Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.82 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài.
Tác phẩm của ơng chỉ cịn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hồi” và “Vãn Thượng tướng Quốc
cơng Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến cơng của người anh
hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.
Hồnh sóc giang san kháp kỉ thu
Tam qn tì hổ khí thơn ngưu
Nam nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hồnh sóc) là một tư thế chiến đấu vơ cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu
thơ “Hồng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang
tầm vóc khơng gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu).
Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng
sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm:
cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường,
mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra
trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thơn Ngưu” nghĩa là khí thế,
tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân
thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm
-“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để
đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo
hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ).
“…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”
(Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của
tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng
đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ cơng oanh liệt của mình
có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu
cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử cịn vương nợ
“cơng danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu
và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến cơng. Đó không phải là thứ “công danh” tầm
thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai
nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lịng dũng cảm. Khơng chỉ “Luống thẹn tai nghe
chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến
đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được
đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt
được trường tồn bền vững: “Non sơng nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tơng).
“Thuật hồi” được viết theo thể thơ thất ngơn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn
ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị
anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào
khí Đơng-A”.
Nguyễn Trãi (1380 -1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “Bình Ngơ”,
danh nhân văn hoá Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu
sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác
nhau: Ngơn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Báo kính cảnh giới (61 bài)
.v.v… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” khơng có nhan đề. Đây là bài thơ số 43 trong
“Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kinh cảnh giới” hàm chứa nội dung giáo huấn trực
tiếp, nhưng bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.
Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến v.v… đều có thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho
ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV. Nó nói lên cảnh sắc mùa hè
làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Câu 1 (lục ngơn) nói lên một cảnh sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ,
thoải mái, hồn nhiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ dẹp chân đi đủng đỉnh – Áo
bô quen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai khơng bị ràng buộc bởi vịng
“danh lợi” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà.
Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh hè làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai
câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hịe, màn hịe. Lá hịe xanh thẫm,
xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn
đầy sức sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hòe thường gắn liền với
điển tích “giấc hịe” (giấc mộng đẹp), “sân hịe” (chỉ nơi cha mẹ ở ). Truyện Kiều có câu: “Sân
hịe đơi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”. Trong thơ Ức Trai, hình ảnh cây hòe
xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngơn ngữ trau cht, đậm đà:
“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam cơng”.
Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. Thức
tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đóa hoa lựu như chiếc đèn ***g
bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được dùng rất hình
tượng và thần tình.
“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lịe đơm bơng” - Từ hoa lựu “phun thức đỏ”,
đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lịe đơm bơng” là cả một q trình sáng tạo ngơn ngữ thi ca
của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi tập” đến “Truyện Kiều”. Vẻ đẹp ngôn
ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!
Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. “Tiễn” là ngát (tiếng cổ). Sen hồng nở thắm
ao làng, hương thơm tỏa ngát. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao
làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng quê thanh bình, khơng khí thanh cao thốt tục.
Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô
cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê
đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.
Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều
cịn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường:
Câu 5,6 :
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Sau khi tả hòe màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tiễn mùi hương”, nhà thơ nói đến
âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó
là tín hiệu cuộc đời dân đã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy
với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa điệu với tiếng
lao xao chợ cá là tiếng ve vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh
tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài
vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung
cảnh một chiều hè làng quê lúc hồng hơn bng dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét
vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái khơng khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khẵp địi phương”.
“Dẽ có” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng
lẽ có….”. Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn (Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung
Quốc - triều đại lý tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết cảm xúc
trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của Nhà thơ. Ức Trai chân
thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc “Nam phong”, cầu
mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.
Hai câu kết tốt lên một tình u lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong
ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hy sinh phấn đấu cho hồ bình, hạnh phúc của dân
tộc:
Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng những tư tưởng tình cảm cao cả,
đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng mạnh mẽ:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuồn nước triều đông”
(Thuật hứng - số 5)
Bài thơ nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến
cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng
cổ cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về
ngơn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như
sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu
thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho
hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ
Hán có vai trị khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ
những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ "Độc
Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi
với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy bài thơ là sự kết
hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp
người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người.
Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của
Nguyễn Du.
Trong thơ văn trung đại, khơng phải ít hình ảnh những người phụ nữ "tài hoa bạc
mệnh", là nạn nhân của cái quy luật "hồng nhan đa truân". Người cung nữ của
Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán nản
hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất
hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca
nữ đất Long Thành.... Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn
Du và thể hiện tấm lịng nhân đạo bao la ở ơng. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu
Thanh - một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm
thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc, nhất là
tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi
đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lịng
ghen tng ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời
nàng như được hiện hữu trong cảnh vật :
Hồ Tây cảnh đẹp hố gị hoang
Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ "tận" như muốn xoá sạch mọi dấu vết của
cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến
đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ
cịn gị hoang cũng như tất cả những gì cịn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một
mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thơi cũng đủ để nhà thơ một mình
thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm
trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
(Truyện Kiều)
Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp
nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao
la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành với
số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du.
Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm khơng chỉ là "thập loại chúng sinh"
đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ơng hướng về những kẻ tài hoa.
Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du nhắc đến
trong hai câu luận:
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Mối hận ấy hỏi trời khơng thấu, hỏi đất khơng hay, chỉ có những kẻ cùng hội cùng
thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi oan
kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du
tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi thương mình
mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên bao băn
khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc cịn có được một
Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc, tài
hoa "hữu thần" ấy cịn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ "tài tử đa
cùng" lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết cịn ai trong thiên hạ tưởng nhớ,
tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn khơng thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua
trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm.
Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng một
khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và những
băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi niềm của
cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la.
Lý Bạch (701-762) là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường. Ông được người đời ca ngợi là
"Thi tiên", để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách - thi sĩ, ơng coi thường
danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sơng tráng lệ,
tình bằng hữu, tình q hương lòng khao khát tự do... chứa chan trong những vần thơ lãng mạn
tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ơng có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đơ Tràng An nhưng đã vứt
Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu
Hồng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến,
thương nhớ bạn.
<b>Phân tích</b>
<b>1. Cách đưa tiễn</b>
Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hồng Hạc, một thắng cảnh thuộc
Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên,
thường cưỡi hạc vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên (689-740) một nhà thơ nổi tiếng, bạn
vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khống, ưa ngao du, rất tâm đầu ý
hợp với Lý Bạch. Hai chữ "Cố nhân" (bạn cũ, người xưa) trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu
sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách:
"Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"
(Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường)
Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ "tây" chưa dịch được để nói lên hướng đi của
bạn. Chữ "bạn" chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ "cố nhân". Trong thơ cổ, mỗi lần từ "cố
nhân" xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người:
"Dạng chu tầm thuỷ tiện
Nhân phỏng cố nhân cư"
(Mạnh Hạo Nhiên)
Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà)
- "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân"
(câu 2330- "Truyện Kiều")
Câu hai phát triển và hồn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ
đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba (tam nguyệt) mùa hoa khói (n hoa),
xi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu - một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:
"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"
(Giữa mùa hoa khói Châu Dương xi dịng )
Chữ "há" có bản phiên âm là "hạ", được Ngơ Tất Tố dịch thành "xi dịng", thật là sáng tạo.
"Yên hoa" là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ
không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi.
Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai
địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời
thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị:
"Bạn từ lầu Hạc ra đi
Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba"
(Nhữ Thành)
Có thể nói trong hai câu "Khai thừa", yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ: nỗi niềm của một
tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi "thi hội tao nhân" cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng
Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sơng, dõi theo chiếc
thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút "cận - viễn" là
một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung
Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4
thành một chỉnh thể nghệ thuật hồn hảo.
<b>2. Tình lưu luyến mến thương</b>
Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý
Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dịng sơng, cánh
buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa...
Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần, mờ dần (viễn ảnh) rồi mất hút vào trời xanh, vào
cuối chân trời xa (bích khơng tận). Hay tầm lịng "Thi tiên" với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ
thương... như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần
trên dịng sơng Trường Giang?
"Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vơ hạn của bầu trời.
Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dịng sơng bao la đó mang đi
tình bạn của Lý Bạch. Dịng sơng càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng
không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn
theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên
sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết....
Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khống khi ơng
miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên". (Trần Xuân Đề)
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu"
(Bóng buồm đã khuất bầu khơng
Trơng theo chỉ thấy dịng sơng bên trời).
Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là "cô phàm viễn ảnh". Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn
tả bằng hai chữ "duy kiến" - chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc
bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng
An, Dương Châu, Thành Đô v..v... Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược
Mặc dầu chưa dịch được hai chữ "cơ" (cơ phàm), "bích" (bích khơng tận) nhưng Ngô Tất Tố đã
lột tả được "điệu Đường", "hồn Đường" của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn
thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý bạch.
<b>Tổng kết</b>
1. Bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" là một trong những tuyệt tác
về thơ thất ngôn tứ tuỵêt của Lý Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống
biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa - gần (cận - viễn), lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm,
ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc... đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn
chương và cốt cách của bài thơ này.
2. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao
nhân mặc khách đời Đường.