Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Vận dụng tư tưởng, tấm gương đạo đức hồ chí minh vào dạy phần đạo đức môn giáo dục công dân lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VÀO DẠY PHẦN ĐẠO ĐỨC –
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10

Sinh viên thực hiện: Hà Thị Nguyệt My
Lớp

: 14SGC

Người hướng dẫn : TS. Vương Thị Bích Thủy

Đà Nẵng, tháng 04 năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được xây dựng
dựa trên cơ sở của sự tham khảo từ các nguồn tài liệu có chọn lọc phù hợp dưới sự
hướng dẫn của TS.Vương Thị Bích Thủy và chưa từng cơng bố trong các cơng trình
khác. Nếu khơng đúng như tơi đã nêu trên thì bản thân xin chịu mọi hồn tồn trách
nhiệm về đề tài của mình.
Tác giả khóa luận
Hà Thị Nguyệt My



LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, em đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính
trị. Đầu tiên, em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô Vương Thị Bích
Thủy - người đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại
học Sư phạm, Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Kinh tế đã trang bị cho em
những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học để em hoàn thành đề tài này.
Bên cạnh đó, trong q trình thực hiện khóa luận em còn nhận được rất nhiều
sự động viên và giúp đỡ từ phía gia đình, bạn bè, thầy giáo chủ nhiệm và các bạn
trong lớp. Kết quả của đề tài này là lời cảm ơn sâu sắc nhất của em gửi đến mọi
người, là nguồn động lực để em tự tin hơn trên bước đường học tập và nghiên cứu.
Với khả năng và điều kiện của một sinh viên, khóa luận khơng tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Em mong nhận được những góp ý chân thành của quý
thầy cơ và các bạn để khóa luận được hồn thiện hơn.
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 04 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Hà Thị Nguyệt My


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 3
5. Bố cục của đề tài .................................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu.............................................................................. 4
B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 8

CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH ................................................................................................ 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh ...................................................................................... 8
1.1.1. Nguồn gốc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ............................. 8
1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................................. 14
1.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức .............................................................. 21
1.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.................................................................. 31
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh ...................................... 31
1.2.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh............................................................... 39
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 44
CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO DẠY PHẦN ĐẠO ĐỨC MƠN GIÁO DỤC CƠNG
DÂN LỚP 10 ............................................................................................................ 46
2.1. Mơn Giáo dục cơng dân (GDCD) và vai trị của nó với việc phát triển nhân
cách của học sinh trung học phổ thơng (THPT) .................................................. 46
2.1.1. Tổng quan về chương trình mơn GDCD ở THPT ....................................... 46
2.1.2. Vai trị của mơn Giáo dục cơng dân trong việc hình thành phát triển nhân
cách của học sinh THPT ........................................................................................ 49
2.1.3. Yêu cầu đổi mới giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay .................... 52
2.2. Vận dụng nội dung tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy
học Đạo đức mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT ................................................ 54
2.2.1.Chương trình mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT ....................................... 54
2.2.2. Nội dung vận dụng....................................................................................... 55


2.2.3. Xây dựng chủ đề vận dụng tích hợp ............................................................ 56
2.2.4. Lập bảng mơ tả chủ đề dạy học tích hợp phần “Cơng dân với đạo đức”
trong chương trình GDCD lớp 10 .......................................................................... 57
2.2.5. Phương pháp vận dụng ................................................................................ 61
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 71

C. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 72
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 73


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Quy định viết tắt

Những từ viết tắt

GDCD

Giáo dục công dân

THPT

Trung học phổ thông

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

BCHTW

Ban chấp hành Trung ương



A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời và
sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người là tấm gương sáng ngời về sự phấn đấu,
hy sinh cho lí tưởng cao cả nhất của con người. Cuộc đời, sự nghiệp của Người tỏa
sáng bởi hệ thống tư tưởng đúng đắn, tấm gương đạo đức cao đẹp với một phong
cách tư duy khoa học và lối sống giản dị. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường cho nhiều thế hệ người Việt Nam hôm nay
và mai sau. Vì vậy, việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là rất quan trọng và cần thiết, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa có
ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) đã ban hành
Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 07-11-2006 về “Tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau nhiều năm thực hiện, cuộc vận động đã
đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội X của Đảng. Tiếp tục phát huy kết quả đạt được từ việc thực hiện Chỉ thị 06CT/TW nói trên, ngày 14-5-2011 Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam
(khóa XI) ban hành Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau 5 năm triển khai, việc thực hiện Chỉ
thị ở các cấp, các ngành và trong phạm vi cả nước đã đạt những kết quả tích cực. Sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã thúc đẩy việc học tập, làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân ngày một thường xuyên, cụ thể
và thiết thực. Ngày càng có nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình trong phong
trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Nhận thức đúng giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã
ban hành Chỉ thị 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” trong các tầng lớp nhân dân, nhằm tạo động lực mới cho

cho việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách con người Việt Nam
hiện đại. Trong Chỉ thị 05-CT/TW, Bộ Chính trị yêu cầu gắn việc học tập và làm

1


theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung
ương số 33-NQ/TW về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; và đồng thời gắn với việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo”. Chỉ thị 05-CT/TW nêu rõ yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính
quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung
cơng việc, trong đó có việc “tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục
quốc dân … Đối với học sinh phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, học
tập về đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với giáo dục công dân, đạo đức nghề
nghiệp”[13].
Thực hiện yêu cầu nói trên và để cụ thể hóa Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Kế hoạch số 178/KH-BGDĐT đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm nâng cao nhận thức,
tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong làm việc đối
với mỗi nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và sinh viên, học sinh nhằm góp phần
thiết thực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng.
Hiện nay việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống và xây
dựng nền đạo đức mới đã và đang đặt ra cho giáo dục nhà trường nhiều nhiệm vụ
cần phải giải quyết. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống
lành mạnh trung thực, có lý tưởng với lối sống ích kỉ, thực dụng đang diễn ra hàng
ngày. Bên cạnh những giá trị mới được hình thành, những cái tiêu cực trong đời
sống xã hội đã và đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp nhân
dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, với thanh niên, sinh viên và học sinh ở các cấp học

phổ thơng. Chính vì vậy, cần phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức,
lối sống, kỹ năng sống cho học sinh phổ thông.
Môn học Giáo dục cơng dân (GDCD) trong chương trình giáo dục phổ thơng
đóng vai trị to lớn trong việc việc giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, rèn
luyện, phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của người công
dân trong thời đại mới. Từ năm học 2016-2017 mơn GDCD là mơn thi chính thức,
bắt buộc trong kỳ thi trung học phổ thông (THPT) Quốc gia. Vì vậy, việc tận dụng
vị thế của mơn học này để tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức, lối sống,

2


kỹ năng sống thông qua việc vận dụng nội dung kiến thức về Tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh vào giảng dạy cho học sinh ở trường trung học phổ thơng (THPT) là một
việc làm cần thiết, thiết thực, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài“Vận dụng Tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy phần Đạo đức - môn Giáo dục cơng dân lớp
10” làm khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Qua việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào dạy phần
Đạo đức - mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT, đề tài hướng đến việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh
THPT hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ nội dung cơ bản và giá trị của tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
Thứ hai, phân tích và xác định các nội dung trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh để vận dụng vào dạy phần Đạo đức - môn GDCD lớp 10 ở trường THPT.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vận dụng Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh vào dạy phần Đạo đức - môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT.
3.2. Phạm vi
Đề tài nghiên cứu Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, và chương
trình mơn Giáo dục công dân lớp 10 - phần Đạo đức ở trường THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp hai nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực
tiễn trong đó nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận là chủ đạo gồm các phương
pháp:
- Phương pháp hệ thống hóa,
- Phân tích và tổng hợp tài liệu, so sánh;
- Phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa.

3


5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương, 4 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
nhân dân ta. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một lãnh
tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản chân chính, nhưng đồng thời cũng là tấm
gương đạo đức của một người dân yêu nước, giản dị, gần gũi, chan hịa tình u
thương với đồng bào, với nhân dân. Việc nghiên cứu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh hiện nay là một vấn đề được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu về giáo dục
quan tâm. Ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình, tác phẩm, bài viết

nghiên cứu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Những thành quả ban
đầu đã đạt được là rất đáng trân trọng, với nhiều đóng góp có giá trị về mặt khoa
học. Trong q trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng liên quan đến đề tài này,
các nhà khoa học đã có các hướng nghiên cứu với cách tiếp cận khác nhau:
* Hướng thứ nhất: nghiên cứu về tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh;
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, tiêu biểu trong số đó trước hết là các Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh [14]
của Bộ Giáo dục và đào tạo và Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình
quốc gia các bộ mơn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh [25]. Một số tác
giả với các cơng trình nghiên cứu của mình như Nguyễn Duy Bắc (2004) trong cơng
trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh trong trường đại học [9], Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong trong
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh (dưới dạng hỏi và đáp) [2], Nguyễn Khánh Bật với
Những bài giảng về môn tư tưởng Hồ Chí Minh [10]. Các cơng trình nói trên đã nêu
ra một hệ thống lý luận chung về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề
thực tiễn trong giảng dạy và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học,
cao đẳng trong cả nước.
Việc ban hành Chỉ thị 03-CT/TW [12] và Chỉ thị 05-CT/TW [13] của Bộ
Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI, XII) về “Tiếp tục đẩy mạnh

4


việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã tạo ra động lực mới
cho việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách con người Việt Nam
hiện đại và định hướng việc học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống của thanh niên, học
sinh. Ban Tuyên giáo Trung ương giới thiệu Những nội dung cơ bản của tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [3] để phục vụ triển khai thực hiện chỉ thị số 05CT/TW của Bộ Chính Trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”. Sự đóng góp kịp thời này đã tạo ra chuyển biến rõ rệt
trong nhận thức tư tưởng, trong ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của
đông đảo cán bộ công chức nhà nước, trong cán bộ đảng viên và học sinh, sinh viên.
Đi sâu nghiên cứu phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, GS Đặng Xuân
Kỳ trong cuốn sách Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh [29], đã cho người
đọc nhìn thấy rõ hơn tầm vóc vĩ đại của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Phương pháp và
phong cách của Người là bộ phận quan trọng trong tồn bộ di sản vơ giá mà Người
để lại cho dân tộc ta và toàn thể nhân loại. Hệ thống phương pháp cách mạng của
Hồ Chí Minh đã trở thành phương pháp cách mạng Việt Nam; tấm gương đạo đức,
phong cách của Người là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách cán bộ cách
mạng, bồi dưỡng, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Nhà giáo, Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Ngọc Khánh trong cuốn sách "Minh triết Hồ
Chí Minh" [27] đã tiếp cận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ triết học,
chính trị học và giáo dục học với những nội dung chủ yếu như tìm hiểu Hồ Chí
Minh qua vài nguồn ảnh hưởng của đạo đức học, tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh với tư cách là một học thuyết; đã cung cấp nguồn tư liệu quý báu, đem lại cho
chúng ta cơ sở khách quan tin cậy để tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn về tư tưởng
của Người.
* Hướng thứ hai: Vận dụng tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh vào giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh thiếu niên, học sinh trong nhà
trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định
"Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim
chỉ nam cho hành động". Từ sau Đại hội VII của Đảng đến nay, hoạt động tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều đổi mới, nhờ đó đã góp phần động

5


viên các tầng lớp nhân dân sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ

vĩ đại. Một số cơng trình nghiên cứu và vận dụng tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh thiếu niên, học
sinh tiêu biểu như:
Ban tư tưởng - văn hóa trung ương đã biên soạn một cách có hệ thống tài
liệu Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh [6]. Đây là cơng trình tập hợp những lời dạy, bài nói chuyện, các bài phát
biểu, những câu chuyện sinh động, điển hình và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người, với nhân dân, với thanh niên và học
sinh. Đây là tài liệu cần thiết cho đội ngũ các thầy cô giáo tham khảo, vận dụng
vào công tác giáo dục, giảng dạy về đạo đức, về giáo dục công dân trong nhà
trường.
Tác giả Thành Duy trong tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức [17] đã
giới thiệu kết quả nghiên cứu chuyên sâu của mình về nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng và sự cần thiết phải học tập tấm gương đạo đức Hồ chí
Minh. Trong cơng trình Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện [18], tác giả thành Duy cũng đã đề cập đến sự cống
hiến, những cơng lao to lớn của Chủ Tịch Hồ chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện. Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ
Phán Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay [42] đã đề cập đến sự cần thiết vận dụng tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên trong nhà
trường hiện nay.
Những cơng trình nghiên cứu của các tác giả nói trên đã đạt được kết quả rất
đáng ghi nhận, là đóng góp có giá trị đối với việc nghiên cứu Tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho chúng tôi khi
nghiên cứu về chủ đề này.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh để từ đó xác định được những đơn vị kiến thức phù hợp vận dụng vào dạy
học môn GDCD ở trường THPT ít được các tác giả quan tâm. Hiện tại, chưa có
nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa kết quả

nghiên cứu từ những người đi trước, chúng tôi đi vào nghiên cứu Tư tưởng, tấm

6


gương đạo đức Hồ Chí Minh để vận dụng vào dạy học phần Đạo đức môn Giáo dục
công dân lớp 10 ở trường THPT nhằm hướng đến nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh THPT hiện nay.

7


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG,
TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Nguồn gốc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) khởi xướng cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước, bắt đầu bằng đổi mới tư duy, lý luận. Từ Đại hội VI trở đi, nhận thức
lý luận của Đảng ta đã có nhiều thay đổi. Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII (1991)
ghi dấu mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng lý luận, trong đó có
quan niệm của Đảng về vai trò và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm tư
tưởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Đảng ta khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động; Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đến nay, cơng tác nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh để vận dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước luôn được

Đảng ta quan tâm. Qua mỗi kỳ Đại hội, nhận thức của Đảng về Tư tưởng Hồ Chí
Minh ngày một tồn diện, sâu sắc và đầy đủ hơn. Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng
(năm 2001) Đảng ta xác định “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi” [19, tr.83].
Tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ trong hồn cảnh lịch sử xã hội của
đất nước và thời đại, xuất phát từ điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh được hình thành, từng bước hoàn thiện và phát triển dưới tác động của
những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và nhân loại trong thời đại

8


Người sống và

hoạt động cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ những

nguồn gốc sau:
Thứ nhất, giá trị truyền thống dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đó là Chủ nghĩa yêu nước với ý chí độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc
được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Dân tộc và Nhà nước Việt Nam hình thành từ rất sớm, trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị truyền thống cốt lõi, cao quý nhất của
dân tộc ta. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và chủ
quyền quốc gia. Giá trị này được duy trì bền vững và không được ngừng được bổ

sung, phát triển đã trở thành ý chí bất khuất, tự cường dân tộc, tạo nên bản lĩnh của
dân tộc Việt Nam trong trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, trong q trình dựng nước, giữ nước, tinh thần đồn kết và ý thức
cộng đồng dân tộc cũng xuất hiện, được nuôi dưỡng và trở thành những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những giá trị này được duy trì bền vững và khơng
ngừng được bổ sung, phát triển. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ tốt đẹp đã
làm cho mối quan hệ “Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước” ngày càng trở nên bền
chặt và nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển. Con người cá nhân có mối
quan hệ bền chặt trong gia đình và từ liên kết gia đình để giữ làng, liên kết để giữ
nước. Nước bị xâm chiếm thì dựa vào làng để khơi phục nước. Lấy dân làm gốc,
dựa vào dân để cứu nước, nên khi Tổ quốc được giải phóng thì nhà nước khoan thư
sức dân. Các mối quan hệ đó dựa trên nền tảng kinh tế và theo đó là văn hóa, chính
trị và đặc biệt là được thể chế hóa trong các chính sách nhà nước, trong hương ước
và các hình thức của làng, xã Việt Nam. Con người cá nhân trong lịch sử Việt Nam
quan hệ chặt chẽ với gia đình, với cộng đồng làng, xã, quê hương và dân tộc trên cơ
sở những mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội một cách bền chặt và sâu
sắc như vậy và được thử thách qua quá trình lâu dài hàng ngàn năm dựng nước, giữ
nước, lưu truyền từ đời này sang đời khác đã nuôi dưỡng, và ngày càng làm phát
triển chủ nghĩa yêu nước - nhân văn, tinh thần đồn kết cộng đồng….trong tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước để sinh tồn và phát triển của dân tộc ta.
Một trong những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là truyền thống
dũng cảm, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh

9


tồn và phát triển trước thiên nhiên nghiệt ngã và kẻ thù hung bạo. Nhưng đồng thời,
trong q trình đó, dân tộc Việt Nam vẫn ln rộng mở đón nhận những giá trị văn
hóa, văn minh của nhân loại để làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh, nhằm bảo tồn
dân tộc và phát triển đất nước. Chọn lọc và thu nhận những giá trị văn hóa, văn

minh của nhân loại để tồn tại và phát triển đã tạo ra tư duy mở và mềm dẻo của
người Việt Nam. Một dân tộc sau một ngàn năm bị ngoại bang xâm lược, nhưng
vẫn không khuất phục, vẫn kiên cường đấu tranh và nuôi dưỡng ý thức độc lập dân
tộc để rồi đứng lên giành độc lập và xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập. Sức
mạnh ấy có cội nguồn sâu xa từ trong những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam.
Chính chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam là cội nguồn, là xuất phát
điểm, là gốc rễ động lực để người thanh niên Nguyễn Tất Thành năm xưa ra đi tìm
đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước và các giá trị truyền thống tốt đẹp trong nền
văn hóa Việt Nam cũng chính là bộ lọc, là điểm tựa để Hồ Chí Minh học tập,
nghiên cứu, lựa chọn và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là Chủ
Nghĩa Mác-Lênin.
Thứ hai, tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế
thừa nhiều giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước,
đồng thời tiếp cận nhiều giá trị mới, tiến bộ của thời đại. Từ cội nguồn truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại mà trước hết là tinh hoa văn hóa phương Đơng.
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hóa Phương Đơng mà
đặc trưng là Phật giáo và Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam và từng bước
được Việt hóa trong đời sống xã hội của người Việt Nam. Phật giáo vào Việt Nam
từ đầu thiên niên kỉ thứ nhất và có ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa dân tộc, nhất là
ở thời kì đầu xây dựng nhà nước độc lập. Phật giáo được coi như quốc giáo thời nhà
Lý, nhà Trần và có nhiều đóng góp vào cơng cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hình
thành nên những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam thời kì này.
Những tư tưởng căn bản của Phật giáo ảnh hưởng tích cực tới văn hóa Việt
Nam ở thời kì này là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người
như thể thương thân, nếp sống có đạo đức, trong sạch giản dị, chăm làm điều thiện,

10



đề cao lao động, chống lười biếng; có tinh thần dân chủ, bình đẳng, khơng phân biệt
đẳng cấp …Những mặt tích cực của Phật giáo rất gần gũi, phù hợp với truyền thống
người Việt Nam, nên có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành và phát triển của văn hóa
và lối sống của người Việt. Cuộc đời và nhân cách Hồ Chí Minh là hiện thân của
lịng nhân ái, khoan dung, yêu thương con người; sống có đạo đức, giản dị; tinh
thần dân chủ, bình đẳng; tinh thần yêu lao động...
Nho giáo Trung Hoa vào Việt Nam đã bắt gặp chủ nghĩa yêu nước là dòng
chảy chủ đạo cơ bản của tư tưởng Việt Nam nên đã từng bước được Việt hóa thành
Nho giáo yêu nước Việt Nam, thể hiện những giá trị về lòng yêu nước thương dân,
nhân văn, dung hòa con người cá nhân với cộng đồng, coi trọng lợi ích dân tộc.
Trong hành trình lịch sử du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã hòa quyện với chủ
nghĩa yêu nước, tạo thành Nho giáo yêu nước Việt Nam với nhiều giá trị tốt đẹp,
tiến bộ. Nho giáo Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu đoàn kết dân tộc trong quá trình
dựng nước, giữ nước. Nho giáo Trung Hoa đặt mối quan hệ vua tơi ở vị trí cao nhất.
Nho giáo Việt Nam đòi hỏi ở nhà vua trước hết là lòng trung thành với Tổ quốc,
nhân nghĩa với nhân dân. Ca ngợi vua hiền quan tâm đến dân chúng và ủng hộ việc
gạt bỏ những ông vua bất lực để lập nên những triều đại mới quan tâm đến đất nước
và nhân dân là nội dung tích cực của nho giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, những yếu tố
tích cực của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế giúp đời, tư tưởng
về một xã hội hịa bình, an ninh, thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh tu thân, dưỡng
tính…cũng được Việt hóa phù hợp với các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Những tác động tích cực của Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới
Hồ Chí Minh ngay từ khi cịn nhỏ ở trong mơi trường giáo dục - văn hóa của gia
đình, làng xã Việt nam, dưới dự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa là thầy cụ Phó bảng Ngyễn Sinh Sắc. Sau này, khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh
vẫn tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa Phương Đông đặc biệt là những trào
lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Găngđi và chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên. Người đã tìm thấy trong chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là
một số chính sách tiến bộ của họ phù hợp với điều kiện của nước ta.

Hồ Chí Minh đã sớm được tiếp xúc với văn hóa Phương Tây từ lúc còn ngồi
trên ghế nhà trường. Ba mươi năm sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước
ngoài, đặc biệt là trong mơi trường văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã có điều

11


kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội ở đây. Người đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà
khai sáng qua các tác phẩm của họ. Người đã tới Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước
khác, trực tiếp quan sát, nghiên cứu mọi mặt tại những nơi khởi nguồn của các cuộc
cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng tiến bộ của các cuộc cách mạng
này đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Đó là tư tưởng
dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân
tộc, quyền con người.
Những tư tưởng tốt đẹp trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh
mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ CHí Minh. Sống trog môi trưởng
dân chủ tư sản và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt ở các
tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở Phương Tây, Hồ Chí Minh đã học được các
phương thức tổ chức xã hội dân chủ. Nhưng cũng trong q trình này, Hồ Chí Minh
thấy rõ những hạn chế về lý luận và thực tiễn của các cuộc cách mạng tư sản. Hồ
chí Minh khơng đi theo hệ tư tưởng tư sản mà tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực
của hệ tư tưởng đó, làm giàu thêm trí tuệ nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng. Cần
phải nói rõ rằng, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh là trong sự kế
thừa có phê phán, có chọn lọc để mở rộng, nâng cao và làm giàu văn hóa của mình
ở tầm thế giới. Với tầm cao văn hóa như vậy, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Thứ ba, Chủ nghĩa Mác-Lênin
Trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, với sự học hỏi,
nghiên cứu, khảo nghiệm thực tiễn trên tinh thần độc lập đan tộc, tự lập, tự chủ, Hồ

Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương
Tây, khơng ngừng học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, để hình thành tư
tưởng khoa học, cách mạng soi đường cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từ địi hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và
giả phóng con người Việt Nam, từ nhu cầu về quyền dân tộc, quyền con người, Hồ
Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa Mác để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới, tự tìm ra con đường
cách mạng Việt Nam phù hợp với thời đại mới. Chính vì vậy, Chủ nghĩa Mác-Lênin

12


là cơ sở lý luận giúp cho Hồ Chí Minh vượt lên trước những nhà yêu nước đương
thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được nâng lên tầm thế
giới với việc thu nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác-Lênin đã
hình thành và tạo ra bước phát triển mới của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới.
Dân tộc Việt Nam có lịch sử và nền văn hóa lâu đời với truyền thống chống
giặc ngoại xâm vơ cùng oanh liệt. Nhưng đến thể kỉ XIX, cũng giống như các nước
phong kiến phương Đông khác, Việt Nam vẫn một quốc gia lạc hậu, kém phát triển.
Giữa thế kỉ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc
Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta. Mặc dù, triều đình nhà Nguyễn ươn hèn
đã từng bước đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lợi dân tộc và phong trào đấu tranh
chống xâm lược nước ta. Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh
yêu nước dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Nguyễn Trung Trực,Trần Tấn, Đặng
Như Mai, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật.....đều thất bại.
Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta, phong trào đấu tranh
của giai cấp mới là giai cấp công nhân Việt Nam sau Chiến tranh thế giới lần nhất

đã làm cho phong trào cách mạng Việt Nam có thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ
đầu thế kỉ XX, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng trưởng thành về số lượng và
chất lượng. Phong trào yêu nước và phong trào công nhân là cơ sở thực tiễn xã hội
trong nước cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi ra, thực tiễn thế giới
cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước - giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc đẩy mạnh chiến tranh xâm chiếm thuộc địa,
nhằm khai thác tài ngun, bóc lột và nơ dịch các dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ
Latinh. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư
bản và mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn này
ngày càng phát triển và trở thành một trong những mâu thuẫn lớn của thời đại. Yêu
cầu giải phóng đem lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ riêng của các
dân tộc thuộc địa mà còn là yêu cầu chung của tất cả các quốc gia dân tộc đã thúc

13


đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế
giới.
Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Nhà nước Xô Viết,
phong trào Cách mạng thế giới của giai cấp công nhân phát triển với sự ra đời và
dẫn dắt của Quốc tế III cũng như phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế
giới là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sự ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của lịch sử
cách mạng Việt Nam và thế giới.
1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và

phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hố nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về đại đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế; về quyền làm chủ của nhân dân; về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân và vì dân; về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí cơng
vơ tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam.
Sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với các thời kì hoạt
động của Người trong phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới. Đó là thời kì
hình thành tư tưởng yêu nước; thời kì đi tìm con đường cứu nước (1911-1920); thời
kì hình thành về cơ bản con đường cách mạng Việt Nam (1921-1930); thời kì kiểm
nghiệm, khẳng định và phát triển con đường cách mạng giải phóng dân tộc (19301945); thời kì phát triển và thắng lợi (1945-1969). Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII (tháng 06/1991) của Đảng chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ Đảng:
"Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động...".

14


* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng giải
phóng dân tộc
Trên hành trình tìm đường cứu nước, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin
và cách mạng Tháng mười Nga, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản". Tìm
thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Người đã ủng hộ Quốc tế Cộng sản
do Lê-nin sáng lập, tham gia Ðại hội Tua, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu

tiên và là một trong những người sáng lập Ðảng Cộng sản Pháp. Người đã giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được
tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa
thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí
Minh quan niệm, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản
mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc là một động lực lớn của đất nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp,
dân tộc ở các nước phương Đơng, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc
thuộc địa ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”;
“Người ta sẽ khơng thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ” [34, tr.416].
Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là sự nghiệp
cách mạng của đoàn kết dân tộc do Ðảng lãnh đạo. Giải phóng dân tộc là tiền đề
cho giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ðộc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa
xã hội, do đó, giải phóng dân tộc rồi thì thực hiện q độ lên chủ nghĩa xã hội, bằng
bước đi, biện pháp phù hợp thực tiễn đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản

15


chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời

kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện
pháp tiến hành cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc Việt
Nam là con đường giải phóng dân tộc gắn với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong tồn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, đó là xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, là xã hội dân giàu, nước
mạnh; một xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi
người. Hồ Chí Minh đã giải thích một cách vắn tắt như sau: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho dân giàu nước mạnh”; “Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người ăn no
mặc ấm, sung sướng, tự do.”[39, tr.226, 326]; "Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp
lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng. Những
người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom"; "Nói một cách
tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội là trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc [41, tr.17].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Người đã chỉ dẫn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội
là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây
dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm
của Người về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; về vai trò, bản chất của Đảng
cầm quyền và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng,
Đảng có vững cách mạng mới thành cơng. Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh việc
Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và

kim chỉ nam cho hành động. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm

16


cốt, chủ nghĩa như trí khơn của người, như la bàn của con tàu. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng mang
bản chất giai cấp công nhân. Đảng cộng sản việt Nam là đảng cầm quyền. Trong tác
phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu đấu tranh của
Đảng là lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền mang
lại lợi ích cho dân tộc, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Trong
Di chúc, Người khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [42, tr.498].
Muốn giữ vai trò cầm quyền, Đảng ta phải thật sự trong sạch, vững mạnh về
mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải nhất quán, kiên định mục tiêu, lý
tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đồn kết nhất trí; mỗi đảng viên
phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng
với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên vai trò là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân dân là lực lượng cơ
bản để thực hiện kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: dễ trăm lần khơng dân
cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân càng được nhân
lên khi xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và trí thức. Hồ Chí Minh khẳng định:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành cơng, thành cơng, đại thành cơng"..
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là tài sản tinh thần vơ giá của
tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định, đại
đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và
nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong những cơ sở quan

17


trọng để Đảng ta khẳng định chiến lược đó là việc kế thừa, bổ sung và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong thời đại mới.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Xây dựng một nhà nước của dân, do nhân dân lao động làm chủ và vì dân là
tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đưa đến việc thành lập nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết
dân tộc trong đó cơng, nơng là gốc và trí thức ngày càng có vị trí quan trọng. Tất cả
mọi người dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, giàu nghèo, nịi giống, dân tộc,
tơn giáo... đều là người chủ của Nhà nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước. Hồ
Chí Minh khẳng định: tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam ngày càng
được củng cố và hoàn thiện. Nhà nước là của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích
và nguyện vọng của tồn dân tộc. Trong xây dựng và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí
Minh đã tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất,
có phân cơng, phân nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Căn cứ vào các nhiệm vụ cách mạng trong từng
thời kỳ, Người đã chỉ đạo tổ chức bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, thích hợp, đủ năng
lực và trí tuệ quản lý đất nước. Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong

sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có
tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, là cơng bộc của nhân dân, vì
nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Coi
tham ơ, lãng phí, quan liêu là ba thứ "giặc nội xâm" rất nguy hiểm. Hồ Chí Minh
ln ln căn dặn cán bộ chính quyền, đồn thể phải tin ở dân, vì khả năng của dân
là to lớn, là vơ tận. Trong tồn bộ hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln ln
khẳng định tư tưởng Nhà nước của dân, do dân, vì dân “việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [36, tr.56-57]; nhà nước phải
biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, lợi ích của nhân dân là trước hết và trên hết,
nhiệm vụ của chính quyền và đồn thể là phụng sự nhân dân.

18


* Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là tư tưởng chiến lược rất sáng tạo của Hồ Chí
Minh. Ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Từ đây
Người khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải gắn với phong trào
cách mạng vô sản thế giới, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận
khăng khít của sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới “Cách mệnh An Nam cũng là
một bộ phận trong cách mệnh thế giới” [35, tr301].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thể
hiện ở các nội dung là:
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản thế
giới;
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô

sản trong sáng;
- Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân,
dựa vào sức của mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngồi, khơng
qn thực hiện nghĩa vụ quốc tế vơ sản cao cả;
- Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các
lực lượng cách mạng, hồ bình, dân chủ trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã
được Đảng ta tổng kết thành một bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử. Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, chúng ta phải nhận rõ vai trò, tầm
quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức
mạnh tổng hợp đưa đất nước phát triển đi lên.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà

19


×