Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Phong cách nghệ thuật thơ hàn mặc tử qua thơ điên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 64 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

LÊ MINH HIẾU

Phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử
qua Thơ điên

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Phong trào Thơ Mới xuất hiện vào những năm 30 của thế kỉ XX đã thực
sự làm nên một cuộc cách mạng thơ ca mạnh mẽ với nhiều tên tuổi đáng nhớ
như Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê, Chế Lan Viên…Và trong những con
người đã làm nên Thơ Mới đó có Hàn Mặc Tử, “một tài năng thơ ca lạ lùng,
phức tạp và đầy bí ẩn” [23, tr.5], người được mệnh danh là nhà thơ “cai trị
Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định” [23, tr.3] và cũng là một phong
cách, một diện mạo thơ mới lạ trong nền thi ca dân tộc.
Hàn Mặc Tử hiện ra trên thi đàn Việt Nam bằng thơ Đường luật nhưng
lại khẳng định tài năng ở địa hạt Thơ Mới. Hàn Mặc Tử là một hồn thơ độc
đáo và dị biệt. “Giống như ánh sáo băng gấp gáp, chạy đua với thời gian”, từ
Lệ Thanh thi tập qua Gái quê, đến Thơ điên, Xuân như ý, Thượng thanh khí


và cuối cùng là Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội,… thơ Hàn
Mặc Tử đã tung hoành từ vùng đất lãng mạn đến tượng trưng rồi men tới bờ
siêu thực.
Thơ điên “một nguồn thơ tân kỳ làm bằng máu, bằng hồn, bằng lệ với
tất cả say sưa, rung động của một người hoàn toàn đau khổ” [22, tr.10], là tập
thơ xuất sắc và độc đáo nhất trong cuộc đời sáng tác thi ca của Hàn Mặc Tử
đã tạo nên diện mạo, cá tính và phong cách thơ rất riêng của Hàn Mặc Tử.
Nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện và hệ thống những đặc sắc
nôi dung và nghệ thuật làm nên phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử qua
Thơ điên. Đồng thời góp phần một lần nữa khẳng định sự độc đáo của phong
cách thơ đậm chất siêu thực cũng như vị trí của nhà thơ trong thơ ca Việt
Nam hiện đại.


3

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hàn Mặc Tử, “nhà thơ lạ nhất của phong trào Thơ Mới” đã đi vào cõi
vĩnh hằng trên suốt 60 năm, nhưng cuộc đời và thơ ông, đặc biệt là tập Thơ
điên luôn là một đề tài được quan tâm trong đời sống văn nghệ hiện đại.
Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình và người u thích thơ với nhiều ý kiến đánh
giá, bình luận khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Phong cách nghệ thuật thơ Hàn
Mặc Tử qua Thơ điên”, chúng đã tập hợp được một số bài viết và các cơng
trình nghiên cứu liên quan.
Chế Lan Viên là người nghiên cứu khá sâu thơ Hàn Mặc Tử. Trong
cơng trình Hàn Mặc Tử, anh là ai ? Chế Lan Viên cho rằng Hàn Mặc Tử “Từ
một nhà thơ biến ngẫu theo lối phương Đông, anh đã hiện đại như những nhà
thơ hiện đại nhất Châu Âu” [1, tr.210].
Và theo Chế Lan Viên thì Hàn Mặc Tử. “chỉ có một, thật. Như một

Rimbaud của Pháp, một Holderlin của Đức, một Edgar Poe của Mỹ, một Bồ
Tùng Linh của Trung Quốc, một Maiakovsky trước cũng như sau cách mạng
tháng Mười của Liên Xô” [1, tr.211].
Tác giả Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh và Hoài Chân thực sự đã rất
nhạy cảm tinh tế khi đi vào thế giới thơ Hàn Mặc Tử. “Ngót một tháng trời tôi
đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch
bằng thơ Quần Tiên hội. Và tơi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mặc Tử nói
trong bài tựa Thơ điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ không bến
càng đi xa càng ớn lạnh” [22, tr.196].
Quách Tuấn trong bài viết Đôi nét về Hàn Mặc Tử, đã nhận định khái
quát về âm hưởng chủ đạo của phong cách nghệ thuật Hàn Mặc Tử qua Thơ
điên: “Đau thương tức tập Thơ điên phần nhiều chứa đựng những niềm đau
khổ, rối loạn…phát ra những khúc nhạc buồn thương, day dứt và tỏa ra một


4

bầu khơng khí ảm đạm của mùa đơng. Thơ trong tập này đi từ lãng mạn đến
tượng trưng” [14, tr.182].
Phan Cự Đệ đã hết mực ca ngợi tài năng của Hàn Mặc Tử. Theo ông:
“Trong khoảng trên chục năm trời hoạt động trên thi đàn, Hàn Mặc Tử đã đi
từ cổ điển, lãng mạn tiến nhanh sang tượng trưng, siêu thực góp một phần
quan trọng vào trong q trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam” [1, tr.237].
Đỗ Lai Thúy lại nhấn mạnh nét đặc sắc của thơ Hàn Mặc Tử so với các
thi sĩ cùng thời: “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thơng, Nguyễn
Bính là dịng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và nhất là Huy Cận là
dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng, Đinh Hùng, Bích
Khê chủ yếu là tượng trưng, thì Hàn Mặc Tử là sự hồ sắc của cả lãng mạn
lẫn tượng trưng, thậm chí siêu thực nữa” [6, tr.162].
Đỗ Lai Thúy cũng nhấn mạnh tư duy độc đáo của Hàn Mặc Tử qua Thơ

điên: “Với Nguyễn Trọng Trí, tín đồ Thiên Chúa giáo, đau thương là một
phương tiện cứu chuộc tội lỗi. Còn với Hàn Mặc Tử, nhà thơ, giải phẫu đau
thương là hành vi sáng tạo. Thơ Hàn Mặc Tử là kinh nghiệm đau thương.
“Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ hay nhất của ông là Đau thương: Hương
thơm là đau thương của khứu giác, Mật đắng là đau thương của vị giác, Máu
cuồng là đau thương của thân thể rỉ ra để biến thành những dòng chữ”
[6, tr.176-177].
Chu Văn Sơn trong cơng trình Hàn Mặc Tử - chàng thi sĩ khao khát cái
tột cùng đã khái quát được sự biến đổi không ngừng của cái Tôi trữ tình trong
thơ Hàn Mặc Tử: “Thơ Hàn Mặc Tử khi bước sang Đau thương đã có một
diện mạo khác hẳn. Cái tơi khao khát ái tình đắm mình trong nhục cảm, tưởng
tượng đã chuyển thành cái tôi đau thương, mang trong mình những giằng xé,
dằn vặt về thân phận. Cái tôi nguyên phiến bị phá vỡ nhiều mảnh với các thực
thể phản trái nhau: xác-hồn, máu-thơ…Và thiên nhiên ở đây cũng bị phá vỡ


5

thành những mảng đối chọi tương phản gay gắt: thiên đường trần gian, địa
ngục trần giới, ngoài kia thắm tươi, trong này u ám, thiên giới, trời sâu,...”
[6, tr.118-119].
Trong một cơng trình khác, Chu Văn Sơn đã đưa ra thêm một nhận xét
sát đáng về phong cách thơ Hàn Mặc Tử cũng như cái “lạ” của Thơ điên. Ông
khẳng định: “Có thể nói chính Thơ điên chứ khơng phải gì khác là phần đặc
sắc nhất đã làm nên cái “lạ” kia, làm nên tên tuổi và ngôi vị Hàn Mặc Tử”
[6, tr.134].
“Thơ điên không phải là một phát minh mới về thể loại. Nó vẫn thuộc
phạm trù Thơ mới, nhưng là một dạng thức Thơ mới đặc biệt. Nghĩa là bên
cạnh những đặc trưng của “lồi” Thơ mới, nó vẫn có những đặc trưng về
“giống” riêng” [6, tr.136].

Lê Thị Minh Giang với cơng trình Tìm hiểu tư tưởng thơ Hàn Mặc Tử
trong tập Đau thương đã nhận thấy trong Đau thương “một sắc thái đau
thương được dồn nén, cô đọng đến đậm đặc. Nhưng khơng chỉ có đau thương
(dẫu đó là cảm xúc chủ đạo) ngay trong môi trường của đau thương vẫn có
sắc điệu của hoan lạc” [6, tr.249-250].
Nói về khao khát sống tột cùng của Hàn Mặc Tử, tác giả này đã khẳng
định: “Ngay cái lúc nghĩ đến việc chia lìa trần gian, Tử vẫn tha thiết với cuộc
sống, với tình yêu, với hạnh phúc trần thế. Niềm tha thiết này cũng là một
phương cách cứu rỗi không kém” [6, tr.259].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Khung đã hoàn tồn có lý khi cho rằng:
“Trong tuyệt vọng cùng cực, linh hồn đau khổ ấy đã không rơi vào đọa lạc mà
vẫn có tìm về những biểu hiện sự sống con người, cố hướng với tình yêu quê
hương trong trẻo mộng ảo” [6, tr.260].
Nguyễn Tồn Thắng trong cơng trình Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình
Định đã có nhận định hết sức tinh tế về giọng điệu thơ chủ đạo của Hàn Mặc


6

Tử qua Thơ điên: “Trong thơ Hàn Mặc Tử, từ Thơ điên trở đi, nỗi đau thương
vò xé khiến giọng thơ là tiếng kêu của một linh hồn” đã “vui buồn giận hờn
đến gần đứt sự sống” (Quan niệm thơ). Hàn Mặc Tử khẳng định; Không rên
xiết là thơ vô nghĩa lý. Cho nên Đau thương là chủ âm của giọng điệu Thơ
điên Hàn Mặc Tử” [22, tr.284].
Như vậy, đề cập đến phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử qua Thơ
điên đã có nhiều cơng trình nghiên cứu song do nhiều lí do việc nghiên cứu
vẫn cịn dàn trải ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Cho đến nay, theo khảo sát của chúng tơi, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống về phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử qua
Thơ điên. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề này nếu được tiến hành thành công

sẽ không chỉ làm nổi rõ nét đặc sắc phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử
qua Thơ điên nói riêng, phong cách thơ Hàn Mặc Tử nói chung mà cịn khẳng
định thêm được tài năng, đóng góp và vị trí của Hàn Mặc Tử trong thơ ca Việt
Nam hiện đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biểu hiện đặc sắc của nội dung và hình thức nghệ thuật làm nên
phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử qua Thơ điên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử được in trong cuốn Hàn Mặc Tử thơ và
đời do Lữ Huy Nguyên sưu tầm và tuyển chọn, được Nhà xuất bản Văn học
ấn hành năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp khảo cứu, thống kê, phân loại:


7

Khảo cứu, thống kê, phân loại những biểu hiện của phong cách nghệ
thuật thơ Hàn Mặc Tử qua Thơ điên.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Qua việc khảo sát tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử, tìm ra những đặc sắc
nội dung và nghệ thuật của văn bản thơ, người viết sẽ đưa đến những kết luận
về những đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử qua Thơ điên.
4.3. Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh cũng được sử dụng như một tấm gương đối chiếu,
để thấy rõ nét sự tương đồng và cá biệt, nét riêng của Hàn Mặc Tử so với các
nhà thơ cùng thời. Nó cũng sẽ chỉ ra sự vận động và phát triển của chính bản
thân hồn thơ Hàn Mặc Tử qua Thơ điên.


5. Giới thuyết thuật ngữ :
5.1. Khái niệm Phong cách
Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm phong cách xuất hiện từ thời kỳ
Hy Lạp và La Mã cổ đại cùng với sự xuất hiện của khoa học về hùng biện.
Phong cách ngôn ngữ là sự kết hợp của hai nhân tố : “nói gì” và “nói như thế
nào”, có nghĩa đây là sự tổng hịa các phương tiện ngơn ngữ. Trong đó, “nói
gì” là phạm trù về nội dung và “nói như thế nào” là phạm trù về hình thức.
Lại Nguyên Ân coi: “Phong cách là những nét chung, tương đối bền
vững của hệ thống hình tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu
biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng
văn học, một nền văn học nào đó” [7, tr.212].
Cịn Đỗ Lai Th thì quan niệm “ Phong cách là cá tính của chủ thể
sáng tạo, và sự tự do lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ để thể hiện nó trong
tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy, là tất cả” [11, tr.334].


8

Như vậy, có thể thấy, dù được giải thích khác nhau nhưng phong cách
chính là nét riêng, là sự khu biệt, bản sắc của một cá nhân, một tác phẩm, hay
một thời đại.
5.2. Khái niệm Phong cách tác giả
Phong cách tác giả là nét riêng, nét độc đáo, nét ổn định tạo thành hệ
thống trong sáng tác của một tác giả. Tính độc đáo và tính ổn định thể hiện
trong tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, hình thức thể hiện làm nên phong cách
một nhà văn. Đó là cách nhìn, cách cảm, cách đánh giá, cách lựa chọn và cách
thể hiện các sự vật hiện tượng.
Phong cách tác giả chịu ảnh hưởng của yếu tố dân tộc - lịch sử - thời đại;
đồng thời còn là những nét riêng trong đời tư, các nhân tố gia đình, dịng tộc,
q hương... Tất cả những điều này đã chi phối, định hướng và tạo nét riêng

độc đáo không thể pha lẫn với ai trong phong cách của mỗi tác giả.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Hàn Mặc Tử - giọng thơ lạ của thơ ca lãng mạn Việt Nam 19301945
Chương 2: Thơ điên - sự độc đáo trong rung động, cảm tri thế giới
Chương 3: Thơ điên - sự sáng tạo trong phương thức biểu hiện của Hàn Mặc
Tử.


9

NỘI DUNG
Chương 1
HÀN MẶC TỬ
- GIỌNG THƠ LẠ CỦA THƠ CA LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 – 1945

1.1. Một số đặc điểm nổi bật của thơ lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945
1.1.1. Sự hòa trộn của nhiều khuynh hướng, trường phái thơ
Sự ảnh hưởng của văn hóa, văn học Phương Tây và những quy định
chật hẹp của Nho giáo khắt khe tồn tại trong lòng văn học Việt Nam đã tạo
nên cuộc xung đột giữa cái mới và cái cũ địi hỏi văn học phải có sự cách tân
và Thơ Mới ra đời như một tất yếu.
“Cuộc cách mạng trong thi ca” diễn ra trên văn đàn Việt Nam được
khởi phát từ bài viết Một lốt thơ mới bình chánh giữa làng thơ đăng trên Phụ
Nữ tân văn cùng bài thơ Tình già ngày 10/3/1932 của Phan Khơi. Từ đây,
“dòng thơ tân kỳ” đã ra đời phá vỡ thành trì kiên cố của văn học trung đại tồn
tại dai dẳng ở Việt Nam.
Tiếp sau Phụ nữ tân văn, các báo như Nam Phong, Phong Hóa, Nhật
Tân, Bạn Trẻ cũng đăng, cổ vũ và và bênh vực, khích lệ, ủng hộ các bài thơ

mới. Trong giai đoạn này, rất nhiều diễn giả đã lên tiếng ủng hộ Thơ Mới
(Nguyễn Thị Kiêm, Lưu Trọng Lư, Đỗ Đình Vượng, Trương Tửu…).
Sự ra đời của Thơ Mới là hợp lý và cần thiết. Tản Đà khẳng định:
“Nhân thế càng biết phải tìm thêm điệu mới thực sự là cần thiết trong việc
văn. Duy đã gọi là văn vần và phải có điệu. Đã gọi là điệu mới mà mình lập
lấy ra được cũng khó, cho nên có thể tìm kiếm ở những văn ngoại quốc. Ở


10

văn Pháp, chắc nhiều điệu có thể bắt chước mà lấy cho văn ta, cái công giảng
luyện như sao là phần của các nhà văn về phái mới Tây học vậy” [3, tr. 41].
Được xem là “cuộc cách mạng tân kỳ” của thơ ca Việt Nam, Thơ Mới
đã đem lại cho thơ ca một tinh khí mới giữa lúc thơ cũ đang chết khơ trong
xiềng xích của niêm luật. Sự tiếp biến và giao lưu với nền văn học phương
Tây đã đem lại cho Thơ Mới những màu sắc riêng biệt, đậm đà và thú vị hơn,
giúp nó phá tan những khn khổ chật hẹp, những quy tắc gị bó để mở đường
cho những cảm hứng thăng hoa phát xuất từ những nhịp điệu con tim đang
thao thức, khao khát sống mãnh liệt.
Sự ra đời của Thơ Mới “vơ tình” bỏ quên những quy luật, khuôn phép
của thơ cũ để đem lại nhiều khuynh hướng đa dạng và phong phú hơn. Trong
quá trình hình thành và phát triển, Thơ Mới chịu ảnh hưởng của nền thơ ca
Phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp. Ở nhiều phương diện của hình thức và nội
dung. Tất nhiên, ở từng giai đoạn, mức độ ảnh hưởng đậm nhạt của thơ Pháp
đối với Thơ Mới cũng có phần khác nhau. Ở những đoạn đầu, Thơ Mới chịu
ảnh hưởng của thơ lãng mạn với những tên tuổi tiêu biểu như Novalis, Alfred
de Vigny, Victo Huygo, Alfred de Musset...
Cùng sự ghê tởm, dị ứng với thực tại tầm thường, thơ tục và khát khao
thốt khỏi thực tại cực kỳ mãnh liệt, thơ lãng mạn đề cao “cái tơi trữ tình”, đề
cao tự do cá nhân, dựng xây những lâu đài nghệ thuât kỳ vĩ, tráng lệ, phi

thường trong mộng tưởng của con người. Giữa con người và vạn vật dường
như khơng cịn sự phân chia biên giới: “Ai bất hạnh ở trần thế này , ai không
đạt tới những gì mà mình tìm kiếm thì hãy thốt vào thế giới của những pho
sách và của nghệ thuật, vào thế giới của thiên nhiên” [23, tr.83].
Con người được khơi gợi cảm hứng sáng tạo và trí tưởng tượng nghệ
thuật, được giải phóng để phát huy cái tơi cá nhân. Tất cả đã tạo ra những


11

chân trời rộng mở, bao la cho thi ca mới. Có thể nhận thấy những đặc điểm
nổi bật này trong Thơ Mới.
Sau lãng mạn, trường phái Thi sơn cũng để lại dấu ấn trong lòng Thơ
Mới. “Các nhà Thi sơn nắm bắt được sự vật trong tồn bộ và trình bày ra hết,
do đó xóa mất hết bí ẩn; họ bỏ cái niềm vui lớn nhất của tâm hồn người đọc,
tức là tìm vào những gì họ sáng tạo. Gọi tên đối tượng có nghĩa là phá hủy ba
phần tự sự hưởng thụ bài thơ, và nó tạo niềm lạc thú được đoán ra dần dần”
[23, tr.96].
Và sau Thi sơn, trường phái tượng trưng xuất hiện. Thơ tượng trưng
các nghệ thuật tinh vi, đi sâu vào nội tâm, giàu nhạc điệu, cảm xúc tinh tế,
giàu hình tượng, các nhà thơ tượng trưng đã bày tỏ khát vọng muốn vượt qua
nguyên tắc miêu tả trực tiếp sự vật và bộc lộ trực tiếp nỗi lịng của nhà thơ
lãng mạn.
Nói như Trần Đình Sử đã nói khi phân biệt thơ lãng mạn và thơ tượng
trưng “Thơ lãng mạn là sự thổ lộ của trái tim, của khát vọng giải phóng,
khẳng định cá tính lý tưởng. Cịn thơ tượng trưng là tiếng nói của thế giới, là
khát vọng tìm kiếm cái bí ẩn ở đằng sau bao gồm bản chất thế giới các hiện
tượng tâm linh của con người, của thế giới cảm giác và vô thức” [23, tr.95].
Chủ nghĩa tượng trưng với khát khao khám phá đến chốn “sơn cùng
thủy tận” của những khu vực bí ẩn “của những cái vơ hình và thế lực định

mệnh” đã mang lại những gam màu chủ đạo tô sắc cho bức tranh Thơ Mới.
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên…được coi là những bơng hoa tươi
thắm góp phần trang trí cho bức tranh đó.
Trên con đường tiếp thu, tiếp biến văn hóa, văn học Phương Tây của
người Việt chủ nghĩa siêu thực cũng du nhập vào Việt Nam, theo “chiếc hài
vạn dặm thần kỳ” về quan niệm thi ca. Khi “Cái thực hòa trộn với cái mê
sảng, cái bình thường với cái ảo giác, cái trần thế với cái tinh thần [23,


12

tr.120], Thơ Mới đã đưa người đọc đến những chân trời lạ lẫm của bí ẩn vơ
thức, tiềm thức và chiêm bao. Thơ Mới mang thêm trong nó cái mơng lung,
kỳ ảo, mơ hồ được thể hiện rõ qua những vần thơ của Xuân Thu nhã tập và
nhóm Dạ đài…
Trong gần 15 năm, thơ lãng mạn Việt Nam mà cụ thể là Thơ Mới, đã
chịu ảnh hưởng của gần 100 năm thơ Pháp: từ trường phái lãng mạn đầu thế
kỷ XIX (Satơ-briăng, Lamactin, Muytxê, Vinhi, Huygơ đến nhóm Thi sơn
(Têơphin Gôchiê qua Bôđơle, đến trường phái tượng trưng (Veclen, Ranebô,
Manlacmê…) và trường phái siêu thực…Chính vì thế, trong nó có sự đan hòa
của nhiều khuynh hướng, trường phái thơ khác nhau. Nó khơng chỉ là sản
phẩm của cái mới trong sự kết hợp kế thừa truyền thống mà còn là hiện tượng
đặc biệt có một khơng hai trong tiến trình thơ Việt Nam.
1.1.2. Sự khẳng định của nhiều phong cách thơ nổi bật
Thơ Mới đã góp cho thơ ca Việt Nam nhiều tên tuổi với những phong
cách thơ vô cùng mới lạ. Với những phong cách ấn tượng, mỗi nhà thơ đã
thực sự trở thành những nốt nhạc trầm bổng góp phần vào bản nhạc đa âm, đa
giọng điệu mang tên Thơ Mới. Đó là Thế Lữ, vầng sao đột ngột hiện ánh sáng
chói khắp cả trời thơ Việt Nam; là Xuân Diệu, “nhà thơ mới nhất trong những
nhà Thơ Mới”; là Huy Cận lượm nhặt chút buồn rơi rớt để sáng tạo những vần

thơ ảo nảo; là Chế Lan Viên “đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như
một niềm kinh dị” và nhiều tên tuổi đặc biệt khác.
Thế Lữ “người khách của cuộc đời” với những bài thơ đầu tiên vừa ra
đời năm 1932-1932 như “vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ
Việt Nam”.
Bước vào Thơ Mới, Thế Lữ đã làm rạn vỡ, khơi nên vết nứt của khuôn
khổ thơ cũ ngàn năm không xê dịch. Với Thế Lữ, Thơ Mới là nơi “cái tơi”
của ơng kiếm tìm cái đẹp, thốt ly hiện thực:


13

Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi
Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười…
Tơi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp mn hình mn vẻ
(Cây đàn mn điệu)
Mang khí chất của một tài tử, say sưa thoát ly hiện thực để chinh phục
cái đẹp - cõi mơ mộng, huyền ảo, Thế Lữ mang tới cho Thơ Mới những màu
sắc mới, với tiếng sáo thiên thai, với tiên nga ngọc nữ, với hàng tùng, hàng
liễu. Ơng phiêu diêu, say sưa thốt ly và hưởng thụ nhưng không tránh khỏi
cái “tôi” buồn thi vị vốn đang là cái “mốt” thịnh hành trong giai đoạn này.
Nhưng mộng cũng chỉ là mộng, giấc mơ huyền ảo được Thế Lữ dựng
lên để rồi vỡ tan. Tâm sự đau khổ, uất của con hổ ở trong vườn bách thú mang
một “khối căm hờn trong cũi sắt” chính là tâm sự của cả một lớp người “hành
khất phóng lãng” đương thời:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thưở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm bóng cả cây già,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng…
(Nhớ rừng)
Là một trong những nhà thơ mở đầu của Thơ Mới, dưới sự tiếp thu của
thơ ca lãng mạn Pháp - với những cách táo bạo về hình ảnh, ngơn ngữ, nhạc
điệu qua những “đứa con tinh thần của mình”, Thế Lữ đã tạo một “nốt nhạc
khó lẫn lộn” trong bài ca Thơ Mới.
Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” lại gây được sự
ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trong lòng người đọc khi xuất hiện trên thi đàn.


14

Nhắc tới Xuân Diệu – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã không ngoa khi
nhận xét: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng,
sống quống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng
như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống mn hình thức
mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi
dào” [22, tr.106].
Xuân Diệu bước vào vào Thơ Mới, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng
mây”, vượt lên những lề thói quen thuộc, mịn nhạt để tìm tới sự mới lạ của
cuộc sống, và sống hết mình với khát vọng, mơ ước, “cái tơi” thi sĩ của mình.
“Cái tơi” của Xuân Diệu là phát ngôn của những tâm hồn được tháo cũi
sổ lồng, khát khao tận hưởng và cả những hốt hoảng, cuống quýt trước thời
gian “vội vàng” “giục giã”. Thơ Xuân Diệu là sự chân thành, táo bạo, là khát
khao hưởng thụ cuộc sống trần tục :
Thà một phút huy hồng rồi chợt tối
Cịn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Xuân Diệu đã đến với Thơ Mới và hình thành ở đây một phong cách

độc đáo, hấp dẫn. Với những cách tân táo bạo về hình thức thơ và những khát
khao cuồn cuộn “rất Tây” trong tình yêu, cuộc sống, Xuân Diệu đã đóng góp
rất lớn trong sự nghiệp hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Xuân Diệu chính là nốt
nhạc khơng thể thiếu trong bản nhạc Thơ Mới.
Trong khi đó, Huy Cận lại mang theo một nỗi buồn mênh mang vào
Thơ Mới. Huy Cận đã tạo cho thơ mình một “nổi sầu thiên cổ”, “cái mạch sầu
mấy nghìn sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”.
Đó là nỗi buồn sơng dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa
trên non, buồn nhớ bạn, buồn đêm mưa…gợi ít đường nét, lạc lõng và hoang
vắng:


15

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xi mái nước song song
Chiều về nước lại sầu trăm ngả
Củi một nhành khơ lạc mấy dịng
(Tràng giang)
Cái tơi Huy Cận ln trơ trọi như hịn đảo lạc lồi giữa đại dương bao
la rộng lớn và dường như khơng khỏi rùng mình trước những đợt gió giá
băng, cơ độc. Trước sự nghiệt ngã của số phận, cái tôi đã cầu xin sự giải
thốt:
Hỡi Thượng đế! tơi cúi đầu trả lại
Linh hồn tơi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin Người thơi hãy hái!
Nhận tơi đi, dầu địa ngục, thiên đường
(Trình bày)
Ở Huy Cận, “tâm hồn non tơ, nguyên vẹn được bộc bạch ở những vần
thơ thật tươi mát phát xuất từ thiên nhiên, tạo vật”. Để rồi giữa vũ trụ bao la,

mênh mơng nhà thơ cảm thấy mình lạc lồi, xa vắng. Trong tiến trình Thơ
Mới, Huy Cận cứ “đi lượm nhặt những chút buồn rơi rớt để rồi sáng tạo nên
những vần thơ ảo nảo. Người đời sẽ ngạc nhiên vì khơng ngờ với một ít cái
bụi trần thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc” [22, tr.26].
Chế Lan Viên xuất hiện “giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế
kỷ XX , nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật”
[22, tr.217]. Đến với Thơ Mới, Chế Lan Viên mang theo một nỗi buồn, sự
khóc thương cho một dân tộc đã lùi vào quá khứ.
Thơ Chế Lan Viên đầy ắp những đối lập giữa mộng và thực, giữa quá
khứ và hiện tại. Có ai buồn đau khổ cho bằng Chế Lan Viên. Thế giới thơ đầy
ắp nỗi đau khổ và sự tuyệt vọng vô bờ bến :


16

Với tơi tất cả như vơ nghĩa
Tất cả khơng ngồi nghĩa khổ đau
(Xuân)
Sự khổ đau bây giờ như đang lưu thông và chiếm lấy cái tôi của thi sĩ.
Tất cả đều vơ nghĩa. Phải chăng, nhà thơ khơng có mơ ước gì, hay là khơng
có khát khao gì nữa?
Ai đâu trở lại mùa thu bước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
(Xuân)
Hiện tại trở thành “vô nghĩa lý” nên thi nhân hồn tồn chìm đắm trong
chốn lạ thường, miền cực lạc :
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa

Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo
(Những sợi tơ lòng)
Chế Lan Viên đã bước vào Thơ Mới như “lạc giữa sao trời”, đầy hoang
mang bi đát. Thi sĩ được coi là đại diện cho một phong cách nghệ thuật thần
bí, siêu nhiên “Ai bảo giùm ta có ta khơng? ”
Mỗi một tác giả với một phong cách đặc trưng đã tạo nên bức tranh Thơ
Mới đa chiều - đa diện - đa sắc màu.
1.2. Hàn Mặc Tử - từ Gái quê đến Thơ điên
1.2.1. Hàn Mặc Tử - sự đột sáng của thơ ca lãng mạn Việt Nam 1930 1945


17

Hàn Mặc Tử là phong cách thơ đặc biệt. Tiến trình thơ Hàn Mặc Tử có
thể xem là bức tranh thu nhỏ của tồn bộ khung cảnh cuộc hành trình cách tân
Thơ Mới đương thời. Ngay từ buổi đầu sự nghiệp với ba bài thơ Thức khuya,
Chùa hoang, Gái ở chùa Hàn Mặc Tử đã tạo nên dư chấn đặc biệt trong lòng
bạn đọc. “Từ khi về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều
song chưa gặp được bài báo nào hay đến thế…ôi hồng Nam nhạn Bắc, ước ao
có ngày gặp gỡ, để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó”
[10, tr.20].
Ngay từ những ngày đầu sáng tác, thơ Hàn Mặc Tử mang hơi thở của
lời thơ già dặn, sầu não, da diết khiến ai đó tưởng lầm là thơ của một bậc lão
nho :
Ấp úng không ra được nửa lời…
Chỉ có thơng kia chịu với trời
(Buồn thu)
Trước sự ảnh hưởng của những khuynh hướng sáng tác trên thế giới.
Hàn Mặc Tử vẫn giữ được cái hồn, một tình yêu lớn đối với dòng thơ cổ điển.

Thơ Đường luật của Hàn Mặc Tử ngoài sự phong phú về số lượng, sâu sắc và
hấp dẫn về cảm xúc còn là sự vững vàng về kỹ thuật. Nó thể hiện được phong
thái của cổ điển nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ sự tiếp giao, chuyển đổi lý
thú giữa những yếu tố vừa lạ vừa quen nơi ranh giới thơ cũ và Thơ Mới.
Hàn Mặc Tử đã tiếp nhận khuynh hướng sáng tác lãng mạn của chủ
nghĩa lãng mạn Pháp một cách sáng tạo. Trước nhiều biến động của cuộc đời,
Hàn Mặc Tử đã tìm cho mình một mảnh vườn sáng tạo để gieo trồng và gặt
lấy những hoa trái riêng. Phương Tây có câu châm ngơn “Con thỏ muốn sống,
cần phải bảy lần lột xác”. Sự thốt thai ln ln đồng nghĩa với đấu tranh
sinh tồn. Đó là quy luật, là bản chất chấp nhận và cũng là sự hoàn thiện, vượt
lên thực tại cũ mòn đã hao hụt và lùi lại dĩ vãng. Hàn Mặc Tử sau nhiều thăng


18

trầm, biến động của cuộc đời đã cho ra đời tập Gái quê (1936) như một tất
yếu. Từ đây, đánh dấu sự xuất hiện của một ngôi sao ngời sáng trên bầu trời
thi ca Thơ Mới.
Sớm nổi danh với những vần thơ cổ điển nhưng Hàn Mặc Tử lại “ghi
điểm” người đọc bằng những vần thơ lãng mạn. Sự ra đời của Gái quê đánh
dấu cuộc thay đổi về quan niện thơ của Hàn Mặc Tử, để thi sĩ từ địa hạt thơ
cũ bước qua Thơ Mới. Trong lãnh địa Thơ Mới, Hàn Mặc Tử đã lột bỏ y phục
cổ điển để diện lấy bộ cánh tân kỳ, cho mình một cõi thơ riêng khơng lẫn với
bất cứ ai. Có thể coi Hàn Mặc Tử là cái cầu nối giữa những bến bờ tâm linh
văn hóa Đơng Phương với tâm hồn thi ca hiện đại. Với cái tôi khao khát tìm
hiểu, khám phá và phát hiện những bí ẩn nằm trong chiều sâu tâm hồn người,
Gái quê đem đến cho thơ ca Việt Nam những hình ảnh mơ mộng, êm ái như
sợi trời. Đó là sự mơ mộng thường bắt gặp ở những chàng trai mới lớn, niềm
ái ân trong sáng mang chút ngượng ngùng, ngây dại mà trọn vẹn thiêng liêng :
Từ gió xuân đi, gió hạ về

Anh thường gởi gắm mối tình quê
Bên em, mỗi lúc trên đường cái,
Hóng mát cho lịng được thỏa th
(Âm thầm)
Hay là hình ảnh của những cô gái quê tươi tắn, hồn nhiên, đượm màu
chân thật :
Tiếng ca ngắt cành lá rung rinh…
Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ
(Nụ cười)
Và cả những câu thơ “vừa kín vừa lộ liễu”, mang chút dục vọng của thể
xác trong Bẽn lẽn. “Chỉ trong 12 câu đã kết tinh lại biết bao rung cảm say sưa
mà nhất là biết bao ảo thuật giản dị. Mỗi chữ ở trong đây đều là linh hồn, mỗi


19

chữ là một nguồn “hoạt động lực” nó bắt tay nhau mà nhảy lên một bản khiêu
vũ thần tiên” [2, tr.514]:
Trăng nằm sóng soải bên cành liễu
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em
(Bẽn lẽn)
Gái quê mang đậm âm sắc hồn quê, “tình ý vừa là của người trong
cuộc, vừa là của người không thuần quê nữa” [6, tr.118]. Rõ ràng với Gái quê
Hàn Mặc Tử đã thổi vào đó một luồng sinh khí mới của thơ ca lãng mạn. Ở
đó, cái tơi cá nhân đã hiện hình rõ nét từ trái tim chưa yêu đến yêu say đắm,
nồng nhiệt. Những khát vọng tưởng như rất đỗi bình thường đã được Hàn
Mặc Tử kết tinh trong những trang giấy, con chữ, tạo ra trong thơ Hàn Mặc
Tử những điểm đột sáng lạ lùng : “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính
là dịng lãng mạn thuần khiết, nếu Xn Diệu và nhất là Huy Cận, là dòng
lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng…thì Hàn Mặc Tử là sự

hịa sắc của cả lãng mạn, tượng trưng, thậm chí là siêu thực nữa” [16, tr.62].
Thơ Hàn Mặc Tử đã mang đến niềm gợi cảm trong lòng người đọc, đã
thức dậy thứ năng lượng lâu nay vốn tiềm ẩn trong mỗi độc giả. Hàn Mặc Tử
cũng là người đã tiên phong trong việc tích hợp ba trào lưu lãng mạn, tượng
trưng, và siêu thực vào sáng tác thơ ca. Với phong cách độc đáo này, Hàn
Mặc Tử đã mang tới cho làng thơ Việt Nam những nguồn thơ dào dạt nhất.
Đúng như Chế Lan Viên đã nói: “Tơi xin hứa hẹn với các người rằng,
mai sau những cái tầm thường, mực thước kia đã biến tan đi và còn lại của cái
thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử” [22, tr.196].
Từ những tập thơ đầu tiên cho đến những tập thơ về sau, Hàn Mặc Tử
đã đi một chặng đường dài từ cổ điển qua lãng mạn rồi từ lãng mạn chuyển
nhanh sang tượng trưng, tiến chớm đến bến bờ của siêu thực. Cái lãng mạn


20

trong thơ Hàn Mặc Tử luôn mới lạ và nằm ngoài sự tưởng tượng của con
người.
1.2.2. Thơ điên - quan niệm thơ “niềm kinh dị”
Với chí nguyện suốt đời đi tìm sự lạ, Hàn Mặc Tử mải miết đi theo
“Tiếng gọi ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí là rung động cõi lịng”.
Ơng là một nhà thơ suốt đời cứ nhất định “Hưởng cái thơ trên cái thơ khác
nữa”, suốt đời quyết đi đến cõi ước mơ hoàn toàn. [1, tr.225].
Gái quê là tập thơ đầu tiên khơi ngòi cho một tài năng đặc biệt, đánh
dấu sự đặt chân của Hàn Mặc Tử vào lãnh địa thi ca lãng mạn. Nếu ở Gái quê,
Hàn Mặc Tử đem lại một nguồn thơ trong trẻo, lời thơ dễ dàng, ý thơ bình dị;
một chút tình nồng nàn, đầy rạo rực thì với Thơ điên, Hàn Mặc Tử đã đạt
được độ chín, với một cái tơi được bộc lộ một cách tồn diện: “Cái gì của nó
cũng tột cùng, nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười
tràn cả tủy là tủy” [1, tr.225]. Thơ ông bây giờ phát xuất từ con tim rạo rực

tan chảy vì tình u, cơ đơn và bệnh tật. Lời thơ, nguồn thơ là sự rung cảm
trước sắc đẹp huyền diệu của tạo vật, là những rung gợi chói rạng lạ kỳ. Thơ
điên đã đưa người đọc tiến xa ranh giới của hiện thực, mang lại sự hư ảo, mơ
hồ. Ở đây “nghệ thuật chàng tựa một dịng sơng dài đi xuyên qua thế kỷ
chúng ta, và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau,
đẹp đẽ đến say ngợp, đến tê liệt cả lòng người” [10, tr.30]. Có thể nói Gái quê
là điều kỳ diệu của hiền hịa trần thế, cịn Thơ điên chính là tiếng kêu gào để
phủ nhận thế gian đau đớn và bội bạc “Đau thương chính là ngọn nguồn của
sáng tạo, cịn Điên là hình thức của sự sáng tạo ấy. Trong bản chất Đau
thương ở Tử là một tình yêu tuyệt vọng lớn. Cho nên Thơ điên là tiếng nói
của một thân phận bị dồn đẩy đến miệng vực của nỗi chết, chới với bên miệng
vực ấy mà ngối nhìn đời, nuối đời, níu đời” [1, tr.282].


21

Bước vào thế giới Thơ điên, người đọc như bước vào thế giới quằn quại
của tinh thần. Bắt đầu từ Thơ điên, Hàn Mặc Tử bắt đầu đổi sang một thế giới
khác - một thế giới dành cho những con người thèm thuồng sự sống. Trong
bài tựa tập thơ Điêu tàn, Chế Lan Viên viết: “Hàn Mặc Tử viết “Làm thơ tức
là điên”. Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ khơng phải Người.
Nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh,
là u. Nó thốt Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ vãng. Nó ơm trùm tương lai” [25,
tr.13].
Hàn Mặc Tử xem thơ là nguồn sống duy nhất của chính mình. Đó là
nơi thi sĩ phơi bày cảm xúc, tâm hồn và cá tính. Thi sĩ miêu tả cuộc sống bằng
cái tôi gắn với trái tim xúc động. Thơ “là sự thăng hoa của cảm giác, tri giác,
nó khơng chứng minh gì mà làm nảy sinh một trạng thái ý thức, nó phá vỡ
mọi ngẫu nhiên, nó là biểu hiện cao nhất, tinh thần nhất mà nghệ thuật có thể
có được” (Vecharon). Hàn Mặc Tử đã kéo thơ ra khỏi thế giới cảm xúc thơ

mộng để kiến tạo một thế giới tân kỳ, ma quái và điên loạn. Cái đẹp bây giờ
được đẩy qua một địa hạt khác, bao gồm cái kinh dị, cái ghê rợn của hồn, của
não, của máu:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)
Thi nhân đem hết sức mình để bám víu cái sống trong cõi chết vô bờ
bến. Nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần hội tụ nơi não cân, máu huyết muốn
trào ra, quay cuồng theo lời thơ mà mê man chết đi. Hàn Mặc Tử đã để cho
bản năng thúc giục, thấu cảm sự vô nghĩa lý của thế giới xung quanh, khơi gợi


22

khao khát tự do, tưởng tượng và ở vùng đất ấy thi sĩ chìm đắm đến “gần đứt
sự sống”.
Trong lời tựa Thơ điên, Hàn Mặc Tử đã nói: “Tơi làm thơ. Nghĩa là tôi
yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ, tơi bị phản bội tất cả những gì mà lịng tơi, máu
tơi, hồn tơi đều hết sức giữ bí mật. Và cùng có nghĩa là tơi mất trí, tơi phát
điên. Nàng đánh tơi đau q, tơi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú, có ai
ngăn cản được lịng tơi” [14, tr.153]. Thế nên thơ Hàn cũng có nhiều vần thơ
chân chất, phát xuất tự tâm hồn yếu đuối nhưng đầy mãnh liệt của nhà thơ:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh
(Rướm máu)
Thơ điên tạo nên âm hưởng rên xiết “Không rên xiết là thơ vô nghĩa

lý”, sự rên xiết của tâm hồn đang tìm về sự sống, tìm về một cõi mơ khác.
Hàn Mặc Tử đã thả hồn lạc vào mê cung của sự phi thường, cái dị thường.
“Tôi sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ,
bằng hồn, tôi đã phát triển hết các cảm giác của tình u. Tơi đã vui, buồn
giận, hờn đến gần đứt sự sống. Thôi mời cô vào… Ánh sáng lạ trong thơ tôi
sẽ là cho gị má cơ đỏ gấc. Và một khi cơ đã vào là cô sẽ lạc, vườn thơ tôi
rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa, càng ớn lạnh” (Tựa Thơ điên)
Tiếng thơ bi thương của Hàn Mặc Tử chính là tiếng lịng của một trái
tim đau khổ. Đó là nguồn thơ làm bằng máu, bằng lệ, bằng hồn, với tất cả say
sưa, rung động của một con người hoàn toàn đau khổ.
Với Thơ điên, thi sĩ đã đưa độc giả vào một thế giới đầy trăng, đầy
mộng. Tất cả tạo nên một thế giới hão huyền, “mà người say sưa đi trong mơ
ước, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra ngoài Hư linh…Và


23

một khi đã vào sẽ lạc, vì vườn thơ rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn
lạnh” [22, tr.196].. Như tác giả Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Cuộc tình
duyên ra đời với tập Hương thương, hấp hối với tập Mật đắng, đến đây thì đã
chết thật rồi, nhưng khí lạnh cịn tỏa ra nghi ngút” [22, tr.198].
Quả thực, những vần thơ nhịp nhàng, đầy hương thơm và mật đắng,
toàn máu cuồng và hồn điên; những lời châu ngọc say sưa trong Thơ điên của
Hàn Mặc Tử mang đến cho biết bao người đọc “khối chí ngây ngất và rung
động bồi hồi”.


24

Chương 2

THƠ ĐIÊN
- SỰ ĐỘC ĐÁO TRONG RUNG ĐỘNG, CẢM TRI THẾ GIỚI

2.1. Thơ điên - Thế giới của đau thương tuyệt vọng mà hoan lạc vô biên
2.1.1. Sự dồn nén của đau thương, cô đơn và tuyệt vọng
Nhà thơ bao giờ cũng là những con người nhạy cảm nhất trước biến
động của cuộc sống. Dường như trong tù ngục của cuộc đời, thi sĩ đã mơ hồ
cảm nhận được nỗi vong thân. Và giả sử nếu không bắt rễ vào cuộc đời giữa
“cơn lâm lụy” kia, làm sao nhà thơ có thể phơi bày nỗi nhức nhối, quặn thắt
của lịng mình? Hàn Mặc Tử hơn ai hết cảm nhận được tất cả nỗi tủi cực đắng
cay của người cầm bút.
Trong Thơ điên, Hàn Mặc Tử “thường xuyên rơi vào tình trạng cơ đơn
tuyệt đối, tinh thần bị vây khốn giữa một cõi sống đơn độc, luôn bị ám ảnh
bởi nỗi chết của riêng mình, và dường như lúc nào cũng có thể cảm thấy mười
mươi cái bóng đen úa, cái âm khí lạnh ngắt cùng đơi mắt rùng rợn của tử thần,
cho nên tinh thần của thi sĩ luôn lạc giữa cái trùng vây của những biểu tưởng
kinh loạn nhất của thế giới khác” [18, tr.236].
Thơ điên là những tiếng khóc nức nở thốt ra từ trái tim đau khổ, là sự
gào rú, than khóc điên cuồng của một linh hồn bị tổn thương và yếu đuối. Có
thể nói đó là những vần thơ điên loạn vì cùng quẫn, vì thất vọng, vì những
khát khao, mơ ước của mình bị thực tế phũ phàng nhấn chìm đi, xé tan trong
đau thương và uất hận. Đọc Thơ điên, người ta phần nào hình dung ra được
nỗi đau đớn vất vả mà Hàn Mặc Tử phải trải qua do sự hành hạ của bệnh tật,
của sự hủy hoại thể xác và linh hồn:
Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến


25

Thịt da tơi sượng sần và tê điếng

Tơi đau vì rùng rợn đến vơ biên
(Hồn là ai)
Đoạn thơ có rất nhiều những từ ngữ thể hiện cảm giác đau đớn đến
điên dại về thể xác: “sượng sần”, “tê điếng”, “rùng rợn”. Căn bệnh phong quái
ác đã giết chết một con người tràn đầy sức sống và hồi bão. Chính Hàn Mặc
Tử có lần đã nói: “Mỗi lần tơi làm được một bài thơ, là héo hắt đi một ít ở tâm
hồn, và xác thịt cũng hao mòn dần đi. Khi nào tơi ịa lên khóc, hay gào thét
như người điên, lúc bấy giờ tôi mới làm thơ được” [2, tr.522].
Làm thơ dưới lưỡi hái của tử thần, Hàn Mặc Tử luôn phải đối diện với
sự phân rã cơ thể hàng ngày. Hàn Mạc Tử như ngọn đèn sắp tắt, như cây non
yếu ớt trước trời giông tố bão bùng. Những bài thơ mà Hàn Mặc Tử gọi là
“Thơ điên, thơ loạn” ấy thực ra không điên loạn chút nào. Hàn Mặc Tử đã mở
ra một thế giới của những cơn đau vật vã, của cuộc sống vụn nát, xa rời dần
mà khơng sao níu giữ:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
(Rướm máu)
Trong Thơ điên, Hàn Mặc Tử mang nặng một khối tình đời, tình u
đơi lứa. Thi sĩ cũng giống biết bao người bình thường, cũng muốn được yêu,
được hạnh phúc nhưng tình dun khơng đến, để rồi “chửa gặp nhau mà đã
biệt ly”. Trong tình yêu, Hàn Mặc Tử bị xơ đẩy theo những đợt sóng ái tình
mà đau khổ đã lấn át niềm vui. Dường như đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta
ln bắt gặp những bóng hồng đi qua đời thi sĩ. Có những lúc đau khổ, tuyệt
vọng khiến nhà thơ muốn lẩn tránh những hình ảnh u thương đã từng làm
cho lịng ơng tan nát:
Cái gì kết lại mới thành tinh tú
Và uyên ương bởi đâu khơng đồn tụ?


×