-1-
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SỬ
----------
NGUYỄN PHƯƠNG NAM
Chế độ thanh tra, giám sát quan lại dưới
thời Minh Mạng (1820 - 1840)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
-2-
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam được mở đầu vào thế kỉ thứ X với sự ra
đời của các vương triều đầu tiên Ngô, Đinh và Tiền Lê, là thời điểm quan trọng đánh
dấu dân tộc Việt Nam giành được quyền độc lập tự chủ sau hơn một ngàn năm Bắc
thuộc, bắt đầu bước vào thời kì củng cố và phát triển qua các triều đại Lí - Trần - Hồ,
từng bước hoàn thiện dưới thời Lê sơ và phát triển đến đỉnh cao dưới triều Nguyễn.
Có nhà nước tất yếu phải có bộ máy hành chính tổ chức điều hành và quản lý để
giữ gìn trật tự trị an và phát triển đất nước. Trải qua các triều đại phong kiến, người
cầm quyền tối cao của nhà nước luôn luôn là Vua. Đối với các nhà nước Phương
Đông, vua được mệnh danh là thiên tử làm nhiệm vụ thay trời trị dân. Vì thế, vua có
một quyền lực rất lớn, là người quyết định mọi công việc của đất nước. Tuy nhiên, một
mình vua khơng thể quản lý và điều hành tất cả mọi công việc được mà nhà vua cần
phải nhờ đến sự trợ giúp của một đội ngũ quan lại đông đảo. Quan lại không chỉ là
những người quản lý các công việc trong từng lĩnh vực cụ thể mà cịn góp phần quan
trọng trong việc đề ra và thực thi những chính sách nhằm ổn định và phát triển đất
nước. Nếu ví đất nước như cơ thể con người thì bộ máy nhà nước chính là bộ não mà
trong đó mỗi quan lại là một tế bào thần kinh để điều hành toàn bộ cơ thể. Với ý nghĩa
đó, triều đại phong kiến nào cũng đều: “đặt quan lại để thay việc trời, sáng tỏ nghiệp
chúa” [31, tr.1].
Đồng thời để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước địi hỏi bộ máy hành
chính nhà nước phải thật sự vững mạnh và vận hành có hiệu quả. Chính vì thế, việc
xây dựng được một đội ngũ quan lại có năng lực, trong sạch, vững mạnh là mong
muốn lớn của bất cứ triều đại nào, điều này được Viên Thông Quốc sư khẳng định:
“Nước trị hay loạn cốt ở trăm quan, được người giỏi thì nước trị, dùng người xấu thì
nước loạn. Các bậc đế vương đời trước sở dĩ hưng được sự nghiệp là nhờ dùng người
quân tử, bị mất nước là vì dùng kẻ tiểu nhân” [31, tr.1]. Và để làm được điều đó, các
triều đại phong kiến đã tìm ra một câu trả lời chung là cần thiết phải xây dựng nên một
chế độ thanh tra, giám sát giữa các quan lại với nhau. Với việc đặt ra chức Ngự sử đài
để “giữ giềng mối, răn phong độ các quan” [8, tr.35] triều Trần đã xây dựng nền tảng
cho chế độ thanh tra, giám sát quan lại. Từ đó, chế độ này dần dần được củng cố và
hoàn thiện dưới thời Minh Mạng - nhà “kiến trúc” hàng đầu của thiết chế tập quyền
triều Nguyễn.
Bước lên ngơi báu khi đã trưởng thành hồn tồn về mặt thể chất cũng như trí
lực, với tài năng, ý chí và sự thơng minh sẵn có, Minh Mạng muốn làm một Lê Thánh
-3-
Tơng trong hồn cảnh mới. Xây dựng đất nước lấy văn trị làm nền tảng, Nho giáo làm
khuôn thước, nho sĩ làm chỗ dựa để có một đất nước thịnh trị như thời Lê Thánh Tông
là một ước ao của Minh Mạng. Với việc thừa kế một đất nước thống nhất với lãnh thổ
rộng lớn chưa từng có, một kinh đơ duy nhất và một triều đình đã thu tóm quyền lực
vào tay vua sau hàng chục năm chiến tranh đã tạo cơ sở cho vị Hồng đế này có thể
biến ước mơ của mình thành hiện thực.
Trước những yêu cầu phát triển đất nước về kinh tế - xã hội - văn hóa, yêu cầu
củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền trung ương tập quyền, hơn ai hết Minh
Mạng ý thức được rằng để thực hiện ước muốn của mình cần phải xây dựng một đội
ngũ quan lại có năng lực và hiệu quả thơng qua một cuộc cải cách hành chính mà một
trong những trọng tâm của cuộc cải cách này là hoàn thiện chế độ thanh tra, giám sát
quan lại.
Kế thừa kinh nghiệm của các triều đại phong kiến trước và phỏng theo tổ chức
giám sát của nhà Minh, Thanh ở Trung Quốc, Minh Mạng đã xây dựng nên các các cơ
quan giám sát, tổ chức thanh tra với một đội ngũ quần thần chuyên trách việc thanh
tra, giám sát hoạt động của các quan lại trong các tổ chức hành chính ở Trung ương và
địa phương. Hiệu quả từ chế độ này đã góp phần đưa đế quyền nhà Nguyễn dưới triều
Minh Mạng đạt đến sự tuyệt đối của quyền lực trở thành một chính thể qn chủ
chun chế có năng lực thực tiễn mạnh mẽ bao trùm trên cả đất nước, chi phối tồn bộ
xã hội.
Nhưng có một nghịch lí là dưới thời Minh Mạng, tình hình đất nước vẫn khơng
thật ổn định, quan lại tham nhũng lộng hành, các vụ tranh chấp, kiện cáo diễn ra liên
tục. Đời sống dân chúng vẫn cịn khó khăn, nhiều cuộc khởi nghĩa nơng dân bùng nổ.
Vậy câu hỏi được đặt ra là phải chăng sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan
trong các cấp hành chính có nhiều lỗ hỏng dẫn đến hoạt động của đội ngũ quan lại
chưa thật sự hiệu quả?
Với mong muốn tìm hiểu sâu sắc về tổ chức, nguyên tắc hoạt động, những đóng
góp cụ thể trong thực tế cũng như các hạn chế còn tồn tại của trong các cơ quan, tổ
chức thanh tra, giám sát quan lại dưới thời Minh Mạng. Đồng thời với lòng đam mê
tìm hiểu rõ hơn về cuộc cải cách hành chính của vị vua được xem là nổi bật nhất của
triều Nguyễn này và lí giải được những nghịch lí đặt ra ban đầu đã thôi thúc chúng tôi
chọn: Chế độ thanh tra, giám sát quan lại dưới thời Minh Mạng (1820 - 1840) làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, triều Nguyễn ln là đề tài “nóng hổi” thu hút được
sự tham gia nghiên cứu của tất cả các giới, các ngành nghiên cứu trong và ngoài nước.
-4-
Nhiều cuộc hội thảo khoa học về triều Nguyễn về văn hóa - xã hội đã được tổ chức
trong cả nước. Song vẫn có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh quá trình đánh giá
những thành tựu và hạn chế của triều Nguyễn trong suốt thời gian triều Nguyễn nắm
quyền. Mặc dù có nhiều đề tài cũng như các cơng trình nghiên cứu khoa học về triều
Nguyễn tuy nhiên vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách cụ thể và sâu sắc
về các cơ quan giám sát, về tổ chức, hoạt động thanh tra, đàn hặc của các cơ quan này
dưới triều Minh Mạng. Có thể thấy rằng đây là vấn đề quan trọng và tương đối phức
tạp liên quan đến toàn bộ cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và xã hội
Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng - thời kì đỉnh cao trong giai đoạn nhà Nguyễn
cầm quyền.
Tác phẩm có đề cập nhiều nhất đến chế độ thanh tra, giám sát quan lại dưới thời
vị vua khá nổi tiếng này là Cải cách hành chính dưới triều vua Minh Mạng (1820 1840) của Nguyễn Minh Tường, xuất bản năm 1996. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu
nghiên cứu về chế độ giám sát giữa cấp trung ương với địa phương cũng như những
tác động từ chế độ này mang lại.
Tác phẩm thứ hai có đề cập đến các cơ quan giám sát về cơ cấu tổ chức, nguyên
tắc hoạt động đó là Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam của Văn
Tạo, xuất bản năm 2006. Nhưng tác phẩm này không đi sâu nghiên cứu mà chỉ tìm
hiểu khái quát trong phần các biện pháp cải cách hành chính của Minh Mạng.
Ngồi hai cơng trình trên, cịn có một số cơng trình nghiên cứu khoa học khác
có nghiên cứu về các cơ quan thanh tra, giám sát của triều Nguyễn nói chung giai đoạn
1802 - 1885. Tuy vậy, các cơ quan này chỉ được đề cập đến với tư cách là một phần
nội dung nhỏ trong một đề tài lớn về triều Nguyễn:
Năm 1997, PGS - TS Đỗ Bang đã chủ biên cơng trình Tổ chức bộ máy nhà
nước triều Nguyễn (1802 - 1884). Trong cơng trình này, tác giả dành riêng một phần
để nghiên cứu về các cơ quan giám sát của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884
trên các mặt cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ cơ bản của các cơ quan giám sát:
Đô sát viện, Lục Khoa và giám sát của 16 Đạo.
Năm 1998, nhóm tác giả Phan Đại Dỗn - Nguyễn Minh Tường - Hoàng
Phương - Lê Thành Lân - Nguyễn Ngọc Quỳnh đã xuất bản cuốn Một số vấn đề về
Quan chế triều Nguyễn. Trong đó có đề cập sơ lược về lịch sử chế độ thanh tra, giám
sát quan lại ở các triều đại trước. Đối với triều Minh Mạng thì tác phẩm chỉ đề cập đến
Đơ sát viện - cơ quan giám sát quan lại lớn nhất của triều Nguyễn chứ chưa tìm hiểu
cụ thể tồn bộ hệ thống thanh tra, giám sát quan lại của triều đại này.
Bên cạnh đó, một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân sử học như: Tìm hiểu hoạt
động của các cơ quan tư pháp triều Nguyễn (1802 - 1883) của sinh viên Nguyễn Thị
-5-
Lý năm 2003; Tổ chức và hoạt động của các cơ quan giám sát của triều Nguyễn (1802
- 1885) của sinh viên Trịnh Thị Quyên năm 2005 thuộc khoa Lịch sử trường Đại học
Khoa Học Huế cũng đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về chế độ thanh tra, giám sát quan
lại dưới thời Minh Mạng.
Như vậy, các cơng trình trên đều nghiên cứu trong phạm vi thời gian từ 1802 1885 và chưa có cơng trình nào tìm hiểu chuyên sâu và đầy đủ về chế độ thanh tra,
giám sát quan lại dưới thời Minh Mạng. Mặc dù vậy, cùng với các nguồn cổ sử quan
trọng như Đại Nam thực lục, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ thì các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã giúp chúng tơi có cơ sở khoa học đúng đắn
để định hướng và hồn thành tốt khóa luận của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chủ yếu của khóa luận là nhằm làm sáng tỏ chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động cũng như hiệu quả hoạt động cụ thể
trong thực tế của các cơ quan giám sát, tổ chức thanh tra quan lại dưới thời Minh
Mạng (1820 - 1840). Từ đó rút ra một số bài học tham chiếu cho việc thanh tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như những biện pháp nhằm giúp cho
hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng hiệu quả, trong sạch hơn đáp ứng
yêu cầu của đất nước trong tình hình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với quan niệm “trị quan hơn trị dân”, vua Minh Mạng ngay từ khi lên ngôi đã
cho thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại. Trong suốt
hai mươi mốt năm trị vì của mình, Minh Mạng đã dần hồn thiện chế độ thanh tra và
giám sát quan lại về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động. Thanh tra, giám sát quan lại
được tiến hành trong từng cơ quan hay giữa các cơ quan với nhau cũng như giữa trung
ương với địa phương.
Trong giới hạn của khóa luận, chúng tơi xem vấn đề này là đối tượng chính cần
phải được làm sáng tỏ. Ngồi ra, chúng tơi cịn khảo sát về cuộc đời, sự nghiệp của
vua Minh Mạng, các yêu cầu đặt ra và chế độ thanh tra, giám sát quan lại ở các triều
đại trước để từ đó thấy được sự tác động của bối cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa - xã
hội đến hoạt động thanh tra, giám sát cũng như vai trò của chế độ này đối với việc
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động đội ngũ quan lại và sự phát triển của xã hội
Việt Nam dưới triều Minh Mạng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi và điều hành đất nước trong suốt 21 năm (1820
- 1840). Trong thời gian cầm quyền, vị Hoàng đế này đã xây dựng một chế độ thanh
-6-
tra, giám sát quan lại tương đối hoàn chỉnh so với các triều đại trước đó. Với mục đích
tìm hiểu chế độ thanh tra, giám sát quan lại dưới thời Minh Mạng cho nên chúng tôi
chỉ nghiên cứu trong thời gian Minh Mạng trị vì (1820 - 1840). Với mong muốn hiểu
rõ về chế độ này, chúng tôi đi sâu về các cơ quan, đội ngũ thực hiện, đối tượng áp
dụng chế độ thanh tra, giám sát cũng như nguyên tắc hoạt động, các biện pháp hỗ trợ
cho việc thanh tra, giám sát quan lại, những hoạt động và hiệu quả từ chế độ này mang
lại.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ có hiệu quả cho việc nghiên cứu đề tài này chúng tôi dựa vào các
nguồn tư liệu chủ yếu như: các cuốn cổ sử do Nội các, Quốc Sử Quán triều Nguyễn
biên soạn và các sách tham khảo liên quan đến nhà Nguyễn, chế độ thanh tra, giám sát
quan lại dưới thời Minh Mạng (1820 - 1840); các bài viết trong tạp chí Nghiên cứu
lịch sử cũng như trên mạng Internet.
Đồng thời khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đứng trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để xem xét, đánh giá các
sự kiện lịch sử. Trong q trình đó, chúng tơi sử dụng các phương pháp chuyên ngành
lịch sử như: phương pháp logic, phương pháp lịch sử và kết hợp với sử dụng các thao
tác phân tích, tổng hợp; thống kê, mơ tả; so sánh, đối chiếu;… Sử dụng các phương
pháp và thao tác đó chúng tơi thực hiện đề tài qua 3 bước:
Bước 1: Sưu tầm và tìm kiếm tài liệu. Sau khi xác định tên, đối tượng và giới
hạn của đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầm các tài liệu liên quan như: sách, báo, tạp
chí, kỷ yếu chuyên ngành về Minh Mạng và chế độ thanh tra, giám sát quan lại dưới
thời Minh Mạng. Thực hiện điều này, chúng tơi tìm kiếm và sử dụng các tài liệu đang
được lưu trữ tại thư viện trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, thư viện Khoa học tổng
hợp Đà Nẵng, thư viện Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học, thư viện Tổng hợp Huế.
Bước 2: Trên cơ sở những tài liệu thu thập, tìm kiếm được, chúng tơi tiến hành
phân tích, tổng hợp những chính sách, biện pháp mà vua Minh Mạng đã tiến hành để
thực hiện việc thanh tra, giám sát có hiệu quả đội ngũ quan lại trong suốt thời gian trị
vì và đối sánh với các triều đại khác để thấy được sự hoàn thiện, sáng tạo của triều đại
Minh Mạng.
Bước 3: Sau khi trình bày về cơ cấu tổ chức, cơ chế thực hiện và hoạt động
trong thực tế của các cơ quan thanh tra, giám sát, chúng tơi đi vào tìm hiểu vai trị của
việc thực hiện chế độ thanh tra, giám sát quan lại do Minh Mạng làm “kiến trúc sư”
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và việc xây dựng, củng cố chế độ phong kiến
trung ương tập quyền lúc bấy giờ. Đồng thời, chúng tơi cũng phân tích những hạn chế
trong vấn đề thanh tra, giám sát quan lại. Từ đó rút ra một số bài học tham chiếu cho
-7-
cơng việc cải cách hành chính, thanh tra, giám sát có hiệu quả đội ngũ cơng chức trong
giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của khóa luận
Với mục đích tìm hiểu một trong những trọng tâm của cuộc cải cách hành chính
đã góp phần đưa triều Minh Mạng trở thành triều đại đỉnh cao trong các triều vua
thuộc vương triều Nguyễn, đóng góp lớn nhất của chúng tơi là hệ thống một cách đầy
đủ về chế độ thanh tra, giám sát quan lại và vai trị của nó đối với sự phát triển đất
nước dưới thời vị Hoàng đế này trị vì. Đồng thời, theo tinh thần của tác giả Nguyễn
Phan Quang trong Triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỉ XIX: “Quá khứ là cái đã
qua, nhiệm vụ của chúng ta là tìm hiểu những việc làm tích cực của cha ông ta, r út ra
những mặt yếu kém, lạc hậu góp phần xây dựng xã hội phát triển, giàu mạnh, công
bằng và văn minh” [13, tr.2] thông qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rút ra một số
bài học tham chiếu cho việc thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
cũng như những biện pháp nhằm giúp cho hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức
ngày càng hiệu quả, trong sạch hơn đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới.
Ngồi ra, vấn đề mà khóa luận đề cập là một nội dung trong lịch sử Việt Nam
mà cụ thể là dưới thời Minh Mạng, cho nên khóa luận hồn thành có thể là nguồn tư
liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Vua Minh Mạng và cơ sở của việc thực hiện chế độ thanh tra, giám sát
quan lại thời Minh Mạng (1820 - 1840)
Chương 2: Chế độ thanh tra, giám sát đối với quan lại dưới thời vua Minh Mạng
(1820 - 1840)
Chương 3: Hoạt động thanh tra, giám sát quan lại và vai trị của nó dưới thời Minh
Mạng (1820 - 1840)
-8-
NỘI DUNG
Chương 1:
VUA MINH MẠNG VÀ CƠ SỞ CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ THANH
TRA, GIÁM SÁT QUAN LẠI THỜI MINH MẠNG (1820 - 1840)
1.1. Vài nét về vua Minh Mạng
1.1.1. Thân thế
Minh Mạng (1820 - 1840), tên húy là Phúc Đảm, cịn có tên là Hiệu, con trai
thứ tư của Gia Long, em cùng cha khác mẹ với hoàng tử Cảnh. Minh Mạng sinh ngày
23 tháng tư năm Tân Hợi (25 - 3 - 1791). Mẹ của ông họ Trần, con gái Thọ Quốc công
Trần Hưng Đạt, quê huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Năm 1778, Nguyễn Ánh
chiếm lại Gia Định. Năm 1781, tuyển bà vào cung rồi tiến phong là Tả cung Tần, hiệu
là Nhị phi. Năm 1791, bà sinh ra Minh Mạng ở thôn Hoạt Lê, thuộc Gia Định. Sử cũ
nhận xét về bà như sau: “Thái hậu tính cần kiệm, từng đặt nhà dệt, ni tằm ở trong
cung, thân đến trông nom để làm vui” [37, tr.49]. Bà mất năm Thiệu Trị thứ 6 (1846),
hưởng thọ 79 tuổi.
Dưới thời quân chủ ở Đông phương, việc truyền ngôi thường được tuân thủ
theo ba nguyên tắc là: trọng nam, trọng đích và trọng trưởng. Tuy nhiên, thực tế ở Việ t
Nam các nguyên tắc này không được các triều đại tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Con
đầu của vua Gia Long là hoàng tử Cảnh mất sớm. Triều đình có người đề nghị cho con
của hồng tử Cảnh nối ngơi để giữ đúng dịng đích, nhưng Gia Long gạt đi và phán
rằng: “Nước nhà mới yên, phải chọn người lớn tuổi cầm quyền, chẳng nên dùng kẻ thơ
ấu” [37, tr.49].
Trong thâm tâm, Gia Long đã có ý định chọn lựa hồng tử thứ tư là Đảm, con
dịng thứ (Minh Mạng sau này). Chính sử triều Nguyễn cho biết rằng: “Mùa thu tháng
7, năm Gia Long thứ 14, vua tuổi đã cao mà chưa định người nối ngơi. Hồng tử thứ
tư hiền và lớn hơn cả, vua đã để ý. Bầy tơi đều có lịng theo ” [37, tr.49]. Chính vì thế,
tháng 3 năm 1815, hồng tử Đảm được lập thành Thái tử và đến năm 1820 lên làm
vua, niên hiệu là Minh Mạng.
Quả thực, Gia Long đã không nhìn nhầm khi lựa chọn Minh Mạng làm người
kế vị. Trong suốt thời gian cầm quyền, Minh Mạng luôn ý thức được về vai trị của
mình. Ơng bộc lộ sức lực, lịng hăng say làm việc khơng mệt mỏi để hồn thành việc
nước: “nghe triều chính xong, phàm chương sớ trong ngoài thường ở dưới đèn, miệng
đọc tay viết, hoặc đến trống canh 2, canh 3 mới đi nằm” [25, tr.505]. Ơng đề ra các
chủ trương, theo dõi hành chính một cách sát sao, nghiêm túc. Ông chú ý cả về mặt
quân sự, hành chính, ra thao trường chứng kiến việc luyện tập, ngồi trong triều mà ông
chỉ đạo các cuộc hành quân xa rất kịp thời.
-9-
Phương châm của những nhà Nho hành đạo là tu thân, tề gia, trị quốc. Minh
Mạng đã đi rất đúng những điều cơ bản nhất. Ơng biết giữ gìn tư cách, học hỏi nhiều,
phấn đấu nhiều, không để ai chê bai về đức tính con người nghiêm nghị, đúng mực.
Ơng luôn sống và làm việc theo pháp luật và cũng yêu cầu mọi người phải sống như
vậy, đặc biệt là đội ngũ quan lại - những người điều hành công việc của đất nước. Do
đó, việc thanh tra, giám sát quan lại rất được Minh Mạng chú trọng.
Đồng thời, Minh Mạng cịn là ơng vua thưởng phạt cơng minh, mọi người kể từ
hoàng tử, hoàng thân xuống đến thứ dân, binh lính đều bình đẳng trước pháp luật.
Người có cơng cho dù là ai Minh Mạng sẵn sàng ban thưởng khá rộng rãi, ngược lại
đối với tội lỗi của quan lại, kể cả những viên Thượng thư thân cận, Minh Mạng xử
phạt rất nặng.
Với tính cách đó, gần Minh Mạng người ta có cảm giác ơng là một con người
của công việc, của trách nhiệm. Minh Mạng khiến cho người ta kính sợ sự nghiêm
nghị, vẻ lạnh lùng hơn là quý mến cái tài hoa, lòng khoan dung ở con người ông. Đôi
câu đối của Minh Mạng được khắc trên nóc điện Sùng Ân tại Hiếu lăng đã phác họa
rất điển hình, rất rõ nét con người ơng:
Chí ư chí thiện, tuân kinh sử
Hành bất vi nhân, pháp điển mô
“(Mỗi hành động đều noi theo kinh sử của Nho giáo mà dừng lại ở chỗ chí
thiện.
Mọi hành vi đều bắt chước quy tắc mẫu mực xưa mà không bao giờ trái với
điều nhân)” [2, tr.196].
1.1.2. Sự nghiệp
Bước lên ngôi báu khi đã trưởng thành hoàn toàn về mặt thể chất cũng như về
trí lực, với tài năng, ý chí và sự thơng minh sẵn có, hồi bão của Minh Mạng là muốn
làm một “Lê Thánh Tông” của triều Nguyễn, một ông vua tạo ra pháp chế, điển
chương cho các triều vua sau. Và quả thật, nếu như Lê Thành Tông là vị vua nổi bật ở
triều Lê sơ thì Minh Mạng cũng là một minh quân dưới triều Nguyễn. Hai mươi mốt
năm trị vì, tuy khơng tránh được những sai lầm nhưng ông cũng đã để lại nhiều dấu ấn
trong trang sử sự nghiệp của mình.
Kế thừa một đất nước thống nhất với một lãnh thổ rộng lớn chưa từng có. Tuy
vậy, trước những yêu cầu cần thống nhất về mặt hành chính, yêu cầu về nâng cao hiệu
quả hoạt động bộ máy quan lại, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Minh
Mạng đã rút kinh nghiệm từ Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính trước khi
canh tân đất nước. Cơng cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng khá tồn diện,
trước hết là việc phân chia địa giới hành chính và các cấp bậc hành chính. Trong hai
năm 1831- 1832, Minh Mạng xóa bỏ cấp thành, trấn, doanh, thống nhất trong cả nước
- 10 -
đặt ra cấp liền dưới bộ máy Trung ương là cấp tỉnh, tổng cộng cả nước có 30 tỉnh.
Việc làm này đã hoàn thiện sự nghiệp thống nhất nước nhà mà triều Tây Sơn đã mở
đầu bằng võ cơng. Nó thay thế cách phân cấp hành chính và phân chia địa giới hành
chính thành nhiều cấp bậc khơng hợp lí, nhất là cấp “thành” duy trì tính chia cắt giả
tạo giữa ba miền Bắc, Trung, Nam, đưa đến sự lạm quyền, vượt quyền Trung ương của
cấp “thành”. Nó không chỉ thống nhất đặt một cấp dưới trung ương là cấp “tỉnh” mà
cịn phân bổ địa giới hành chính với duyên cách tương đối hợp lí, vừa theo truyền
thống phân bố dân cư theo sắc tộc, địa lí vừa sát với đặc điểm kinh tế để từ đó đặt lị sở
và trung tâm đô thị, thị tứ, thị trấn. Có thể nói, đây là thành cơng và cống hiến lớn nhất
cho lịch sử dân tộc của cải cách hành chính do Minh Mạng đề ra mà di sản tích cực
còn để lại cho đến ngày nay.
Đồng thời với việc thống nhất phân cấp quản lí hành chính, Minh Mạng tiến
hành cải cách bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương và xem đây là trọng
tâm của cải cách. Năm 1824, Minh Mạng thay Văn thư phòng bằng Nội Các. Đến năm
1834, một cơ quan hoàn toàn mới trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam được thiết
lập đó là Cơ mật viện với nhiệm vụ: “dự bàn những việc cơ mưu, trọng yếu, giúp đỡ
việc quân sự” [33, tr.233]. Sau việc thành lập Nội các và Cơ mật viện, Minh Mạng tuy
vẫn kế thừa tổ chức Lục bộ, Lục tự đã có từ trước nhưng coi trọng việc hoàn thiện, cải
tổ về tổ chức và hoạt động của nó. Cùng với những cải cách ở bộ máy Trung ương,
Minh Mạng cũng tiến hành cải cách bộ máy hành chính ở địa phương. Sự thành cơng
của cải cách là đã đảm bảo được cơ chế tập quyền cao độ của nền quân chủ chuyên
chế. Dưới nhà vua khơng có cơ quan nào độc quyền thay vua ở bất cứ một lĩnh vực
nào mà tất cả đều có sự ràng buộc, giám sát lẫn nhau của một tập thể liên đới chịu
trách nhiệm trước nhà vua.
Với tinh thần đề cao pháp trị, ngoài việc sử dụng bộ Hoàng Việt luật lệ, Minh
Mạng còn định thêm các điều luật mới như: định lệ chi tiết phân xử sự làm việc sai
lầm của các thuộc viên và các đường quan ở kinh đô và các tỉnh. Định lệ về việc xử
phạt quan lại tham nhũng và hối lộ, định lệ về việc xét các địa phương xử án hay hoặc
dỡ… nhằm hạn chế sự tha hóa của quan lại.
Khơng chỉ dừng lại ở hành chính, dân sự, Minh Mạng cịn quan tâm phát triển
kinh tế. Với chủ trương lấy dân làm gốc, Minh Mạng đã có những chính sách phát
triển nông nghiệp: từ việc chia lại ruộng đất công làng xã cho đến đẩy mạnh khai
hoang, củng cố hệ thống đê điều, lệnh cho các quan phủ, huyện thường xuyên chăm
sóc, khuyến khích nhân dân sản xuất. Mặc dù rất dè dặt trong việc giao lưu buôn bán
với phương Tây nhưng Minh Mạng cũng chú ý đến việc đặt quan hệ giao thương với
các nước xung quanh như Xiêm La, Mã Lai, Trung Hoa, Giang Lưu Ba…
- 11 -
Cùng với sự nghiệp kinh tế và chính trị, giáo dục dưới thời Minh Mạng cũng có
nhiều điểm đáng chú ý. Là người đặc biệt đề cao Nho học, lấy việc tuyển chọn nhân
tài thông qua khoa cử làm trọng cho nên bên cạnh cho xây dựng Văn miếu ở kinh đơ
và các tỉnh, Minh Mạng cịn quan tâm đặc biệt đến việc củng cố, phát triển Quốc Tử
Giám và chăm lo phát triển giáo dục, thi cử. Minh Mạng không những đặt phẩm trật
cao cho các viên quan được tuyển lựa vào Quốc Tử Giám mà còn coi trọng việc tuyển
lựa và nuôi dưỡng học sinh. Ở các tỉnh biên giới phía Bắc, Minh Mạng ra đặc ân
khơng luận ở trình độ văn hóa nào, nếu tỏ ra thông minh, hiếu học, sẽ cho phép tuyển
lựa mỗi huyện một người vào học Quốc Tử Giám. Đồng thời, số đậu kì thi Hương
đang chuẩn bị thi Hội được miễn phu phen, tạp dịch, thuế đinh, được cấp quần áo và
hưởng bổng hàng tháng. Phép thi được tổ chức quy củ. Tính từ khoa Nhâm Ngọ
(1822) đến khoa Mậu Tuất (1840) triều đình tổ chức 6 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 76 người
(56 tiến sĩ và 20 phó bảng). Ngồi ra, Minh Mạng khơng chỉ dừng lại ở “văn trị” mà
chính nhà vua cũng là một con người tài hoa, thể hiện qua nhiều tập thơ của ông như:
Ngự chế thi nhị tập, Ngự chế thi tam tập, tứ tập và các bài văn xuôi như Ngự chế văn
sơ tập, nhị tập…
Năm 1840, vua băng hà, thọ 50 tuổi, miếu hiệu là Thánh tổ nhân Hoàng đế.
Viết về sự nghiệp của Minh Mạng, Đại Nam thực lục có đoạn: “Vua là bậc tư chất
thượng thành, nối ngôi sau khi đại định, cố gắng mưu tính thịnh trị, tơ điểm cảnh
tượng thái bình, tra cứu điển xưa, sửa làm lễ nhạc, cẩn thận việc cân lường, xem xét
đến pháp độ, đặt khoa cử để lấy học trò, cày tịch điền để khuyên làm ruộng, cử hành
việc đi tuần thí để xét phong tục các địa phương, định việc sát hạch tại kinh kỳ để xét
công quá các quan lại, giảng tập việc vũ, tường tận ở khi mùa xuân duyệt binh , xét xử
việc hình, cẩn thận ở khi mùa thu xét lại. Khn phép rộng rãi, kín đáo, phẩm tiết xếp
đặt đầy đủ. Văn giáo thấm nhuần cả người Man, Thổ, võ công lẫy lừng tới nước Xiêm,
Lào. Đức như thánh, cơng như thần, khơng thể hình trạng kể hết được. Mở mang văn
minh, thịnh trị cho nước Đại Nam ta đến nghìn mn đời sau. Đẹp đẽ thay! Thịnh
thay.” [29, tr.890]
1.2. Khái quát về đội ngũ quan lại thời Minh Mạng
1.2.1. Cơ cấu và tổ chức đội ngũ quan lại
So với các triều đại trước, quan chế nhà Nguyễn bao quát nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực. Bên cạnh bộ máy hành chính, có nhiều quan chức, nhân viên chuyên ngành
kinh tế, văn hóa… Hệ thống quan lại chia thành hai ban: ban văn, ban võ.
Hệ thống quan văn dưới thời Minh Mạng được tổ chức, biên chế số lượng quan
lại tùy theo cơ quan với quy định rất chặt chẽ, với mỗi chức đều có số lượng cụ thể,ví
như ở sáu bộ: “Thượng thư 6 bộ, mỗi bộ 1 viên, cả thảy 6 viên, Tả hữu tham tri 6 bộ,
mỗi bộ 2 người, cả thảy có 12 người, Tả hữu thị lang 6 bộ, mỗi bộ 2 người, cả thảy có
- 12 -
12 người” [9, tr.28]. Xét theo phẩm hàm, theo Quan chế nhà Nguyễn, quan lại thời
Minh Mạng bao gồm cửu phẩm văn võ, với hai bậc chánh tòng gồm 384 giai phẩm.
Bảng 1. Tổ chức quan lại theo phẩm hàm dưới thời Minh Mạng
Phẩm trật
Nghạch
Chức vụ
Văn
Cần chánh điện Đại học sĩ, Văn minh điện Đại học
sĩ, Võ hiển điện Đại học sĩ.
Võ
Văn
Ngũ quân Đô đốc thống phủ, Đô Thống Chưởng
phủ sự.
Hiệp biện Đại học sĩ.
Tòng nhất phẩm
Võ
Văn
Ngũ dinh Đô đô Thống.
Thượng thư, Tổng đốc, Tả Hữu Đô ngự sử.
Chánh Nhị Phẩm
Võ
Văn
Ngũ quân Thống chế, Thống chế chư quân.
Tham tri, Tuần phủ, Tả hữu phó Đơ ngự sử.
Võ
Văn
Chưởng vệ, Đô chỉ huy sứ, Kinh thành Đề đốc,
Khinh xa đô úy.
Chưởng viện học sĩ, Thị lang, Đại lý Tự khanh.
Chánh nhất phẩm
Tòng nhị phẩm
Chánh tam phẩm
Võ
Văn
Tòng tam phẩm
Võ
Văn
Chánh tứ phẩm
Võ
Tòng tứ phẩm
Văn
Võ
Văn
Chánh ngũ phẩm
Võ
Nhất đẳng thị vệ, Chỉ huy sứ, Thân cấm binh vệ
úy.
Quang Lộc Tự Khanh, Thái bộc Tự Khanh, Thơng
chính phó sứ.
Binh mã sứ, Tinh binh vệ úy, Thân cấm binh phó
vệ úy, Vệ úy chư qn.
Hồng lơ Tự khanh, Đại lý tự thiếu khanh, Thái
thường tự thiếu khanh, Tế tửu.
Quân cơ nhị đẳng thị vệ, Binh mã phó sứ, Tinh
binh phó vệ úy.
Thượng bảo thiếu khanh, Quang Lộc tự thiếu
khanh, Thái bộc tự thiếu khanh, Chưởng ấn cấp sự
trung.
Thành thủ úy, Phó quản cơ, Tuyên úy sứ, Kỵ đô
úy, Cai đội.
Hồng lô tự Thiếu khanh, Giám sát ngự sử các đạo,
Lục khoa Cấp sự trung, Hàn lâm viện thị độc, Viên
ngoại lang.
Tam đẳng thị vệ, Thân cấm binh, Chánh đội
trưởng, Phòng thủ úy.
- 13 -
Văn
Hàn lâm viện thị giảng, Hàn lâm viện thừa chỉ,
Miếu lang, Giám phó, Phó ngự y.
Võ
Tinh binh chánh đội, Tứ đẳng thị vệ, Cai đội thân
cấm binh, Chánh đội trưởng suất đội.
Hàn lâm viện trước tác, Chủ sự, Đồng Tri phủ, Tri
huyện Kinh huyện.
T Tòng ngũ phẩm
Văn
Chánh lục phẩm
Võ
Văn
Tòng lục phẩm
Võ
Văn
Chánh thất phẩm
Võ
Văn
Tòng thất phẩm
Võ
Văn
Chánh bát phẩm
Võ
Văn
Tòng bát phẩm
Võ
Văn
Chánh cửu phẩm
Võ
Văn
Tòng cửu phẩm
Võ
Ngũ đẳng thị vệ, Cai đội ngạch ngoại, Cẩm y hiệu
úy, Tinh binh chánh đội trưởng.
Hàn lâm viện tu soạn, Tri huyện, Huyện thừa kinh
huyện, Học chánh, Thông phán.
Thân cấm binh chánh đội trưởng, An kỵ úy, Thổ
binh chánh đội trưởng xuất đội.
Hàn lâm viện biện tu, Tư vụ, Lục sự, Giám thừa,
Huyện thừa.
Thân cấm binh Phó đội trưởng, Nội tạo tư chánh,
Tượng tinh binh chánh đội trưởng.
Hàn lâm viện kiểm thảo, Miếu thừa, Thái y viện y
chánh, Chiêm hậu ty linh đài lang.
Tinh binh đội trưởng, Phụng án úy, Dịch thừa,
Tòng thất phẩm thiên hộ.
Hàn lâm viện điển tịch, Huấn đạo, Thái y viên
ngoại khoa y chính, Chánh bát phẩm thư lại.
Chánh bát phẩm đội trưởng, Chánh bát phẩm bá
hộ, Dịch mục, Chánh bát phẩm chánh tư tượng.
Hàn lâm viện điển bạ, Văn miếu tự thừa, Quốc Tử
Giám điển bạ, Y phó.
Tịng bát phẩm đội trưởng, Tòng bát phẩm bá hộ,
Thừa ân úy, Tòng bát phẩm phó tư tượng.
Hàn lâm viện cung phụng, Chánh cửu phẩm thư
lại, Tượng y ty tượng y phó, Tự thừa.
Chánh cửu phẩm đội trưởng, Chánh cửu phẩm bá
hộ, Chánh cửu phẩm tượng mục.
Hàn lâm viện đãi chiếu, Quốc Tử Giám giám điển,
Tòng cửu phẩm thư lại, Thái y viện ngoại khoa y sinh.
Tòng cửu phẩm đội trưởng, Tòng cửu phẩm bá hộ,
Tòng cửu phẩm tượng mục.
“Nguồn: Quan chế nhà Nguyễn, Đại Nam thực lục - Tập 1”
- 14 -
Như vậy, dưới thời Minh Mạng, cơ cấu và tổ chức quan lại được hình thành,
quy định chặt chẽ về số lượng quan văn, võ, quan tùy tùng cho đến việc quy định số
lượng từng chức quan trong các cơ quan của bộ máy chính quyền. Tuy nhiên, quan chế
nhà Nguyễn nói chung, triều Minh Mạng nói riêng phát triển nhiều mặt nhưng khá
cồng kềnh, một bộ máy quan liêu quá nặng nề tạo điều kiện cho tham quan ơ lại phát
triển. Chính vì vậy, việc hồn thiện và tăng cường chế độ thanh tra, giám sát quan lại
nhằm quản lí, thanh lọc, nâng cao hiệu quả hoạt động đội ngũ quan lại đóng vai trị
quan trọng.
1.2.2. Chế độ tuyển dụng
Chọn người ra làm quan là việc hết sức quan trọng đối với các triều đại phong
kiến, là khâu quan trọng hàng đầu trong điều hành đất nước. Dưới triều Minh Mạng,
việc tuyển dụng quan lại được tổ chức tương đối chặt chẽ theo ba hình thức: nhiệm tử
(hay ấm sung), tiến cử (hay bảo cử) và khoa cử nhằm chọn lựa những người có đức, có
tài ra phị vua giúp nước.
Trong ba hình thức nói trên, đội ngũ quan lại trong bộ máy nhà nước dưới triều
Minh Mạng được tuyển dụng chủ yếu qua khoa cử. Để có thể trở thành người có chức
vụ tham gia nắm quyền lực trong bộ máy quản lí nhà nước, những người này phải trải
qua một thời gian đào tạo, có nghĩa họ phải đi học, phải thi đỗ. Đó là điều bắt buộc đối
với các quan lại từ cấp huyện trở lên, tức là đội ngũ những người thuộc ngạch quan
chức của triều đình. Người được bổ nhiệm giữ chức Tri huyện về ngun tắc phải có
trình độ cử nhân, tú tài cũng có thể được bổ dụng nhưng chỉ trường hợp đặc biệt.
Với tinh thần chuộng kẻ sĩ: “Quốc gia chỉ quý người hiền tài, dù có hạt châu
Minh Nguyệt, hịn ngọc chiều thặng cũng khơng đáng q ” [21, tr.134], trong suốt thời
gian trị vì, vua Minh Mạng thường xuyên cho mở các kì thi Nho học. Năm 1822, nhà
vua bắt đầu mở ân khoa thi Hội. Tháng 7 năm 1825, triều đình bắt đầu định lại phép
thi Hương, quy định 3 năm 1 khoa thi. Tính từ năm 1822 đến năm 1840, triều đình đã
tổ chức được 8 khoa thi Hương lấy đỗ 719 người và 6 khoa thi Hội lấy đỗ 76 người .
Như vậy, thi cử dưới triều Minh Mạng là biện pháp chủ yếu để phát hiện nhân
tài và tuyển chọn quan lại. Nhưng trong thực tế, có khơng ít những người tài giỏi lại
khơng đỗ cao, thậm chí khơng đỗ qua bất kì một cấp thi tuyển nào. Bên cạnh đó, cũng
khơng ít người do khn phép của trường thi hoặc vì lí do nào đó khơng được học
hành, thi cử. Đối với những người này, tiến cử là một phương thức để thu hút người
hiền lương, tài đức tham gia xây dựng bộ máy nhà nước. Nhà vua từng nói: “kẻ hiền
tài là đồ dùng của quốc gia, khi chưa gặp thời náu mình ẩn tơng tích thì vua chúa làm
sao mà biết được, cho nên ngồi việc khoa cử ra cịn cần có người đề cử. Trẫm từ khi
mới lên ngơi, gắng sức mưu đồ cho nước thịnh trị, rất muốn trong triều có nhiều kẻ sĩ
đức hạnh tốt, mà khơng bỏ sót người hiền tài nào nơi thơn dã để tô điểm sự nghiệp
- 15 -
nhà vua. Nay hạ lệnh ở kinh đô, quan văn từ Tham tri, võ từ phó Đơ đốc thống chế trở
lên, ở ngồi thì các quan địa phương đều phải đề cử những người mình biết, khơng kể
nhà thế chỉ cần có thực tài để xét sao lục ra dùng” [21, tr.147 - 148].
Khơng những vậy, vua cịn xuống chiếu cho các địa phương mỗi huyện phải
hiến học sinh, mỗi huyện 1 người để đưa vào học trong Quốc Tử Giám. Việc tiến cử
người tài khơng chỉ mình vua làm mà cịn lấy triều đình làm tai mắt để soi xét việc
hay, dở của người được tiến cử.
Ngoài khoa cử và bảo cử, nhiệm tử cũng là một biện pháp để tuyển dụng quan
lại. Năm 1820, Minh Mạng ban ân chiếu cho quan văn võ tam phẩm trở lên (trừ con đẻ
của công thần vọng các đã định quan tước) đều được ấm thụ một người con đẻ vào học
Quốc Tử Giám. Đến năm 1829, nhà vua ban dụ: “Ở kinh, các con đẻ của quan tứ
phẩm và một con trưởng của quan ngũ phẩm từ 15 tuổi trở lên tình nguyện vào Giám
đọc sách đều cho khai rõ họ tên được bộ Hộ làm sớ tâ u lên chờ chỉ bổ vào làm học
sinh ở Quốc Tử Giám” [9, tr.110]. Trong trường hợp các quan theo lệ con được ấm thụ
mà viên quan ấy khơng có con trai thì được phép ni một người con của thân thích
trong họ mình làm thừa kế để hưởng tập ấm.
Như vậy, bảo cử và nhiệm tử tuy chỉ là thứ yếu song đã được các vua triều
Nguyễn thực hiện thường xuyên. Với chế độ này, nhà Nguyễn nói chung và thời Minh
Mạng nói riêng đã tuyển chọn được nhiều người tài giỏi trên các lĩnh vực. Đặc biệt đối
với các trường hợp tiến cử, đề cử nhà vua quy định quyền hạn của người tiến cử và
thưởng phạt trong những trường hợp đúng hoặc sai theo tiêu chuẩn tài năng, đức độ
của người được tiến cử. Sự nghiêm khắc, chặt chẽ trong khâu tuyển dụng này là biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đội ngũ quan lại của Minh Mạng. Tuy nhiên,
cũng không tránh khỏi bọn “sâu mọt” luồn lách vào bộ máy nhà nước. Chính vì thế,
Minh Mạng phải tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát quan lại.
1.2.3. Chế độ lương bổng
Lương bổng của quan lại ngày xưa chủ yếu là nhận bằng tiền, thóc, gạo. Hàng
tháng hoặc hàng năm, các quan lại đều được cấp lương bổng gồm một số tiền và một
số gạo, nhiều hay ít tùy theo từng phẩm hàm, chức tước. Nhà Nguyễn hầu như bỏ hẳn
chế độ cấp lộc điền cho quan lại, chỉ cấp một ít ruộng thờ gọi là tự điền cho những
công thần được ưu đãi. Dưới đây là biểu lương đồng niên thời Minh Mạng (1820 1839) và từ năm 1840 trở đi:
- 16 Bảng 2. Biểu lương đồng niên thời Minh Mạng (1820 - 1839) và từ năm 1840 trở đi
Từ 1820 - 1839
TT
Phẩm hàm
Tiền
(quan)
Gạo
(phương)
Từ năm 1840 trở đi
Tiền
xuân
Tiền
(quan)
Gạo
(phương)
phục
Tiền
xuân
phục
1
Chánh nhất
600
600
70
400
300
70
2
3
Tòng nhất
Chánh nhị
360
300
360
300
60
50
300
250
250
200
60
50
4
Tòng nhị
156
156
30
180
150
30
5
6
Chánh tam
Tòng tam
120
90
120
90
20
16
150
120
120
90
20
16
7
8
Chánh tứ
Tòng tứ
60
50
60
50
10
10
80
60
60
50
10
10
9
10
Chánh ngũ
Tòng ngũ
35
30
35
30
9
8
10
35
35
30
9
8
11
Chánh lục
25
25
7
30
25
7
12
13
Tòng lục
Chánh thất
22
20
22
20
6
5
25
22
22
20
6
5
14
15
Tòng thất
Chánh bát
20
18
20
18
5
4
22
20
20
18
5
4
16
17
Tòng bát
Chánh cửu
18
16
18
16
4
4
20
18
18
18
4
4
18
Tòng cửu
16
16
4
18
18
4
“Nguồn: Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn”
Trong những năm 1820 đến 1839, Minh Mạng vẫn áp dụng biểu lương từ năm
Gia Long (1818). Tuy nhiên, từ biểu lương này cho thấy, lương đồng niên của viên
quan Thượng thư hàm chánh nhị phẩm (cả triều đình chỉ có 6 viên quan) nhưng chỉ có
300 quan tiền, 300 phương gạo và 50 quan tiền xuân phục. Như vậy, mỗi tháng họ chỉ
được lĩnh 25 quan tiền, 25 phương gạo và 4 quan tiền áo xuân phục. Còn hàng viên
chức thấp như chánh bát, cửu phẩm hay tịng bát cửu phẩm thì lương bổng cũng quá
thấp. Lương đồng niên của chánh, tòng bát phẩm chỉ có 18 quan tiền, 18 phương gạo
và 4 quan tiền xuân phục (mỗi tháng chưa được 2 quan tiền và 2 phương gạo), không
bằng học bổng cấp cho giám sinh theo học tại Quốc Tử Giám. Tình trạng lương bổng
quá ít ỏi ấy, nhất là lương của các viên quan phẩm trật thấp, khiến cho Minh Mạng
thấy cần phải có một sự điều chỉnh. Năm 1839, theo lời tâu của các đại thần trong
triều: “xin sai bộ Hộ châm chước lưu giảm bớt lương của những chức cao thêm lương
cho những chức thấp, để tỏ sự công bằng vừa phải” [29, tr.776], Minh Mạng đã chuẩn
- 17 -
tấu và cho giảm bớt lương bổng của các chức quan lớn và tăng lương cho các chức
quan thấp (vốn chiếm số lượng đông hơn) nhằm đảm bảo đời sống cho quan lại để họ
giữ lòng liêm khiết, công chung. Biểu lương mới này được áp dụng từ năm 1840 trở về
sau.
Từ năm Minh Mạng thứ 5 (1824) trở về sau, triều Nguyễn còn quy định cụ thể
thời gian lĩnh lương trong năm của quan lại. Theo lời chiếu ban bố vào năm này thì
quan viên văn võ từ Tam phẩm trở lên sẽ lĩnh lương vào hai kì: tháng giêng và tháng 7
hằng năm. Từ Tứ phẩm trở xuống đến Thất phẩm cả năm 4 kì lĩnh lương, lấy 4 tháng
đầu quý (1 - 4 - 7 - 10 âm lịch) làm kì lĩnh lương. Cịn lại, Bát cửu phẩm thì mỗi tháng
1 kì lĩnh lương.
Ngồi lương bổng, nhà nước còn cấp thêm tiền “dưỡng liêm” cho các quan cấp
phủ, huyện, châu để cho họ giữ trọn lòng thanh bạch, liêm khiết, hạn chế đi vào con
đường tham ô, tham nhũng.
1.3. Cơ sở để vua Minh Mạng thực hiện chế độ thanh tra, giám sát quan lại
1.3.1. Kế thừa kinh nghiệm thanh tra, giám sát quan lại của các triều đại trước
Đối với các nhà nước phong kiến Á Đông, vua được mệnh danh là thiên tử, làm
nhiệm vụ thay trời trị dân, vua có quyền lực rất lớn. Tuy nhiên, tính chun chế của
hồng đế Á Đông không phải là tuyệt đối, nhà vua không thể chi phối tất cả. Để đảm
bảo cho sự tập quyền vững mạnh, thống nhất tương đối giữa trung ương với địa
phương, nhà vua cần phải nhờ đến cơ quan Ngự sử giám sát và chế độ ngôn quan can
gián.
Ở Trung Quốc, từ thời Xuân thu - Chiến quốc đã đặt ra chức quan Ngự sử, trách
nhiệm là quản lí văn thư. Từ Tần Hán về sau, Ngự sử thành quan giám sát. Thời Tây
Hán bắt đầu có Ngự sử đài. Đến thời Đường thì Ngự sử đài vẫn cịn ở vị trí cao, thành
cơ quan có tính tương đối độc lập với ba bộ phận: đài viện, điện viện, sát viện. Bên
cạnh chế độ Ngự sử giám sát, các triều đại phong kiến Trung Hoa đều đặt ra chế độ
ngôn quan - can gián. Quan gián nghị thường được gọi là “ngôn quan”cùng phối hợp
với Ngự sử đài làm việc. Nếu như cơ quan Ngự sử giám sát theo dõi các quan văn võ
thì quan Gián nghị có các chức là: Cấp sự trung, Tán kỵ thường thị, Gián nghị đại
phu… Quyền hạn Gián nghị khơng cao, nhưng triều đình nể trọng, được xem là tai mắt
của Tể tướng trước nhà vua.
Ở Việt Nam vào thời Trần, bắt đầu có chức Ngự sử đài. Các chức quan như
Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu thường lấy Hành khiển kiêm làm. Đến thời Lê, kế
thừa triều Trần đặt Ngự sử đài ở vị trí quan trọng, có đủ các chức Đơ ngự sử, phó Đơ
ngự sử và Thiêm Đơ ngự sử. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, cùng với cuộc cải
cách hành chính nhà vua đã xây dựng chế độ thanh tra, giám sát đối với đội ngũ quan
lại như là một biện pháp hữu hiệu nhằm “khuyến khích và buộc quan lại đương chức
- 18 -
tiếp tục trau dồi năng lực, đạo đức và loại bỏ kịp thời những người thối hóa, biến
chất” [32, tr.40]. Theo đó, năm 1471, Lê Thánh Tơng bên cạnh đặt Lục bộ, Lục tự còn
đặt thêm Lục khoa. Đây là tổ chức thanh tra, giám sát của 6 Bộ, có trách nhiệm xem
xét hành vi sai trái của quan lại. Mục đích của việc tăng cường thanh tra, giám sát đội
ngũ quan lại là “để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng ràng buộc
nhau, khinh trọng cùng kiềm chế nhau, uy quyền không giả mà lẽ nước khó lay ” [32,
tr.40]. Ngồi ra, Lê Thánh Tơng hằng năm cịn cử người trong Lục bộ, Lục tự, Lục
Khoa đi về dò xét phẩm cách quan lại các địa phương. Đồng thời để giám sát quan lại
ở địa phương, chính quyền Lê Thánh Tơng đã đặt cơ quan giám sát ở 13 đạo gọi là
Thừa ty, Hiến ty với nhiệm vụ đàn hặc, thanh tra quan lại.
Học tập kinh nghiệm từ các triều đại trước, Minh Mạng cũng ý thức được rằng
cần phải xây dựng một chế độ thanh tra, giám sát quan lại đủ mạnh để “ràng buộc
được lẫn nhau, trừ hẳn được mối tệ” [23, tr.7]. Là vị vua sùng Nho, Minh Mạng từng
đọc nhiều bộ Hội điển, sử ký của Trung Quốc và Việt Nam như Hán thư, Minh sử, Đại
Minh hội điển, Đại Thanh hội điển, Hồng Đức luật lệ . Do đó đã kế thừa nhiều kinh
nghiệm của các triều đại trước trong việc xây dựng chế độ thanh tra và giám sát quan
lại trong triều đại mình.
Năm 1829, phỏng theo nhà Minh, Thanh ở Trung Quốc, Minh Mạng đã đặt Nội
các. Ngồi nhiệm vụ văn thư thì Nội các cịn có quyền giám sát Lục bộ cùng các cơ
quan ngang bộ: “đường quan Lục bộ nghĩ chỉ hoặc bàn tâu việc gì có chỗ khơng đúng
thì cho Nội các trích ra tham tấu” [23, tr.7]. Tuy nhiên, không giống như nhà Minh,
Thanh, Minh Mạng đã cơ cấu một Nội các có vai trò quan trọng nhưng chức phận ở
dưới 6 Bộ, phẩm hàm của trưởng quan Nội các cao nhất chỉ Chánh tam phẩm đứng sau
Thượng thư các Bộ. Nhà vua nói: “phương chi quan chức trong Nội các ngày nay trật
chỉ có Tam phẩm mà đứng hàng thứ dưới 6 bộ, không phải đứng đầu trăm quan mà
giữ mọi việc như nhà Minh, Thanh được” [5, tr.50].
Năm 1832, Minh Mạng đã đặt ra chức ngôn quan mà theo ông: “từ xưa đã có,
trải qua các đời Hán, Đường, Tống đến Minh, Thanh đời nào cũng có mặt, tên gọi
khơng giống nhau nhưng cốt yếu là nhiệm vụ kiểm soát và đà n hặc. Xét hội điển của
Bắc triều quy chế về chức Đài hiến đến đời Thanh mới đủ. Triều đại ta tự có chệ độ
riêng khơng giống với điển lễ nhà Thanh nhưng điều gì nên làm thì làm” [23, tr.361].
Đứng đầu ngôn quan là các chức Tả hữu Đơ ngự sử và Tả hữu phó Đơ ngự sử.
Bên cạnh học tập kinh nghiệm từ các triều đại phong kiến Trung Quốc, Minh
Mạng còn kế thừa chế độ thanh tra, giám sát quan lại từ các triều vua ở nước ta, đặc
biệt là Lê Thánh Tơng - một hình mẫu mà Minh Mạng muốn hướng đến. Nếu như Lê
Thánh Tông đặt Lục khoa bên cạnh Lục bộ, Lục tự để xem xét 6 Bộ, cử người đi về
- 19 -
các đạo dò xét phẩm cách quan lại địa phương hay đặt ra tổ chức giám sát ở 13 đạo
nhằm đàn hặc, thanh tra quan lại ở địa phương thì Minh Mạng cũng áp dụng những
điều này trong việc thanh tra, giám sát quan lại nhưng ở mức cao hơn và hồn chỉnh
hơn rất nhiều. Điển hình là việc thành lập Đơ sát viện - cơ quan đóng vai trị kiểm sốt
và giám sát cả triều đình vào năm 1832. Đây là cơ quan giám sát cao nhất “thống lĩnh”
cả Lục khoa và 16 viên giám sát ngự sử mang tính chất độc lập cao, khơng chịu sự
kiểm tra, giám sát của bất kì cơ quan nào khác trong bộ máy nhà nước trừ vua. Bên
cạnh đó, Minh Mạng cũng đặt ra Giám sát ngự sử của 16 đạo: “chuyên giữ việc dâng
nộp, xét hạch, chỉnh đốn phép làm quan để nghiêm phong hóa pháp luật” [30, tr.33] và
chế độ Kinh lược đại sứ để “điều tra nỗi đau khổ của sinh dân và điều hay dở của
chính sự” [30, tr.82].
Như vậy, để hoàn chỉnh chế độ thanh tra, giám sát quan lại, Minh Mạng đã kế
thừa rất nhiều từ kinh nghiệm của các triều đại phong kiến trước đó kể cả Việt Nam và
Trung Quốc. Tuy nhiên, Minh Mạng khơng áp dụng rập khn, máy móc mà đã có
những sự điều chỉnh, sáng tạo riêng, đặc biệt là cơ chế thanh tra, giám sát chéo lẫn
nhau giữa các cấp bậc hành chính là một sáng tạo lớn của triều Minh Mạng.
1.3.2. Nhu cầu củng cố và xây dựng bộ máy nhà nước trung ương tập quyền
Xây dựng bộ máy trung ương tập quyền là mục tiêu của nhà nước quân chủ
Việt Nam để khẳng định đế quyền trên cả nước. Nhà nước trung ương mạnh mới
đương đầu được với nạn ngoại xâm hung hãn và mạnh gấp nhiều lần ln tìm cách
xâm lược, mới đủ khả năng đàn áp các cuộc khởi nghĩa và nội biến phong kiến ngày
càng trở nên khốc liệt và thường xuyên, mới đủ thực lực xây dựng đất nước và mở
rộng phạm vi ảnh hưởng ra các nước lân bang.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long nhưng đến năm
1804 mới xưng đế, gọi là Cao hoàng đế - thời điểm xác lập thiết chế tập quyền của
triều Nguyễn. Từ đó, Gia Long đã khơng ngừng củng cố và xây dựng bộ máy nhà
nước trung ương tập quyền ngày một vững mạnh.
Bên cạnh các biện pháp tăng tính cực quyền như vừa nắm vương quyền vừa
nắm thần quyền, đặt lệ tứ bất… thì các vua triều Nguyễn cũng áp dụng chế độ thanh
tra, giám sát quan lại nhằm tăng tính ràng buộc, kiềm chế lẫn nhau giữa các cơ quan
trong triều đình và giữa triều đình với địa phương để hạn chế sự chuyên quyền, từ đó
tăng quyền lực trong tay nhà vua với một cơ chế tập quyền tuyệt đối.
Ngay từ khi mới lên ngôi, cùng với quá trình xây dựng bộ máy nhà nước trung
ương tập quyền, vua Gia Long cũng đã bắt đầu đặt các chức quan giám sát quan lại.
Năm 1804, vua Gia Long đặt các chức Đơ ngự sử và phó Đơ ngự sử trực thuộc Ngự
sử đài, điều đó chứng tỏ cơng việc sát hạch và quản lí quan lại dưới triều vua Gia
- 20 -
Long vẫn được quan tâm thực hiện trong một phạm vi nhất định. Tuy nhiên thực
trạng tổ chức bộ máy hành chính từ triều đình đến địa phương dưới thời Gia Long bộc
lộ khá rõ tính chất đơn giản, lỏng lẻo trong thiết chế, tính chất phân quyền trong việc
quản lí. Nhiều cơ quan hành chính ở trung ương chưa được thiết lập một cách đầy đủ
và phần nhiều còn giản lược. Nhiều cơ quan chức năng quan trọng của bộ máy hành
chính chưa được thành lập như: Viện Đô Sát, Đại lý tự… Một số cơ quan tuy đã
thành lập nhưng hoạt động kém hiệu quả như Quốc Tử Giám hay kể cả 6 Bộ. Đồng
thời, cách phân cấp hành chính cịn nhiều tầng. Bắc thành và Gia Định thành do hai vị
Tổng trấn đứng đầu, quyền hạn rất lớn, dường như một phó vương cai quản một phần
ba đất nước. Tình trạng đó thường dẫn đến lạm quyền và có nguy cơ tiếm vị.
Như vậy, có thể thấy một trong những hạn chế của bộ máy hành chính thời Gia
Long là cơng tác thanh tra, giám sát giữa các cơ quan trong triều đình và giữa triều
đình trung ương với các quan lại tại địa phương thường xuyên bị gián đoạn bởi lẽ
thiếu một cơ quan giám sát chun trách. Hạn chế nói trên chính là hệ quả của việc
giao quyền quá lớn cho các viên quan đứng đầu mỗi trấn và hai tổng trấn Bắc thành
và Gia Định thành mà tác động của nó cịn kéo dài sang đến thời Minh Mạng.
Trước yêu cầu củng cố và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương tập
quyền vững mạnh, đồng thời giải quyết những hạn chế trên, hơn ai hết Minh Mạng ý
thức được cần phải thực hiện hai cơng việc: thứ nhất, xóa bỏ cấp trấn, thành, thống
nhất các đơn vị hành chính; thứ hai, hoàn thiện chế độ thanh tra, giám sát quan lại. Đó
là lí do đưa đến cuộc cải cách hành chính năm 1831 - 1832 với hai nhiệm vụ trọng
tâm là phân chia địa giới hành chính, các cấp bậc hành chính và cải cách bộ máy hành
chính từ trung ương đến địa phương. Trong đó có việc củng cố và tăng cường thanh
tra, giám sát đội ngũ quan lại - biện pháp góp phần tăng quyền lực cho Hồng đế với
một thiết chế tập quyền hoàn hảo nhất của triều Nguyễn.
1.3.3. Nhu cầu xây dựng một đội ngũ quan lại có năng lực và hiệu quả
Quan lại là trụ cột của đất nước, là những người thừa lệnh vua quản lí các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội… Đất nước thịnh hay suy phụ thuộc rất
lớn vào năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ quan lại này. Với quan niệm “trị
quan hơn trị dân” Minh Mạng đã ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một
đội ngũ quan lại có chất lượng và hoạt động hiệu quả.
Tuy nhiên ở buổi đầu của triều Minh Mạng, đội ngũ quan lại tồn tại hai biểu
hiện căn bản. Một là, năng lực làm việc còn hạn chế. Hai là, tệ nạn quan lại tham ô,
tham nhũng rất phổ biến khiến cho đời sống nhân dân ngày càng thêm cực khổ.
Những quan lại đứng đầu các cơ quan hành chính tại triều đình chỉ có một số ít
là có học như Trịnh Hồi Đức, Đặng Đức Siêu, Lê Quang Định cịn phần lớn là võ
- 21 -
quan. Tình trạng này ở các trấn cịn nặng nề hơn nữa. Các trấn thủ phần lớn là võ
quan, hầu hết trong số họ không biết chữ Hán. Những sớ tâu gửi về triều đình họ phải
nhờ người viết thay. Đồng thời, do việc phân cấp hành chính thành Bắc thành và Gia
Định thành cũng như giao quyền hạn quá lớn cho hai Tổng trấn cho nên trong q
trình hoạt động tổ chức quản lí thành tỏ ra cồng kềnh với đội ngũ quan lại tha hóa làm
cho hiệu lực quản lí sút kém. Năm 1827, vua Minh Mạng đã từng nói về mối tệ ở Bắc
thành: “Hình tào không giữ đạo công mà xét xử… xoay xở lấy tiền… Khơng xoay xở
được thì buộc tội. Hộ tào thì trên dưới thơng đồng, mưu riêng kiếm lợi, thu tiền thì
chọn đếm, thu thóc thì sàng sảy, khó dễ cho dân chúng cung nộp. Binh tào thì binh
lính thiếu thốn, sai trấn, phủ, huyện địi bắt, phải đút lót thông đồng sách nhiễu , sai
việc riêng…” [3, tr.123].
Minh Mạng đã từng bất bình trước cảnh quan lại tham tang, nhũng lại, thương
xót cho dân chúng. Vua nói: “Trẫm ni dân như ni con, thực khơng kể phí tổn .
Nhưng bọn quan lại tham lam, xảo quyệt, ngấm ngầm chứa đầy túi riêng, mà kẻ quan
quả cô độc lại không được thấm nhuần ơn thực” [26, tr.104].
Chính vì thế trong suốt thời gian trị vì, Minh Mạng thường xuyên tiến hành
khảo hạch quan lại. Vị quan nào thanh liêm, siêng năng, khơng tham ơ thì liệt làm
hạng ưu, đợi chỉ đề bạt. Ngược lại, người nào coi thường pháp luật, tham ơ, nhũng
nhiễu dân chúng thì trừng trị nặng. Việc làm này của Minh Mạng thể hiện hai điều:
thứ nhất, chất lượng đội ngũ quan lại chưa cao cho nên nhà vua phải nhiều lần khảo
hạch quan lại, đặc biệt là ở Bắc thành. Thứ hai, thể hiện quyết tâm xây dựng một đội
ngũ quan lại có năng lực, hiệu quả của vị vua này. Quyết tâm đó càng thể hiện rõ khi
Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách hành chính vào những năm 1831 - 1832.
Với ước muốn tạo dựng một đất nước thịnh trị lấy văn trị làm nền tảng. Tuy
nhiên, đứng trước thực tế chất lượng đội ngũ quan lại như trên đã đặt ra yêu cầu cần
thiết phải xây dựng được một đội ngũ quan lại có năng lực và hoạt động thật hiệu quả.
Đồng thời theo châm ngôn “đa quan nhiễu dân”, Minh Mạng không chủ trương tăng
cường số lượng mà quan tâm nhiều hơn đến chất lượng quan lại qua khoa cử, khảo
khóa, giám sát, thưởng phạt. Chính vì vậy, việc hồn thiện chế độ thanh tra, giám sát
quan lại được Minh Mạng đặc biệt chú ý nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
1.3.4. Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa
Trị vì đất nước trong bối cảnh nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn với những
biểu hiện khủng hoảng, Minh Mạng cho rằng việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội có vai trị quan trọng trong việc trị vì và phát triển đất nước. Để thực thi điều này,
Minh Mạng phải thông qua một đội ngũ quan lại có năng lực, thanh liêm và hoạt động
- 22 -
thật đồng bộ, có hiệu quả. Đó là tiền đề thúc đẩy việc hoàn thiện chế độ thanh tra,
giám sát quan lại với mục đích nhanh chóng ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.
Bước sang thế kỉ XIX, khi nền kinh tế thế giới có những bước chuyển biến
mạnh mẽ, sự giao lưu buôn bán được mở rộng thì kinh tế Việt Nam lúc này vẫn đang
nằm trong phương thức sản xuất phong kiến với những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu.
Nơng nghiệp vẫn đóng vai trị chủ đạo. Tuy nhiên, ruộng đất cơng - cơ sở để xây
dựng tiềm lực kinh tế phong kiến bị giảm sút nghiêm trọng. Năm 1836, bộ Hộ báo
cáo: tổng diện tích ruộng đất thực canh là 4.063.892 mẫu, trong đó ruộng tư là
3.396.584 mẫu (chiếm 83%), ruộng cơng chỉ cịn 580.363 mẫu (chiếm 17%). Ruộng
đất cơng bị thu hẹp khiến nông dân mất thiếu hụt tư liệu sản xuất. Đồng thời, thiên tai
liên tiếp xảy ra: “Các năm 1828, 1833, 1840 hầu như cả vùng đồng bằng Bắc Kì bị
ngập lụt” [31, tr.446]. Theo đó là mất mùa, đói kém, nhân dân phiêu tán rất nhiều:
“Năm 1833, dân đói đến kiếm ăn ở Hải Dương hơn 27.000 người” [31, tr.446]. Cùng
với đó, nhà nước thực hiện chế độ cơng tượng và độc quyền về ngoại thương khiến
cho kinh tế đã kém phát triển lại càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, nhiều cuộc khởi
nghĩa của nơng dân đã bùng nổ. Trong suốt thời gian cầm quyền, Minh Mạng đã
chứng kiến gần 300 cuộc khởi nghĩa của nông dân. Sự phát triển chậm chạp của nền
kinh tế, sự bất ổn của đời sống xã hội đã đặt ra yêu cầu cần phải nhanh chóng ổn định
lại kinh tế - xã hội, có như vậy thì giấc mơ xây dựng một đất nước “Đại Nam” của
Minh Mạng mới thực hiện được.
Đi tìm nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của nền kinh tế và bất ổn xã hội, ngoài
sự chi phối của ý thức hệ phong kiến vốn đã lỗi thời, một nguyên nhân chủ yếu đưa
đến sự suy yếu của nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đó là sự hoạt
động kém hiệu quả, chuyên quyền, tham nhũng của đội ngũ quan lại - những người
nắm trong tay trọng trách điều hành và phát triển đất nước. Chính Minh Mạng cũng
phải thừa nhận: “Quan lại coi pháp luật như hư văn, xoay xở nhiều vành, chỉ cốt lấy
tiền, khơng được thì buộc tội” [27, tr.588]. Sự bất chính của quan trên đã tạo điều kiện
thuận lợi cho hào lí tổng, xã hồnh hành, cướp đoạt ruộng đất của nơng dân. Theo báo
cáo của Tổng đốc Bình - Phú là Vũ Xuân Cẩn: “Năm 1838, ở đây ruộng công chỉ
5.000 mẫu, ruộng tư đến 17.000 mẫu, mà nhà hào phú kiêm tính 1.000 đến 2.000
mẫu, người nghèo khơng một thước, một tấc đến nỗi phải làm đầy tớ cho người ” [29,
tr.192]. Năm 1831, Nguyễn Công Trứ cũng tâu rằng: “Nhiều kẻ hào cường điêu ngoa
giảo hoạt, thường mượn oai quyền thế, dọa nạt bình dân, hiếp chế quan trên. Quan
bản hạt khơng khỏi có chút e dè, đến nỗi thiên vị chúng, làm cho kẻ gian xảo càng
nhiều mãi ra” [27, tr.228].
- 23 -
Chính vì vậy, muốn phát triển kinh tế và ổn định đời sống xã hội, vua Minh
Mạng không thể khơng chú ý đến việc hồn thiện chế độ thanh tra, giám sát quan lại biện pháp quan trọng để xây dựng nên một đội ngũ quan lại có năng lực, thanh liêm
và làm việc hiệu quả.
Đồng thời, năm 1831 - 1832, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính,
xóa bỏ cấp thành, trấn, doanh chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ trực thuộc. Sự
phân cấp và tổ chức lại các đơn vị hành chính địi hỏi phải phân bổ lại đội ngũ quan
lại ở các địa phương. Từ đó cũng đặt ra yêu cầu tăng cường hoạt động thanh tra, giám
sát quan lại từ trung ương đến địa phương nhằm xây dựng cơ chế vận hành, phương
thức tổ chức quản lí phù hợp, thơng suốt. Đặc biệt xây dựng đội ngũ quan lại địa
phương có năng lực trong việc điều hành, đề xuất các giải pháp và thực thi để phát
triển kinh tế, giáo hóa dân chúng, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội chung của
đất nước.
- 24 -
Chương 2:
CHẾ ĐỘ THANH TRA, GIÁM SÁT ĐỐI VỚI QUAN LẠI DƯỚI THỜI
VUA MINH MẠNG (1820 - 1840)
2.1. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức các đoàn thanh tra và cơ quan giám sát
dưới thời Minh Mạng
2.1.1. Q trình kiện tồn các cơ quan giám sát dưới thời Minh Mạng
2.1.1.1. Các chức quan và tổ chức giám sát trước khi thành lập Đô Sát Viện
Ngay từ khi mới lên ngơi, cùng với q trình xây dựng bộ máy nhà nước trung
ương tập quyền, vua Gia Long đã bắt đầu đặt các chức quan giám sát nhằm tăng cường
kiểm tra, giám sát hệ thống quan lại cũng như các cơ quan hành chính của triều đình
trung ương trong bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Năm 1804, vua Gia Long: “đặt các
chức Đơ ngự sử và phó Đơ ngự sử trực thuộc Ngự sử đài” [9, tr.92], điều đó chúng tỏ
cơng việc sát hạch và quản lí quan lại dưới triều vua Gia Long vẫn được quan tâm thực
hiện trong một phạm vi nhất định, mặc dù giai đoạn này triều đình đang đứng trước
nhiều khó khăn cần khắc phục.
Nhìn chung, bộ máy nhà nước dưới triều vua Gia Long cơ bản vẫn kế thừa và
dựa vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước triều Lê sơ. Do đó cịn
mang nhiều tính chất đơn giản và lỏng lẻo. Về cơ bản, Gia Long vẫn duy trì trì các cơ
quan và chức quan mang tính truyền thống của các triều đại trước nhưng được củng cố
ở mức độ cao hơn.
Trong suốt thời gian trị vì của triều Gia Long, Ngự sử đài và Lục khoa - hai tổ
chức giám sát độc lập, vẫn được duy trì như dưới triều Lê Thánh Tông. Nhưng hầu
như mọi hoạt động giám sát quan lại cũng như các cơ quan hành chính nhà nước đều
do bốn viên quan giám sát ngự sử Tả hữu Đô ngự sử và Tả hữu phó Đơ ngự sử thuộc
Ngự sử đài đảm nhận.
Trên cơ sở các chức quan được đặt ra dưới triều vua Gia Long, năm 1825 vua
Minh Mạng đặt thêm các chức Cấp sự trung và Giám sát ngự sử. Đến năm 1832, triều
Nguyễn mới chính thức đặt Đơ sát viện với một quy chế đầy đủ.
Đến thời Minh Mạng, từ khi lên ngôi cho đến trước năm 1832, bên cạnh duy trì
hoạt động của Ngự sử đài, nhà vua đã tiếp tục tăng cường hoạt động của Lục khoa.
Đứng đầu mỗi Khoa là một viên Cấp sự trung giám sát hoạt động của mỗi Bộ tương
ứng. Lục Khoa được đặt ra với 6 viên Cấp sự trung đã góp phần tăng cường hoạt động
giám sát của nhà nước đối với quan lại và các cơ quan hành chính ở kinh đơ.
Tuy nhiên trên thực tế cho đến trước khi thành lập Đô sát viện năm 1832, các tổ
chức giám sát của triều đình vẫn mang tính lỏng lẻo và tương đối đơn giản. Chỉ đến
khi Đô sát viện ra đời mới hình thành nên một hệ thống giám sát chặt chẽ từ trung
ương đến địa phương. Mặc dù vậy, các chức quan, tổ chức giám sát được đặt ra và duy
- 25 -
trì trong thời gian từ năm 1802 đến năm 1831 đã trở thành cơ sở và tiền đề quan trọng
để hình thành nên Đơ sát viện - cơ quan giám sát cao nhất bao gồm cả Lục Khoa và
Giám sát ngự sử các đạo.
2.1.1.2. Sự thành lập cơ quan Đô sát viện
Năm 1832, Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính, đồng thời thành lập nên
Đơ sát viện - cơ quan có quyền lực giám sát cao nhất. Từ đây, hình thành nên một hệ
thống giám sát chặt chẽ từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện tăng cường tính
quân chủ, tính chuyên chế của bộ máy nhà nước triều Nguyễn, việc làm mà dưới thời
Gia Long chưa thực hiện được.
Năm Minh Mạng thứ 13, vua chuẩn cho đình thần bàn định kế hoạch đặt Viện
đơ sát: “Viện trưởng là Tả - hữu đô ngự sử, Tả - hữu phó đơ ngự sử làm phó, chun
dâng nộp những việc đã sát hạch tội lỗi của các quan chức, việc triều đình hay dở, các
việc lợi hại cho đời sống của dân tùy việc dựng thành chiếu thư. Nếu có việc chưa tiện
làm thì tâu, việc quan chức trong triều ngoài quận ai liêm, ai tham, ai dở cũng được
xét tâu” [27, tr.187].
Về tổ chức, Đô sát viện do Tả - hữu đô ngự sử ngang với hàm thượng thư đứng
đầu, có Tả - hữu phó đơ ngự sử giúp việc ngang hàm Tham tri lục bộ. Ngoài bốn viên
trưởng quan trên cịn có sáu viên Cấp sự trung Lục khoa theo dõi việc ở sáu bộ, mười
sáu viên quan Giám sát ngự sử theo dõi mười sáu đạo và một số thuộc lại. Như vậy, từ
chỗ cơ quan giám sát chỉ là Ngự sử đài (thời Trần), Lục khoa (thời Lê), Minh Mạng đã
đổi thành cơ quan Đô sát viện theo như tên gọi từ thời Minh - Thanh ở Trung Quốc.
Đồng thời từ chỗ Ngự sử đài và Lục khoa là hai tổ chức giám sát tương đối độc lập với
nhau, Minh Mạng đã họp làm một cùng với Giám sát ngự sử đều trực thuộc Đô sát
viện.
So với các triều đại Trần - Lê, cơ quan Đô sát viện được thành lập dưới triều
Minh Mạng đã hồn thiện hơn rất nhiều. Mặc dù tính chất vẫn là giám sát như Ngự sử
đài, tuy nhiên Đô sát viện đã trở thành một cơ quan giám sát có quyền lực cao nhất,
khơng chịu sự kiểm sốt của bất kì một cơ quan, tổ chức hành chính nào trừ nhà vua.
Đồng thời, Đô sát viện khi hội đồng với bộ Hình và Đại lí tự lập thành Tam pháp ty cơ quan tư pháp tối cao (pháp đình) của triều Nguyễn.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của đoàn thanh tra
2.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ
Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển, thanh tra có nghĩa là: “quan lại do
chính phủ sai đi xem xét ở nhân dân mà dấu hình, khơng cho người biết, chỉ đi ngầm
xét tra cho được thực tích quan lại và tình hình địa phương ” [1, tr.265]. Tuy nhiên,
qua việc tìm hiểu các nguồn cổ sử, chúng tơi thấy dưới triều Minh Mạng, nhà vua đã
cho thành lập các đoàn thanh tra để kiểm tra hoạt động quan lại ở các cơ quan hành