báo về cuộc chiến tranh của Mỹ trong
tiểu thuyết “ Người Mỹ trầm lặng” của Graham Green
2.1 Lời tiên đoán về sự thất bại của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt
Nam
Bối cảnh của tiểu thuyết diễn ra ở Sài Gòn – Việt Nam trong những
năm 1950 khi mà ta vừa giành được thắng lợi trong chiến dịch Biên giới Thu
Đông và cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta sắp sửa kết thúc.
Câu chuyện kể về cuộc chiến tranh phi nghĩa của chế độ thực dân Pháp ở
nước ta đang vào những năm cuối của sự suy tàn, sụp đỗ với những thất bại
nặng nề về của cải vật chất cũng như tinh thần. Hơn lúc nào chết, với sự
chiến đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam, thực dân pháp đang rã rời
và khơng cịn sức để chống đỡ, thất bại đang đến thật gần với chúng. Sự thất
bại của chúng là một điều tất yếu và dường như đã được nhà báo Anh Phulơ dự báo một cách chính xác. Phulơ là một nhà báo chuyên về trang
chiến sự, với những hiểu biết của mình về thực tế của cuộc chiến phi nghĩa,
nhường như ông đã biết trước điều tất yếu sẽ xảy ra. Ơng tiên đốn cuộc
chiến tranh này phần thắng sẽ thuộc về người Việt Nam, thuộc về chính
nghĩa và chính bọn thực dân gây ra cuộc chiến tranh đau thương này sẽ phải
nhận lấy những thất bại thảm hại do chính chúng gây ra.
Ngay từ đầu, Phulơ đã có những nhận định rất đúng về cuộc chiến tranh
của người Pháp ở Việt Nam. Ông cho rằng với sự hùng hồn, tinh thần chiến
đấu của Việt Cộng đang ngày càng dâng cao như thế thì thực dân Pháp sẽ
biến khỏi Đông Dương vào một ngày không xa. Và rồi sự thật lịch sử đã
chứng minh cho điều đó. Có lẽ đây là một trong những yếu tố góp phần làm
nên điều kì diệu của yếu tố tiên tri trong tác phẩm. Ông đã bám sát thực tế và
phân tích tình hình qn Pháp ở Việt Nam. Khi nói chuyện với Pailơ – 32
tuổi – tùy viên của phái đoàn viện trợ kinh tế, quốc tịch Hoa Kỳ, ông tỏ vẻ
nắm rất rõ về tình hình qn Pháp và đốn chắc được những khó khăn, thất
bại mà qn Pháp sẽ gặp phải: “…Tơi bắt đầu nói và hắn nhìn tơi chăm chú
như một học trị ngoan. Tơi giải thích về tình hình phía Bắc – xứ Bắc Kì –
nơi mà hiện nay người Pháp đang cố bám lấy châu thổ sồng Hồng, nó gồm
cả Hà Nội và cái cảng độc nhất của miền Bắc ở Hải Phịng. Đó là nơi có
những cánh đồng lúa và khi gió về là lúc diễn ra cuộc chiến đấu hàng năm
để dành giật thóc gạo”[12, tr.30], ơng đi đến nhận định: “Đấy là tình hình
miền Bắc – người Pháp tội nghiệp có thể cầm cự được nếu người Trung Hoa
không giúp đỡ cho Việt Minh”[12, tr.30] và khẳng định: “Đây là một cuộc
chiến tranh giữa nơi rừng núi và rộng lầy, những nơi người ta lội nước đến
tận vai, và quân thù bỗng biến mất, chôn võ khí và khốc bộ áo nơng dân
vào người…Nhưng họ có thể chết mục giữa những tiện nghi đầy đủ trong sự
ẩm ướt của Hà Nội. Họ không thả bom xuống đó, trời cũng khơng hiểu tại
sao. Người ta có thể nói đó là một kiểu chiến tranh chính quy” [12, tr.30].
Đó là tình hình miền Bắc, cịn ở miền Nam “người Pháp kiểm sốt được
những đường giao thơng chính cho tới 7 giờ chiều, sau đó, họ kiểm sốt
được chịi canh, và một phần của các thành phố” [12, tr.31]. Điều đó đã
phản ánh được hiện thực của cuộc chiến tranh Pháp ở Việt Nam. Cuộc đọ
sức giữa Pháp với Việt Nam là một cuộc đọ sức không cân sức, cân tài. Một
bên được trang bị với vũ khí tối tân cịn một bên là hết sức thơ sơ và nghèo
nàn. Đó là sự đối lập rất cao: “Trong khi những người xe đạp đưa chúng ta
trên con đường ngoại ô dài tới cái thành phố Hoa kiều, một đoàn xe cơ giới
Pháp vượt lên, trên mỗi xe cơ giới có một khẩu đại bác vươn cổ lên như một
sĩ quan bất động và im lặng hệt một pho tượng bằng gỗ sau những chiếc tàu
dưới vòm trời đen sẫm, khum khum, nhẵn nhụi, giát đầy sao.”[12, tr.52].
Nhưng đổi lại thì thực dân Pháp đang yếu ớt chống trả và chúng đang cố
gắng bám lấy mảnh đất này trong bất lực trong từng hơi thở thoi thóp của
mình. Chúng đi từ thất bại này đến thất bại khác và chúng cố tình che dấu,
lấp liếm khi được báo chí hỏi về những thất bại đó, hịng xoay chuyển tình
hình chiến sự: “Đại chiến ở Tây Bắc Hà Nội. Người Pháp chiếm lại được
hai làng: Họ chưa hề thông báo đã mất hai làng đó. Phía Việt Minh thiệt hại
nặng . Người Pháp chưa có thì giờ tính những tổn thất của mình, nhưng một
vài tuần nữa, chúng ta sẽ có thơng báo thiệt hại đó.” [12, tr.48]. Rõ ràng
thực dân Pháp đang tránh nói đến những thất bại của chính mình, chúng
khơng dám nhìn vào sự thật mà cố tình nói đến những thất bại của Việt
Minh, trong khi đó sự thất bại và thiệt hại của chúng về người về của cũng
lên đến những con số không cùng. Phulơ đã quan sát và phân tích kỹ tình
hình, có những đoạn độc thoại nội tâm một mình sâu sắc. Dường như tất cả
đều có một sự sắp đặt sẵn từ trước. Tất cả những gì mà Phulơ nghĩ đến đều
chứa đựng một sự dự đoán chắc chắn về kết quả của cuộc chiến tranh giữa
Pháp với Việt Nam.
Trong những cuộc họp với giới báo chí chúng giả dối đưa ra những thơng
tin khơng có thật nhằm đưa lại niềm tin cho qn lính Pháp, nhằm lịe cả thế
giới, bịt tai mắt của những người u chuộng hịa bình trên tồn thế giới.
Chúng sợ hãi khi nghĩ đến những thiệt hại và thất bại của mình, khi đưa ra
những con số giả dối. “Đại tá thông báo rằng quân địch đã chịu một cuộc
thất trận lớn và số thiệt hại của chúng ngang bằng một tiểu đoàn. Những
phân đội cuối cùng hiện nay đang dùng những bè mảng vượt qua sông
Hồng. Máy bay của chúng tôi liên tiếp đánh vào chúng” [12, tr.97]. Chúng
nói láo một cách trắng trợn như vậy nhưng khi được hỏi lại: “Sự thiệt hại
của phía quân Pháp là bao nhiêu?” [12, tr.97] Thì chúng lại trả lời một cách
chung chung, phải chăng chúng sợ phải nói ra sự thật khi chúng là một nước
thực dân giàu mạnh, với đầy đủ khí giới hiện đại đi khai phá một nước thuộc
địa nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu. Phải chăng những con người nhỏ bé của đất
nước này đã làm cho chúng phải hoang mang, lo sợ ? Bao giờ câu hỏi về sự
thiệt hại của chúng cũng gây ra một sự náo nhiệt và làm cho chúng phải vả
cả mồ hơi, cố tìm cách để trả lời. Viên đại tá đại diện cho thực dân Pháp
càng khốn đốn hơn khi Grăngô (một nhà báo Mỹ) đánh cho tơi tả với câu
hỏi: “Đại tá nói có nghiêm túc khơng, khi ơng có thì giờ đếm xác chết của
phía địch, mà khơng có thì giờ đếm xác chết của mình?” [12, tr.97]. Viên
đại tá tìm cách chống chế, tuy biết rằng sẽ đổ nhào bởi một câu hỏi khác, các
nhà báo Pháp thì ủ rũ và im lặng. Đại tá nói rằng: “địch rút lui một cách hổn
loạn. Có thể đếm những tử thi sau tuyến lửa, nhưng trong khi cuộc chiến
đang diễn ra thì khơng thể chờ cho các đơn vị quân Pháp đang tiến công
phải gữi những con số báo về” [12, tr.98]. Thật vơ lý, khi chúng có thời gian
đếm số thiệt hại của Việt Minh nhưng lại không đủ thời gian để đếm số thiệt
hại của chính mình ? Những câu trả lời giả dối mang tính chất đối phó, lấp
liếm của viên đại tá càng lúc càng kích thích giới báo chí và làm trở thành
những câu nói khơi hài thì đúng hơn. Viên đại tá thừa biết nhưng hắn không
chấp nhận sự thật, không chấp nhận thách thức, không thể cơng bố thiệt hại
vì xét cho cùng đây là cuộc chiến tranh của người Pháp. Viên đại tá nổi xung
và nói tuột ra là “số tử vong của quân Pháp là một đổi ba” [12, tr.98]. Và
người Pháp chưa biết nên làm gì để đối phó tình hình lúc này... những người
Pháp có mặt trong cuộc họp báo thì buồn rầu với vẻ cam chịu, lắng nghe
giọng nói như điên như dại của viên đại tá.
Người của Việt Minh đã liên tiếp tấn công vào quân Pháp và giành
thắng lợi, dồn quân thù vào thế bị động. “Không ai để ý đến những người
của Việt Minh đã trà trộn vào đám rước, đến tiểu đoàn quân chủ lực của
Cộng Sản vượt qua các đèo của dãy núi đá vôi đột nhập vào đồng bằng,
dưới mắt của những tốp quân Pháp bất lực gác ở các đồn điền tiêu đặt trên
núi: Đêm hơm đó, lính trinh sát của Việt Minh đã đánh vào Phát Diệm” [12,
tr.70]. Để rồi trước sự tấn công ồ ạt của Việt Minh quân Pháp phải trong tâm
thế thấp thỏm lo âu, luôn ở thế bị động và cô lập. “Nếu Việt Minh tấn công
họ thì tình hình sẽ ra sao?- Pailơ hỏi.
- Họ bắn một phát rồi chuồn. Ngày nào người ta chẳng đọc được những
tin này trên tờ “Viễn Đơng”: “Phía Tây Nam Sài Gòn, một bốt gác đêm
qua đã bị Việt Minh tạm chiếm”[12, tr.144].
Rõ ràng, chiến sự đang nghiêng về Việt minh, quân ta luôn giành thế
chủ động, dồn quân địch vào thế bị động. Nhà văn luôn quan tâm đến sự
tương quan lực lượng giữa hai phía Việt Nam và Pháp. Hiện thực của cuộc
chiến tranh đã giúp nhà văn đoán được rằng chiến thắng chắc hẳn sẽ nghiêng
về nhân dân Việt Nam. Việt Minh luôn dồn quân địch vào thế áp đảo và đạt
được mục đích đặt ra khiến cho quân địch phải chạy trốn trong sự hoang
mang đến tột độ “có lẽ một đội tuần tra hay là qn Việt Minh hồn thành
mục đích hạ ba chiếc tháp canh như thường lệ. Tiếng súng trùm lấy tiếng
chân chạy trốn chầm chậm và ngượng ngịu của chúng tôi” [12, tr.174].
Sự thực của cục diện chiến tranh lúc này đang đẩy Pháp vào bế tắc và
đứng trước vơ vàn khó khăn, chúng phải cầu viện những thế lực từ bên ngồi
: “Ơi, những người Pháp lúc nào cũng ca cẩm, khi nào cũng ngửa tay xin”
[12, tr.101]. Và “Tướng Đờ Cát đang ngắc ngoải ở Pari, người Pháp sắp
tháo chạy khỏi Hịa Bình, miền Bắc Việt Nam chưa bao giờ đứng trước một
nguy cơ lớn như vậy” [12, tr.107]. Cả bộ máy quân đội Pháp đang rã rời ,
suy sụp từng mảng, đó là sự hèn nhát , sự sợ hãi của qn lính Pháp được thể
hiện rõ qua hình ảnh hai người lính Pháp (họ là người Việt) ở tháp canh, khi
Phulơ và Pailơ vào mà họ cũng sợ đến phát run và vứt cả súng quên cả
nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của một người lính là dù cịn một chút hơi thở
cuối cùng thì cũng phải tiếp tục chiến đấu, khơng được bng cây súng của
mình một cách dễ dàng. Nhưng những người lính Pháp ở đây lại bng súng
một cách dễ dàng với tinh thần hoang mang lo sợ. Khi lên tới tháp canh
Phulơ ra lệnh: “Đặt súng xuống” [12, tr.143] thì hai tên lính tn lệnh như
một cổ máy. Hai người lính sợ hãi đến phát điên lên, họ là những người Việt
Nam đi lính vì chúng bắt họ phải đi, vì miếng cơm manh áo, họ khơng thiết
tha gì với cuộc chiến này. Những người lính bình thản chấp nhận việc bị
tước mất súng: “Một người chúc súng xuống rồi để ngang đùi. Người kia
ngã hẳn vào tường, nhắm mắt như lúc còn bé, khi nhắm mắt thì tưởng như
khơng ai thấy mình. Có lẽ anh ta bằng lịng vì đã hết trách nhiệm” [12,
tr.155]. Sự đầu hàng vơ điều kiện của hai người lính Pháp là dáng vẻ thấp
thoáng trong một tương lai rất gần của thực dân Pháp.
Qua những trang viết chân thật, không hề tránh né một điều gì, nhà văn
đã đưa đến cho bạn đọc thấy được hiện thực lịch sử của cuộc chiến tranh ở
Việt Nam trong những năm giữa thế kỷ XX. Và ngay chính nhà văn Graham
Greene đã nhận ra được cuộc chiến tranh phi nghĩa của người Pháp mặc dù
lúc ấy ơng cịn dành cho người Pháp một sự cảm thơng nào đó. “Và cũng
chính từ suy nghĩ ấy, ơng đã tiên đốn được sự thất bại của cuộc chiến tranh
mà người bạn đồng minh của ông đã tiến hành với tất cả sự tàn bạo của nó”
[12, tr.5]. Sự thất bại của Pháp báo hiệu lời tiên tri đã linh nghiệm. Cuộc
chiến tranh Việt - Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt, là nhà báo nhiều
năm bám sát tình hình chiến sự Việt Nam, Phulơ đã thấy dấu hiệu bất lực
của quân đội Pháp trên chiến trường, trước sức mạnh không thể đảo ngược
của phong trào kháng chiến Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản,
ông linh cảm ngày người Pháp rời khỏi Đông Dương đến rất gần...Và điều
mà Phulơ tiên đoán đã trở thành sự thật, năm 1954 Pháp thất bại thảm hại ở
trận Điện Biên Phủ, Pháp hoàn tại thất bại tại chiến trường Việt Nam và
buộc phải rời khỏi Việt Nam. Sự thật là Pháp đã phải chuốc lấy sự thất bại
thảm hại ở Việt Nam. Một tên thực dân mưu mô xảo quyệt không thể chiến
thắng trước một dân tộc kiên cường, bất khuất như dân tộc Việt Nam. Và đó
cũng là kết quả tất yếu, quy luật khách quan cuộc sống con người “ ở đâu có
áp bức, ở đó có đấu tranh” (Lê- nin) và chiến thắng đương nhiên sẽ thuộc về
lẽ phải, thuộc về công lý.
2.2 Điềm báo trước về sự tham gia của Đế Quốc Mỹ vào chiến tranh ở
Việt Nam
Tình trạng của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam lúc này giống
như tình trạng của một người sắp chết đang cố gắng gượng vớt vát tất cả với
hơi thở cuối cùng. Tuyệt vọng, hắn cầu cứu đế quốc Mỹ. Tên này không đợi
lời mời đến hai lần, đã vồ ngay lấy cơ hội. Bởi vì hắn muốn biến Việt Nam
thành một “vành đai an toàn” chống Cộng sản. Và thế là chẳng bấy lâu sau,
chúng đang mưu đồ một âm mưu nhảy vào xâu xé Việt Nam. Pháp đang lâm
vào tình thế bế tắc, đang cố ngo ngoe những đòn cuối cùng dưới sự trợ giúp
của người bạn đồng minh – đế quốc Mỹ. Và đây là cơ hội ngàn vàng để Mỹ
nhảy vào chiến trường Đơng Dương. Đó là sự thật lịch sử, bối cảnh, tình
hình về các phe phái xâm chiếm Việt Nam trong những năm 1950. Và bối
cảnh lịch sử này càng được thể hiện rõ ràng hơn trong tiểu thuyết “Người
Mỹ trầm lặng”. Bản chất của một tên đế quốc sừng sỏ đã đến lúc không thể
che đậy được và tên thực dân Pháp kia đã thất bại nặng nề còn đế quốc Mỹ
tàn bạo lại đang nuôi dưỡng âm mưu thủ đoạn, hất cẳng Pháp ra khỏi Việt
Nam.
Ta có thể giả thuyết rằng: Ở một khía cạnh nào đó Phượng là hình ảnh
tượng trưng cho Việt Nam; Phulơ là hình ảnh của thực dân Pháp ; Pailơ là
hình của nước Mỹ hào nhống, bóng lộn. Thì có thể thấy được rằng: Phượng
là một cô gái trẻ trung xinh đẹp cũng giống như Việt Nam là mảnh đất màu
mỡ, một khúc xương thơm ngon khiến cho cả Phulơ và Pailơ, Pháp – Mỹ
đang tranh giành, xâu xé nhau. Và cuối cùng Phulơ đã thất bại trước Pailơ vì
sự già nua của mình cũng giống như nước Pháp già nua với chệ độ thực dân
của mình đã thất bại trước đế quốc Mỹ hùng mạnh. Hình ảnh Pailơ giành
được Phượng từ Phulơ, chính là hình ảnh Mỹ hất cẳng Pháp, chế độ thực dân
khơng cịn phù hợp nữa mà thay vào đó là một nước đế quốc giàu mạnh.
Có thể thấy rằng sự thất bại thảm hại của Pháp ở chiến trường Việt
Nam có sự góp sức khơng nhỏ của một thế lực đen tối, thế lực chưa ra mặt,
một thế lực với bộ mặt là trợ giúp Pháp chống lại Việt Minh. Một thế lực với
vẻ bên ngoài là giúp đỡ nhưng thực chất đang nhằm hất cẳng Pháp, nhảy vào
Việt Nam, xâu xé miếng đất nước nhỏ bé này. Phulơ gặp Pailơ khi ngồi
uống cà phê trên hè phố trước khách sạn Continental. Biết anh ta là bác sĩ
nhãn khoa, sang Việt Nam chữa bệnh mắt hột cho những người nông dân
nghèo khổ, Phulơ cảm mến chàng thanh niên lịch thiệp và đầy tâm huyết ấy.
Ấn tượng ban đầu khiến Phulơ tin tưởng giới thiệu Phượng với người bạn
Mỹ...
Đúng như tiêu đề của tác phẩm – “Người Mỹ trầm lặng”, Pailơ là một
con người như vậy. Hắn ta là một người Mỹ trầm lặng đích thực. Qua lời
giới thiệu về Pailơ của Phulơ cho Phượng nghe, hắn là người Mỹ, năm nay
32 tuổi, là tùy viên của phái đoàn viện trợ kinh tế, quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng
theo dõi những diễn biến của những hành động của Pailơ thì hồn tồn đối
lập với cái vỏ bọc bên ngồi sáng sủa, hào nhống nhưng bản chất bên trong
rất xấu xa và bỉ ổi. Những câu hỏi mà Phulơ hay chính là của nhà văn đặt ra
cũng đang là những thắc mắc lớn của công chúng bạn đọc: “ Nước này (Việt
Nam) đang nằm trong tay những sứ quân, y như một nước châu Âu thời
trung cổ vậy. Thế con người Hoa Kỳ, họ ở đây làm gì? Ơng Cơlơmbơ chư a
tìm ra lục địa của họ sao?” [12, tr.52]. Thật đúng như vậy, những con người
đến từ vùng xa xôi bên kia sang Việt Nam làm gì, trong khi Việt Nam đang
cịn nghèo nàn và lạc hậu như thế? Câu hỏi dường như đã có câu trả lời. Tất
nhiên rồi, cịn gì ngồi việc bóc lột thuộc địa, đàn áp và xâm chiếm Việt
Nam, muốn biến miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Và rồi Pailơ –
nhân vật trung tâm của câu chuyện – người Mỹ trầm lặng – người thừa hành
cho mọi âm mưu của Mỹ ở Việt Nam đã xuất hiện để thực hiện sứ mệnh ấy.
Pailơ theo lời kể của Phulơ khi Phượng hỏi thì hắn ta “làm việc ở phái đồn
thương mại Hoa Kỳ. Cơng việc của họ là thế này nhé, cấp những máy khâu
điện cho những thợ may đang chết đói”[12, tr.60].
Ngay từ đầu, tác giả đã có những lời giới thiệu khơng mấy tốt đẹp về
nhân vật này. Pailơ trong mắt độc giả đọc như có sự hồi nghi, uẩn khúc và
đã tỏ ra nghi ngờ về thái độ cư xử của hắn, chính điều này đã thu hút sự chú
ý của người đọc ngay từ đầu đến cuối tác phẩm. Lời đánh giá của Phulơ đã
phần nào bộc lộ được một phần bản chất trong con người hắn ta. “Hắn là
người khơng hình dung nổi nỗi đau hắn gây cho người khác” [12, tr.94].
Vậy, nỗi đau hắn gây ra là gì? Hắn đã làm gì có tội với nhân dân Việt Nam ?
Và rồi, câu trả lời đã rõ ràng, mọi âm mưu của hắn nhằm đàn áp và thơn tính
Việt Nam dần như đã rõ ràng. Pailơ làm việc trong những đội có ý nguyện
nhân đạo nhưng thực chất hắn lại có thái độ thờ ơ trước sự đau khổ của
người khác, hắn chẳng khác nào kẻ máu lạnh khi dửng dưng trước những cái
chết vơ tội. Hắn cho mình vơ tội trước những cái chết đó, đó chỉ là sự nhầm
lẫn. Đối với hắn, tất cả mọi chuyện sẽ tốt đẹp khi hắn thấy mình khơng có