1
MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN
NỀN TẢNG CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH LÀ SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT ĐÚNG CỦA ĐẢNG VÀ
DÂN TỘC VIỆT NAM. Ý NGHĨA VỚI CUỘC ĐẤU TRANH TƯ
TƯỞNG LÝ LUẬN HIỆN NAY.
Mởđầu
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang đạt được những thành
tựu quan trọng và tiếp tục phát triển trong tình hình thế giới và khu
vực có nhiều diễn biến phức tạp. Báo cáo chính trị tại Đại hội X, Đảng
ta chỉ rõ: “Nền kinh tế đó vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bỡnh quõn trong 5 năm
(2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối tồn diện. Văn hố và xó
hội cú tiến bộ trờn nhiều mặt; việc gắn phỏt triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xó hội cú chuyển biến tốt, nhất là trong cụng cuộc xoỏ đói,
giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị xó hội ổn định, quốc phũng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại có bước phát triển mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xó
hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công
2
tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực” 1. Tuy vậy, bên cạnh
những thời cơ lớn, vận hội lớn, chúng ta cũng đang đứng trước khơng
ít thử thách cam go. Trong tình hình đó, một số người do phai nhạt lý
tưởng, thoái hoá biến chất và do cả sự cơ hội về chính trị, bị kẻ thù làm
lung lạc ý chí đã đưa ra một số quan điểm làm phân tâm xã hơị, có tác
động tiêu cực tới quá trình đổi mới, quá trình đẩy mạnh phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng và thoái trào. Sự
tan rã của Liên Xô, của các chế độ xã hội chủ nghĩa châu Âu và của hệ
thống xã hội chủ nghĩa nói chung là bằng chứng nói lên tính vơ vọng
cho bất kỳ nước nào, khi cịn xem chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của sự
phát triển (!). Với mức độ mềm dẻo hơn, mang tính "khách quan",
"thực tế" hơn, có người cho rằng, trước năm 1945, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đúng là mục tiêu, lý tưởng của chúng ta. Nhưng, giờ
đây, đất nước đã hồ bình, độc lập, thống nhất mà vẫn xem "độc lập
dân tộc là mục tiêu" thì hồn tồn vơ nghĩa…
Tất cả những ý kiến ấy, vơ tình hay cố ý, đều bỏ qua hiện thực lịch
sử mà hầu hết những người có lương tri khơng chỉ trong dân tộc, mà
trên thế giới thừa nhận là: Sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội đã tạo ra những bước tiến to lớn không chỉ trong cuộc đâú
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.
3
tranh cho độc lập dân tộc, mà cả trong quá trình xây dựng xã hội mới –
xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn hơn 77 năm lãnh đạo cách mạng và sau hơn 20 năm lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, những thành quả cách mạng cùng
những thành tựu mà Đảng ta, dân tộc ta đạt được…đều là những kỳ
tích vĩ đại của sự nhất quán và kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội”. Báo cáo chính trị tại đại hội X, Đảng ta đã tổng kết
và rút ra 5 bài học, trong đó bài học số 1 là: “trong quỏ trỡnh đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”1, đó là lựa chọn
của lịch sử và duy nhất đúng của nhân dân ta. Phát huy những bài học
kinh nghiệm đã được tích luỹ trong q trình đó, phát triển và vận
dụng sáng tạo chúng vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc sẽ mang lại triển
vọng huy hoàng cho mọi quốc gia đang và sẽ phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà nước ta là một điển hình.
Với ý nghĩa đó, ở tiểu luận này, tác giả không tham vọng đề cập tất
cả các bài học được Đảng ta rút ra trong q trình đổi mới. Tác giả tập
chung phân tích, làm rõ bài học 1 với nội dung là: kiên định mục tiêu
“độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội trờn nền tảng chủ nghĩa Mỏc Lờnin và tư tưởng Hồ Chí Minh” là sự lựa chọn duy nhất đúng của
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.
4
Đảng và dân tộc ta, từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn trên mặt trận đấu
tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
I. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội - lơ gíc phát triển
tất yếu của xã hội Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa mác lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, cần khẳng định: Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội có nội dung mang tính lịch sử, cụ thể. Trong các giai đoạn
khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau của cuộc cách mạng do Đảng
cộng sản lãnh đạo, mục tiêu đó mang nội dung khơng hồn tồn như
nhau.
1.1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào nửa cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.
Ngược dòng lịch sử, trở lại những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX ở nước ta: Thực dân Pháp sau khi buộc triều Nguyễn bạc nhược đầu
hàng, chúng đã cơ bản đặt ách thống trị lên nước ta và bắt đầu áp dụng
chính sách thống trị thuộc địa phản động toàn diện: chuyên chế về chính
trị; vơ vét, bóc lột về kinh tế; nơ dịch về văn hố.
Chính quyền thực dân khơng xố bỏ chế độ phong kiến và những
di tích lạc hậu của chế độ quân chủ như nó đã làm ở phương Tây, mà
cải biến và sử dụng chế độ phong kiến, biến nó thành cơng cụ tay sai
để thống trị, đàn áp nhân dân Việt Nam. Từ đó, trong xã hội Việt Nam
xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa
5
chủ, phong kiến; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, trực tiếp là đế quốc Pháp và bè lũ tay sai câu kết chặt
chẽ với nó.
Trong hai mâu thuẫn vừa nêu, mâu thuẫn thứ hai có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Để giải quyết mâu thuẫn đó, nhiều cuộc khởi
nghĩa của nhân dân đã nổ ra; nhiều biện pháp, con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc đã được khảo nghiệm.
Đơng du khơng có kết quả, một số sĩ phu yêu nước (như Phan
Chu Trinh, Phan Văn Trường) tìm sang Pháp với hy vọng bằng con
đường nghị trường để cứu nước...Song, đi sang phương Tây với con
đường cứu nước như vậy cũng không thành.
Bên cạnh con đường hồ bình, ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX, một
số người yêu nước theo ý thức hệ phong kiến cũng đã nghĩ tới con
đường bạo lực. Tôn Thất Thuyết đã chủ trương kiên quyết sử dụng bạo
lực để chống lại sự xâm lược của đế quốc Pháp. Chiếu "Cần Vương"
do ông soạn thảo và được Vua Hàm Nghi chấp thuận đã thể hiện đậm
nét tư tưởng này. Nhờ đáp ứng đúng nhu cầu của nhân dân, chiếu Cần
Vương đã được quần chúng khắp nơi hưởng ứng. Đồng bào nhiều nơi
ở khắp Bắc, Trung, Nam đã nổi dậy dùng bạo lực để chống lại thực
dân Pháp. Ở Nam Bộ có Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân,
Trương Định... Ở Trung Bộ có khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình
Phùng, khởi nghĩa Ba Đình,...Ở Bắc Bộ có khởi nghĩa n Thế...Con
6
đường bạo lực đó dường như diễn ra liên tục trong một thời gian khá
dài.
Mặc dù không thiếu dũng cảm và quyết tâm, nhưng kết cục
chung của tất cả các phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng
phong kiến và các phong trào phản kháng trên đây của nông dân đều
thất bại.
Cũng trong thời kỳ này, một số đảng chính trị ít nhiều mang tính
tích cực theo khuynh hướng tư sản đã ra đời. Một trong những số đó là
Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học (được thành lập năm
1927). Trong các phong trào đó, những hoạt động của các cụ Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học là tiêu biểu, mang
khuynh hướng mới rất đậm nét và có ý nghĩa nổi bật.
Thất bại của phong trào Cần Vương cũng chính là thất bại của hệ
tư tưởng phong kiến.
Thất bại của Nguyễn Thái Học cũng đánh dấu điểm kết thúc ln
vai trị lịch sử của giai cấp tư sản bản xứ và con đường cứu nước trên lập
trường tư sản, tiểu tư sản để hướng sự phát triển của đất nước theo con
đường tư bản chủ nghĩa.
Nguyên nhân cơ bản khiến cho các phong trào đó khơng thành
cơng là chưa có một lý luận cách mạng khoa học soi đường, chính vì
vậy, chưa xác định đúng đối tượng, lực lượng, phương thức tiến hành
đấu tranh giải phóng. Nói cách khác, khơng có đường lối cứu nước nào
7
nảy sinh từ thực tiễn đấu tranh của nhân dân ta khi đó có thể chỉ ra con
đường và cách thức đúng đắn giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp
bách đang đặt ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam: độc lập và dân chủ.
Trước khi đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc,
Nguyễn Tất Thành (sau đó, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh) đã làm "cuộc đại tổng kết lịch sử", nhìn nhận, đánh giá một
cách có hệ thống mọi con đường mà các bậc tiền bối đã đi qua.
- Con đường của cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật, đánh Pháp
chẳng khác gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
- Cụ Phan Châu Trinh định dựa vào Pháp để canh tân đất nước
khác nào "xin giặc rủ lòng thương".
- Chủ trương cầm súng chống Pháp của cụ Hoàng Hoa Thám khả
dĩ hơn, nhưng Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến.
- Con đường nghị viện mà Phan Văn Trường chủ trương, thử
nghiệm cũng khơng đem lại kết quả.
Vì vậy, tuy Nguyễn Ái Quốc rất kính trọng các cụ, nhưng khơng
đi theo con đường của các cụ.
Trong tư tưởng, nhận thức của Người, chỉ có tinh thần u nước
truyền thống, ý chí bất khuất; chỉ với sức mạnh của truyền thống lịch
sử sẽ không thể nào chiến thắng được quân xâm lược trong thời đại
mới. Để giành được thắng lợi, nguồn sức mạnh đó cần được nâng lên
một chất lượng mới và cùng với nó, điều căn bản hơn là phải nhận biết
8
được thời đại đang sống, tìm ra nguồn sức mạnh mới, động lực mới cả
trong nước và trên trường quốc tế .
Năm 1911, Người lên tàu đi tìm đường cứu nước. Trải qua 21
năm đi khắp năm châu bốn biển, Người thấy rằng, dù ở nước Pháp,
nước Anh hay nước Mỹ, vẫn có sự phân cực giàu nghèo. Tại đó, bên
cạnh thiểu số những kẻ giàu có sống phè phỡn bằng áp bức, bóc lột là
đại đa số những người lao động cơ cực. Nói cách khác, ngay ở các
"chính quốc" - nơi có độc lập dân tộc - cũng phân chia thành thiểu số
những kẻ giàu có và số đơng những người nghèo khổ; ở đó cũng khổ
cực, cũng nhức nhối nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc; ở đó, độc lập dân
tộc khơng đi liền với ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Người cũng nhận ra rằng, mặc dù nước Pháp, nước Anh vốn là
quê hương của các cuộc cách mạng tư sản, là những cường quốc đang
lớn tiếng cổ xuý cho các khẩu hiệu bình đẳng, tự do..,nhưng các thuộc
địa của họ, dù ở châu Á, châu Phi hay các nước Mỹ Latinh, đều là địa
ngục trần gian đối với người bản xứ và là thiên đường của bọn thực
dân. Đối với khơng ít nhà cách mạng của các dân tộc thuộc địa, cách
mạng tư sản Anh, Pháp có thể cung cấp những nguyên mẫu đáng noi
theo, hào quang của các xứ sở đó có thể rọi sáng con đường giải phóng
dân tộc họ. Nhưng, đối với Nguyễn Ái Quốc, các cuộc cách mạng đó cách mạng tư sản là các cuộc cách mạng "không đến nơi"; con đường tư
bản chủ nghĩa không thể là khuôn mẫu, là cứu cánh cho các dân tộc đang
9
rên xiết dưới ách thực dân và đang khát khao một con đường giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp để tiến tới một xã hội, mà ở đó có sự thống
nhất giữa độc lập dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho quảng đại
quần chúng.
Theo Người, những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư
sản chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực
lượng của bản thân mình.
Chính lập trường u nước, lịng khát khao giải phóng dân tộc đã
mang lại cho Nguyễn Ái Quốc hịn đá thử vàng chắc chắn để khơng mơ
hồ, lạc hướng trong vô số các lý luận, các học thuyết nảy nở đủ màu, đủ
sắc trong hoàn cảnh đương thời. Ngay khi được biết về Quốc tế II, câu
hỏi mà Nguyễn Ái Quốc đặt ra và có ý nghĩa quyết định đối với sự lựa
chọn lập trường chính trị của Người là Quốc tế đó có giúp đỡ các dân
tộc nơ lệ và lệ thuộc đấu tranh giải phóng mình không ?
Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại (1917)
đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại, thời kỳ bắt đầu thắng
lợi của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng các dân
tộc bị áp bức.
Từ phía các dân tộc bị áp bức, khẩu hiệu mà Tôn Trung Sơn, nhà
cách mạng vĩ đại của Trung Quốc, đưa ra: "Dân tộc độc lập, dân quyền
tự do, dân sinh hạnh phúc" đã phản ánh nhu cầu và niềm khát vọng
10
chung của họ. Nhưng chưa có một dân tộc thuộc địa nào tự mình đủ sức
giành thắng lợi ở đầu thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, như trên đã đề cập, vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, mọi nỗ lực giải phóng dân tộc đều khơng thành cơng, mọi
con đường cứu nước đều bế tắc. Điều đó càng chứng tỏ rằng, các dân
tộc thuộc địa không thể chỉ dựa vào sức lực vốn có của mình để chiến
thắng sự liên hiệp của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nhu cầu tìm bạn
đồng minh cũng đã đặt ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc, thuộc địa.
Những điều kiện để thoả mãn nhu cầu đó đã xuất hiện: cả phía giai cấp
vơ sản lẫn phía các dân tộc bị áp bức đều có nhu cầu kết hợp với nhau
để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, hoàn cảnh lịch
sử chung của thời đại đã phát triển tới mức đặt song hành cuộc đấu
tranh giải phóng của giai cấp vơ sản quốc tế với cuộc đấu tranh giải
phóng của các dân tộc thuộc địa và tạo ra đầy đủ tiền đề để hai cuộc
cách mạng này kết hợp với nhau.
Từ thực tế đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận mang tầm chiến lược
là: Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, khơng
có con đường nào khác, ngồi con đường cách mạng vơ sản. Người
khẳng định dứt khốt rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức, rằng muốn độc lập dân tộc phải gắn với
chủ nghĩa xã hội”… Hồ Chí Minh chủ trương soạn thảo chính cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt, thành lập Đảng và dẫn dắt cách mạng Việt
11
Nam theo mục tiêu đã chọn. Thực tiễn thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám là bằng chứng, chứng minh hùng hồn cho điều đó.
1.2. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sau thống nhất đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như phân tích ở trên cho thấy: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vào trước 1945, có nội dung trực tiếp nhất là đấu tranh
giành chính quyền về tay nhân dân; xố bỏ sự thống trị của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân, tạo tiền đề chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội cho
việc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ từ
1954 đến ngày 30-4-1975, mặc dù miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng đấu tranh cho hồ bình, độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước, quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là nhiệm vụ
chính trị số một, bao trùm trong cả nước. Mục tiêu "độc lập dân tộc"
lúc đó là giữ vững thành quả độc lập dân tộc mà nhân dân miền Bắc đã
đạt được, loại bỏ sự thống trị của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của
Mỹ ở miền Nam nhằm làm cho miền Nam thoát khỏi ách chủ nghĩa
thực dân mới. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội mang
đầy đủ những đặc trưng bản chất của mình vẫn là mục tiêu, lý tưởng
cần vươn tới đối với cả nước.
Tuy nhiên, từ sau ngày 30-4-1975, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội vẫn là mục tiêu, nhưng mang nội dung mới; đó khơng cịn là
đấu tranh giành và giữ chính quyền, xố bỏ sự thống trị của đế quốc,
12
thực dân; đó khơng cịn là giữ vững thành quả độc lập dân tộc mà nhân
dân miền Bắc đã đạt được, loại bỏ sự thống trị của đế quốc Mỹ…,mà
đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các luồng tư tưởng đa chiều, đa
diện… để rồi quyết định đi hay không đi lên chủ nghĩa xã hội.v.v…
Tư tưởng ở một số người lúc đó cho rằng, do hai miền cịn có
những khác biệt đáng kể về kinh tế và nhiều vấn đề khác, nên chưa
thống nhất đất nước vội. Hãy để miền Nam làm tiếp nhiệm vụ còn lại
của cách mạng dân tộc dân chủ, đến khi giữa hai miền có sự hồ đồng
thì sẽ tiến hành thống nhất đất nước, tiến lên làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (!); hoặc
để miền Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa một thời
gian, sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội (!); hay miền Nam nên xác lập
chế độ dân chủ nhân dân một cách triệt để và trung lập để tranh thủ sự
giúp đỡ của mọi nước có các thể chế chính trị khác nhau nhằm tạo
những tiền đề cần thiết rồi sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội (!).
Đối với chúng ta, kinh nghiệm lịch sử hiện đại chứng minh rằng,
thống nhất đất nước chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở độc lập dân tộc
thực sự - độc lập trên nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, từ đó sẽ tạo
ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết cho việc bảo vệ vững chắc
chủ quyền của dân tộc.
Đó cũng là nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân ta đi theo Đảng
tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân khơng chỉ nhằm thốt
13
khỏi ách đô hộ của ngoại bang, cũng không phải chỉ nhằm thốt khỏi
gơng cùm của phong kiến để rồi lại rơi vào tình trạng bị bóc lột theo
phương thức tư bản chủ nghĩa, mà muốn tiến tới thoát khỏi mọi kiểu áp
bức, bóc lột, mọi người đều được sống trong ấm no, tự do và hạnh
phúc. Muốn vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề còn lại chỉ là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế
nào, theo mơ hình nào, chứ khơng phải là vấn đề có nên tiến lên chủ
nghĩa xã hội hay không ?
Bằng việc kiện định với học thuyết Mác-Lênin, trung thành và vận
dụng sáng tạo lý luận đó vào điều kiện nước ta, Đảng ta mà đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng “chèo lái” đưa “con thuyền”
cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1.3. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay.
Ngày nay, độc lập dân tộc với nghĩa thoát khỏi ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân cũ và mới đã đạt được trong thực tế, nhưng việc
giữ vững, củng cố và phát huy thành quả đó trong xây dựng xã hội mới
vẫn là một vấn đề khơng đơn giản. Chủ nghĩa đế quốc nói chung, đế
quốc Mỹ nói riêng đang ra sức sử dụng nhiều con đường, bằng nhiều
biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hố, khoa học - cơng nghệ,
14
dân tộc và tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất chế độ chúng ta, thậm chí,
nhằm xác lập trở lại quyền thống trị của chúng cùng bè lũ tay sai.
Do đó, mục tiêu "độc lập dân tộc" hiện nay được biểu hiện rõ nhất
ở chỗ bảo đảm có đường lối độc lập, tự chủ trong phát triển đất nước.
Nó xa lạ với mọi sự sao chép bên ngoài, ỷ lại bên ngồi, lệ thuộc bên
ngồi. Cùng với cái đó, một nội dung không kém phần quan trọng là
bảo đảm độc lập tự chủ trong chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế; tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, nhưng phải giữ vững
bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngay với nghĩa cổ điển của từ đó, độc lập dân tộc giờ đây cũng
không phải không đứng trước những nguy cơ. Sự vi phạm độc lập, chủ
quyền vùng biển, vùng trời, biên giới đất liền và hải đảo vẫn thường
xuyên diễn ra với mức độ khác nhau. Vấn đề "Nhà nước Đê Ga độc
lập" vẫn âm ỉ là một minh chứng cho điều đó...Việc bảo đảm tồn vẹn
chủ quyền quốc gia vẫn thường xuyên được đặt ra. Với những ý nghĩa
như vậy, độc lập dân tộc của chúng ta vừa là một hiện thực lịch sử,
vừa là một mục tiêu ngay trong giai đoạn hiện nay và cả trong một
tương lai không ngắn.
15
Chúng ta thấy rõ mưu đồ đó qua nhiều thủ đoạn, nhiều tuyên bố
của giới cầm quyền Mỹ và bè lũ tay sai cùng những hành động thực tế
của chúng. Ngay khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ còn đang trong
quá trình đàm phán và sơ bộ được ký kết, trên tờ Thời báo Oa sinh tơn
có đoạn: "Việc ký kết bước đầu Hiệp định Thương mại với Việt Nam
ngày 25/7 đánh dấu chặng đường cuối cùng trên con đường nước Mỹ
trở lại Đông Dương sau cuộc chiến Việt Nam. Oa sinh tơn hy vọng
rằng, các cải cách kinh tế và mậu dịch được kích thích bởi Hiệp định
này sẽ gíup Mỹ, bằng con đường thương mại, hồn thành được những
gì đã khơng thể hồn thành được bằng đại bác: Chuyển hố một chính
quyền cộng sản sang một xã hội cởi mở". Ai cũng biết, "xã hội cởi mở"
mà Mỹ nói ở đây chính là xã hội tn theo những chuẩn mực dân chủ,
nhân quyền của Mỹ , tức là một nước lệ thuộc Mỹ.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn luôn là mục
tiêu của chúng ta.
Hiện nay, sự khủng hoảng, thoái trào của chủ nghĩa xã hội với tư
cách một chế độ xã hội khơng phải là cơ sở để ai đó đi tới kết luận
rằng, chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử; rằng, "chủ nghĩa tư bản
16
muôn năm"; rằng, chủ nghĩa tư bản là triển vọng duy nhất và cuối
cùng của mọi dân tộc, của mọi quốc gia. Sự khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội chỉ là khủng hoảng của một kiểu, một mơ hình bị biến
dạng của chủ nghĩa xã hội. Từ kinh nghiệm thành cơng và chưa thành
cơng của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ những tri thức và
kinh nghiệm mới mà loài người đã tạo ra trong những thể chế chính
trị- xã hội khác nhau trong hiện thực lịch sử và thời đại, những người
mác-xít có khả năng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ khơng chỉ
thốt khỏi khủng hoảng, mà cịn có bước phát triển rực rỡ trong tương
lai. Thắng lợi to lớn của Trung Quốc trong quá trình cải cách và mở
cửa trong 26 năm qua, những thành tựu to lớn mà Việt Nam đạt được
trong hơn 17 năm đổi mới là một thực tế khơng ai có thể phủ nhận.
Phát huy những bài học kinh nghiệm đã được tích luỹ trong q trình
đó, phát triển và vận dụng sáng tạo chúng vào hòan cảnh của mỗi dân
tộc sẽ mang lại triển vọng huy hoàng cho mọi quốc gia đang và sẽ phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn nữa, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng ta đã quan
niệm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không phải là hai mục tiêu
khác nhau, bên ngoài nhau. Độc lập dân tộc mà chúng ta cần có là độc
lập dân tộc của một nước xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi đó, độc lập dân tộc
mới đi liền với ấm no, tự do, hạnh phúc chung của nhân dân. Độc lập
17
dân tộc là thuộc tính nội tại của chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ
xã hội; không có độc lập dân tộc thì khơng có xã hội xã hội chủ nghĩa.