Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thu hoạch tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CÁCH MẠNG TRƯỚC hết PHẢI có ĐẢNG CÁCH MẠNG ý NGHĨA và GIÁ TRỊ của nó TRONG CÔNG tác xây DỰNG CHỈNH đốn ĐẢNG của ĐẢNG TA hiện NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.23 KB, 30 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG TRƯỚC HẾT PHẢI CÓ ĐẢNG CÁCH MẠNG
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA NĨ TRONG CƠNG TÁC XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG CỦA
ĐẢNG TA HiỆN NAY.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta
thành một Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, xứng đáng là bộ tham mưu, đội tiên phong chiến
đấu của giai cấp công nhân Việt nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
hơn 75 năm qua, kể từ ngày thành lập 3-2-1930 đến nay, cách mạng
Việt nam đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang trên con đường giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả lý luận và thực tiễn
cách mạng đều đã chứng tỏ rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam. Không chỉ trong quá
khứ mà cả hiện tại và tương lai, cách mạng Việt nam đã, đang và sẽ cần
có Đảng lãnh đạo - một vấn đề mang tính quy luật, tất yếu, một điều
kiện tiên quyết cho cách mạng Việt nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì lẽ
đó, vấn đề về Đảng và xây dựng Cộng sản Việt nam là mối quan tâm
xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã để lại những di sản tư
tưởng vô giá về Đảng và xây dựng Đảng. Một trong những nội dung tư
tưởng đó là: Cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng”.
Đây là một nội dung tư tưởng hết sức quan trọng. Nhận thức
đúng đắn và đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về: Cách mạng “trước
hết phải có Đảng cách mạng” giúp cho cán bộ, đảng viên thấy rõ vị


trí vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, thấy rõ
tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Từ đó tích cực chăm
lo xây dựng Đảng về mọi mặt, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, đồng thời ra sức bảo vệ Đảng. Đặc biệt trong
tình hình hiện nay, đất nước đang ở vào thời kỳ phát triển mới, thực
tiễn đang đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ mới trong công tác xây


dựng chỉnh đốn Đảng. Trong khi đó các thế lực thù địch lại đang tìm
mọi cách chống phá ta nhằm hạ thấp, hịng tiến tới xố bỏ vai trị
lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn tư tưởng của
Người để từ đó kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với
những nhận thức và hành động sai trái, với những âm mưu và thủ
đoạn của kẻ thù cịn là một vấn đề mang tính cấp thiết.
Ngay từ năm 1925 trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (xuất
bản 1927) Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng “trước hết phải có Đảng
cách mạng”. Sự khẳng định này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước
hết, được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Học thuyết Mác-Lênin chỉ ra rằng: Lịch sử xã hội lồi người
từ khi có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp
ban đầu là nhằm vào mục đích kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển
đến một trình độ nhất định thì chuyển hố thành đấu tranh chính trị.
Đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh biểu hiện tập trung nhất, bao
quát nhất và mạnh mẽ nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc
đấu tranh giành quyền lực chính trị về tay một giai cấp. Cuộc đấu
tranh này phát triển đến một giai đoạn nhất định thì chính đảng ra


đời. Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên
của cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ địi hỏi phải có sự lãnh
đạo thống nhất mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hướng các nỗ lực
chung vào mục tiêu chống lại giai cấp đối lập cùng với nhà nước
thống trị của giai cấp đó. Theo quy luật này thì trong cuộc đấu tranh
của giai cấp tư sản chống giai cấp địa chủ phong kiến và nhà nước
thống trị của nó dẫn đến sự ra đời chính đảng của giai cấp tư sản là
tất yếu khách quan. Cũng như vậy, trong cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại giai cấp tư sản và nhà nước thống trị của nó tất
yếu dẫn đến sự ra đời của chính đảng cách mạng của giai cấp công

nhân.
C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên đã luận giải
một cách đúng đắn và khoa học về sự tất yếu diệt vong của chủ
nghĩa tư bản, chỉ ra vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
là người lật đổ chế độ đó, xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nhưng theo các ông thì sứ mệnh
lịch sử đó chỉ có thể thực hiện được khi giai cấp công nhân tự tổ
chức ra được chính đảng độc lập. C.Mác và Ph.ăngghen khẳng định:
“Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền lực liên hợp của các
giai cấp có của, giai cấp cơng nhân chỉ khi được tổ chức thành một
chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai
cấp có của lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai
cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp cơng nhân thành một chính đảng
là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng lợi


của mục đích cuối cùng là thủ tiêu các giai cấp” 1. Ph.Ăngghen cịn
chỉ rõ: “Để cho giai cấp vơ sản đủ vững mạnh để chiến thắng trong
giờ phút quyết định, cần phải- và điều này Mác và tôi chủ trương từ
năm 1847 - thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác
và đối lập hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác”.2
Là người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ăngghen, V. I.
Lênin đã phát triển sáng tạo và hoàn chỉnh học thuyết xây dựng
Đảng của chủ nghĩa Mác. Người đã sáng lập ra Đảng Bơn sê vích
Nga- một Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, một mẫu mực để xây
dựng các Đảng mác xít của giai cấp cơng nhân. Lênin ln ln
nhấn mạnh vai trị quyết định của Đảng vơ sản đối với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp vô sản, coi đó là địn bẩy mạnh mẽ, có khả
năng “đảo lộn nước Nga”.
Đầu thế kỷ XX, Việt nam đứng trước cuộc khủng hoảng

nghiêm trọng về đường lối. Trước cảnh “nước mất nhà tan” do bị
thực dân Pháp xâm lược, hàng loạt cuộc đấu tranh chống giặc cứu
nước, giành lại độc lập tự do cho dân tộc đã nổ ra. Tất cả các phong
trào cứu nước theo các khuynh hướng, ý thức hệ khác nhau trước
khi có Đảng Cộng sản ra đời đều thất bại, bị dìm trong bể máu.
Tiêu biểu cho ý thức hệ phong kiến là phong trào Cần Vương, dân
chủ tư sản là phong trào của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học... Nguyên nhân của những thất bại đó là do chưa
có đường lối cứu nước đúng đắn, chưa tìm ra được giai cấp tiên tiến
1
2

C. Mác và Ph. Ănggen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 18, tr. 203.
C. Mác và Ph. Ănggen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 6, tr. 704.


nhất, cách mạng nhất, đồng thời thiếu một chính đảng cách mạng
được tổ chức chặt chẽ để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, phương
pháp cách mạng thích hợp để tập hợp đông đảo các lực lượng yêu
nước, tiến bộ đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Thực tiễn này của đất
nước đã thôi thúc người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra
đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, tuy khơng tán thành đường lối
cứu nước của phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến và phong trào
yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản, nhưng Nguyễn ái Quốc- Hồ Chí
Minh vẫn chưa có được quan niệm ngay từ đầu cần có một tổ chức
chính trị để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Người đi
sang các nước, nhất là các nước đế quốc - đầu tiên là nước Pháp,
nước đang xâm lược Việt nam - để nghiên cứu, xem xét tìm con
đường cứu đồng bào ta thốt khỏi cảnh bị đoạ đày đau khổ. Qua

hoạt đông thực tiễn, lăn lộn với phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, Người đã gặp và tiếp
thụ chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở học thuyết Mác-Lênin con
đường giải phóng dân tộc, đưa đất nước phát triển đi lên độc lập tự
do, ấm no, hạnh phúc. Sự kiện Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin (71920) đã đánh dấu việc Nguyễn ái Quốc đến với chủ nghĩa MácLênin tìm ra con đường của cách mạng Việt nam. Từ đây, tư tưởng về
sự cần thiết phải thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân
ở nước ta dần được hình thành. Tư tưởng này được tiếp thêm cơ sở của


thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Bơn Sê vích Nga thành cơng rực rỡ. Từ chỗ tìm ra con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị điều
kiện cần thiết cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam. Trước tiên là
việc Người thành lập Hội Việt nam cách mạng thanh niên (6-1925) tại
Quảng Châu- Trung Quốc để tổ chức đào tạo cán bộ, tuyên truyền chủ
nghĩa Mác-Lênin về nước. Tại các lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng
Châu, Hồ Chí Minh đặt vấn đề “cách mạng trước hết phải có cái gì ?”.
Người khẳng định: cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.3
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, vai trị của Đảng đối với cách mạng
Việt nam là vô cùng quan trọng. Để cách mạng giành thắng lợi cần có
những nhân tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, dân
tộc và thời đại... nhưng nhân tố quan trọng nhất, “trước hết”, phải có
đảng cách mạng. Sau từ “trước hết” ở đây Hồ Chí Minh dùng chữ
“phải” có nghĩa là bắt buộc, tuyệt đối, khơng có sự lựa chọn nào khác!
Nhiệm vụ của Đảng là “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngồi thì liên lạc với các dân tộc và giai cấp vô sản mọi nơi”.
Đảng ra đời là để lãnh đạo và tổ chức quần chúng nhân dân

làm cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp chung
của tồn thể dân chúng chứ khơng phải việc riêng của một, hai
3

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 267- 268.


người. Toàn dân ở đây là toàn thể dân tộc Việt nam, không phân biệt
giai cấp, dân tộc, tôn giáo...dù họ thuộc tầng lớp, giai cấp nào nhưng
có lịng u nước, thương nòi, căm thù bọn đế quốc tay sai thì họ
đều là thành viên của khối đại đồn kết dân tộc, là lực lượng của
cách mạng, trong đó nịng cốt là công nông. Quan điểm tập hợp lực
lượng này của Hồ Chí Minh đã vượt xa quan điểm của các nhà cách
mạng Việt nam thời kỳ đó. Hơn ai hết Người hiểu rằng để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng khơng có cách nào khác là phải
dựa vào sức mạnh của nhân dân. Bởi vì, theo Người, “ Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong thế giới khơng có gì
mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”4. và “dân khí mạnh
thì qn lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi” .
Nhân dân có tiềm năng cách mạng to lớn như vậy, là “gốc
cách mệnh” nhưng sức mạnh ấy chỉ được phát huy khi quần chúng
nhân dân được giáo dục, được giác ngộ, được tổ chức lại thành một
khối thống nhất. Khi ấy sức mạnh của quần chúng nhân dân sẽ là vô
tận, vô địch. Đảng là người giáo dục, giác ngộ cách mạng cho nhân
dân, vận động toàn dân tham gia một cách tích cực nhất vào cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Đồng thời, Đảng tổ chức,
bày sách lược cho dân, đoàn kết dân lại, gắn toàn dân vào một tập
thể thống nhất với ý chí và quyết tâm sắt đá, tinh thần chiến đấu
kiên cường. Cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi khi biết
đồn kết nhân dân, biết phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Đây là

4

Hồ Chí Minh: sđd, t.4, tr. 161.


vấn đề cốt yếu của cách mạng nước ta đòi hỏi cần có sự lãnh đạo
của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn thắng lợi, thì cách mạng
phải có một Đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ
vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các
quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu
tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho
quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc
cách mạng nhất định thắng lợi”5. Những chỉ dẫn này của Hồ Chí
Minh thật là cụ thể. Trách nhiệm của Đảng là phải giáo dục, giác
ngộ cho quần chúng nhận rõ mục tiêu, lý tưởng, con đường và biện
pháp cách mạng, nhận rõ kẻ thù, nắm vững những quy luật phát
triển của xã hội, xây dựng củng cố lòng tin vào thắng lợi của cách
mạng, cổ vũ, động viên quần chúng kiên quyết thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của cách mạng.
Cách mạng, theo quan niệm của Hồ Chí Minh là phá cái cũ
xây cái mới, phá cái xấu xây cái tốt, là lật đổ chế độ thực dân phong
kiến đã đè nén con người Việt nam nhiều thập niên để xây dựng nên
một xã hội hồn tồn mới, do đó, “Cách mạng là cuộc đấu tranh rất
phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có
Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương
châm cho đúng”.6

5
6


Hồ Chí Minh: sđd, t.7, tr. 228.
Hồ Chí Minh: sđd, t.7, tr. 228.


Cách mạng là một quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu
dài. Hồ Chí Minh cho rằng sư tử bắt thỏ cũng phải dùng hết sức thì
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt nam khơng chỉ địi hỏi phải huy động tồn bộ tài lực, trí lực
của dân tộc mà cịn phải kiên trì, lâu dài: “Đời này làm chưa xong
đời sau nối tiếp nhau làm thì phải xong”. Sự nghiệp đấu tranh lâu
dài gian khổ đó khơng tránh khỏi phải hy sinh, mất mát nên cần đến
Đảng lãnh đạo, để chớp thời cơ mà đề ra đường lối thực hiện, đưa
lại thắng lợi cho cách mạng, tránh hiện tượng “chưa nên làm đã
làm”, thời cơ chưa đến nhưng lại hành động theo kiểu tự phát,
khơng có sự tính tốn kỹ lưỡng, khơng có mưu trước, tính sau.
Đồng thời tránh “khi nên làm lại không làm”, thời cơ đến nhưng lại
khơng biết chớp lấy mà hành động để nó trơi qua nhanh chóng dẫn
đến cách mạng khơng thể thành cơng. Nhân dân cần đến Đảng để
chỉ đường vạch lối cho dân, chỉ bảo cách hành động. Đảng có
đường lối đúng đắn, có phương pháp cách mạng thích hợp quyết
định đến sự thắng lợi của cách mạng. Chỉ có Đảng- Đảng cách
mạng- mới bảo đảm tính triệt để của cách mạng, mới đưa sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người đến
thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết và cần thiết
phải có Đảng để đề ra đường lối chiến lược, sách lược cho cách
mạng - là những vấn đề then chốt của cách mạng, nó quyết định sự
thành bại của cách mạng. Ở trong nước, Đảng làm nhiệm vụ vận



động, giác ngộ, tổ chức dân chúng tập hợp họ lại trong khối thống
nhất để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của cách mạng. Đảng cịn có
vai trị đối với quốc tế, là cầu nối giữa cuộc cách mạng giải phóng
đất nước, xây dựng xã hội mới của dân tộc với công cuộc cách
mạng của các dân tộc, các lực lượng tiến bộ trên thế giới để thực
hiện mục tiêu chung là: hồ bình, độc lập, dân chủ, hạnh phúc:
“Ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi”. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, các nước đế quốc liên kết với nhau để đàn áp phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào cộng sản quốc tế nên các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản mọi nơi phải liên hệ chặt chẽ với nhau để
chống kẻ thù chung. Điều này còn do con đường cứu nước của Việt
nam mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn gắn liền độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, thực hiện giải phóng dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh sớm khẳng định: “Cách mạng Việt nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là
đồng chí của Việt nam”7. Người đã gắn cách mạng nước ta với
phong trào của các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành độc
lập dân tộc; và cả với cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân ở các
nước tư bản “chính quốc”, với vơ sản giai cấp mọi nơi. Cách mạng
trước hết là sự nghiệp của mỗi dân tộc, muốn giành thắng lợi phải
dựa vào sức mình là chính, song phải biết tranh thủ sức mạnh quốc
tế, sức mạnh của thời đại để đưa cách mạng tiến lên. Chỉ có dưới sự
7

Hồ Chí Minh: sđd, t.2, tr. 301.



lãnh đạo của Đảng mới kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại.
Từ những lý do trên ta thấy, Đảng Cộng sản ra đời và tồn tại
như là một tất yếu lịch sử là vì tổ quốc, dân tộc có nhu cầu, vì Đảng
đáp ứng được yêu cầu tất yếu của sự phát triển của cả dân tộc, vì
nhân dân cần một Đảng tiên phong dẫn đường. Để Đảng thực hiện
được vị trí vai trị của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh:
“Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy”8.
“Đảng có vững” ở đây theo tư tưởng Hồ Chí Minh , Đảng phải
là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đó là Đảng cách mạng mang bản chất giai cấp cơng
nhân, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng
phải luôn tuân thủ những nguyên tắc của một đảng kiểu mới: Đảng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy tự
phê bình và phê bình làm quy luật phát triển; Đảng phải có kỷ luật sắt
và kỷ luật tự giác; đảng viên phải tn theo tơn chỉ mục đích của Đảng
và hoạt động trong tổ chức cơ sở của Đảng... Đảng là “người cầm lái”,
vị trí vai trị của Đảng là người lãnh đạo. Muốn vậy Đảng phải tiên

8

Hồ Chí Minh: sđd, t.2, tr. 268.


phong về mọi mặt, cả chính trị, tư tưởng, tổ chức...cán bộ, đảng viên
của Đảng phải gương mẫu về đạo đức lối sống...
Yếu tố tiên quyết để làm nên sự vững mạnh của Đảng là lý

luận cách mạng. Lý luận đó phải trở thành chủ nghĩa của Đảng, nó
soi sáng cho mọi hành động của Đảng, nó quyết định năng lực trí
tuệ, trí thơng minh và tài thao lược trong lãnh đạo cách mạng của
Đảng, nó làm cho sự lãnh đạo của Đảng trở thành một khoa học và
một nghệ thuật. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng
có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn
chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”9.
Nhờ có “chủ nghĩa làm cốt”- chủ nghĩa Mác-Lênin - mà Đảng
trong sáng về tư tưởng, thống nhất ý chí và hành động, đề ra và thực
hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị là lãnh đạo và phục vụ
nhân dân. Do vậy mà Đảng “làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.10
Tổ chức trong sạch, vững mạnh là đòi hỏi nghiêm ngặt trong lý
luận và hoạt động thực tiễn của Đảng, cùng với tư tưởng - đường lối
9

Hồ Chí Minh: sđd, t.2, tr. 268.
Hồ Chí Minh: sđd, t5, tr. 249.

10


chính trị, nó hợp thành nhân tố quyết định thành bại của cách mạng.
Khi đề cập tới tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng khơng
phải là một tổ chức để làm quan phát tài” 11. Đây là tiêu chí đánh giá,

phân định rạch rịi giữa tổ chức của một Đảng chân chính, một Đảng
Cộng sản đích thực, với tất cả các đảng phái, các tổ chức chính trị đã
xuất hiện trong lịch sử, được diễn đạt rất Hồ Chí Minh. Người cịn u
cầu: Đảng “ phải là người lãnh đạo sáng suốt, trung thành của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt nam”.12 Tổ chức của
Đảng phải bao gồm những người ưu tú trong công nhân và nhân dân lao
động, tự nguyện hy sinh chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì lợi
ích của nhân dân. Do đó, Đảng phải được tổ chức một cách chặt chẽ, từ
dưới lên trên “theo chế độ dân chủ tập trung” và “luật phát triển là phê bình
và tự phê bình”, Đảng phải có kỷ luật sắt nhưng là kỷ luật tự giác. Sức
mạnh vơ địch của Đảng là ở tính tự nguyện, tự giác, sự trung thực và trung
thành của mỗi đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự trung thành
tuyệt đối đồng thời vận dụng sáng tạo nguyên tắc tổ chức Đảng kiểu
mới của Lênin vào trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng, rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt nam. Điều đó thể hiện ngay từ việc sáng lập ra
11

Hồ Chí Minh: sđd, t5, tr. 249.

12

Hồ Chí Minh: sđd, t6, tr.175.


Đảng Cộng sản Việt nam. Người đã vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt nam, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt nam. Đó là sự kết hợp khơng những chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào cơng nhân mà cịn với phong trào yêu nước Việt nam. Sự

kết hợp đó quyết định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng ta,
trong dó bao gồm những thuộc tính cơ bản: bản chất giai cấp cơng
nhân, tính chất nhân dân và tính dân tộc. Do vậy nó trở thành một tổ
chức đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp và của cả dân tộc,
cho cả trước mắt lẫn lâu dài của đất nước trong sự vận động, phát
triển, tiến hoá hợp quy luật của lịch sử nhân loại.
Đảng mạnh là bởi cái nền tảng của nó vững chắc. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng chi bộ, các tổ chức cơ sở của
Đảng và đảng viên.
Hồ Chí Minh viết: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta. Đảng
lớn lên do mỗi chúng ta lớn lên”. Do đó phải coi trọng xây dựng
Đảng từ mỗi đảng viên. Phải coi trọng công tác phát triển Đảng,
phải chọn lọc đảng viên một cách hết sức cẩn thận. Phải chăm lo
giáo dục đảng viên để họ ở đâu, làm bất cứ việc gì cũng đều phát
huy được tính tiền phong gương mẫu đối với quần chúng. “Đảng
viên đi trước làng nước theo sau” phải được coi là một tiêu chí cơ
bản nhất trong việc xem xét tư cách của người đảng viên cộng sản.
“Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng
phải có cái chất của người đảng viên”. Cái chất của người đảng viên


là vào Đảng để “lãnh đạo nhân dân” mà “lãnh đạo là làm đầy tớ
nhân dân và phải làm cho tốt”.
Đảng viên, cán bộ phải là người có khả năng hồn thành
nhiệm vụ. Họ khơng những phải có trí, có dũng, có mưu mà cịn
phải biết cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Đó là những người
vừa phải có tài lại vừa phải có đức, phải “vừa hồng vừa chun”,
phải “vững về chính trị, giỏi về chun mơn”. Nếu khơng có đạo
đức cách mạng sẽ khơng làm được bất cứ việc gì có lợi cho dân, cho
nước, thậm chí còn rất nguy hại. Trong số các nhà lãnh đạo cách

mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh là người đặc biệt chú trọng đến
đạo đức, đến việc rèn luyện đạo đức cho mình, cho mỗi cán bộ,
đảng viên, cho tồn Đảng và cho tồn dân. Xây dựng Đảng vững
mạnh khơng những tiêu biểu về mặt trí tụê mà cịn phải là biểu
tượng về đạo đức, lương tâm, danh dự của dân tộc là một nét độc
đáo của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
phải đi đôi với “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trong các tác phẩm
của mình Người đã đưa ra một quan niệm hồn chỉnh về chủ nghĩa
cá nhân. Hồ Chí Minh khơng chỉ vạch rõ nguồn gốc, bản chất, hình
thức đa dạng, tinh vi của chủ nghĩa cá nhân, mà cịn chỉ ra hậu quả
ghê gớm của nó, cảnh báo chủ nghĩa cá nhân là một trong ba nguy
cơ đe doạ vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản. Bởi vì,
“Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ơ,
hủ hố, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền


hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng,
độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc
bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ khơng có tinh thần cố gắng vươn lên,
khơng chịu học tập để tiến bộ.
Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đồn kết, thiếu tính tổ
chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành
đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến
lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”13.
Những cảnh báo của Hồ Chí Minh ngày nay vẫn cịn ngun
giá trị và có tính thời sự sâu sắc. Chúng ta cần kiên quyết đẩy mạnh
việc tẩy trừ và tiến tới quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Kết quả của nó
liên quan đến uy tín, vai trị, thậm chí đến sự tồn vong của Đảng và

chế độ, đến thắng lợi của chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa cá nhân là
một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”14.
Theo Hồ Chí Minh: “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” 15.
“Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” 16.
Uy tín, vai trị và việc thực hiện nhiệm vụ của Đảng gắn liền với cán
bộ và công tác cán bộ. Do đó, Đảng phải biết lựa chọn cán bộ, huấn
13
14
15
16

Hồ
Hồ
Hồ
Hồ

Chí
Chí
Chí
Chí

Minh:
Minh:
Minh:
Minh:

sđd,
sđd,

sđd,
sđd,

t12, tr. 438-439.
t9, tr. 291.
t5, tr. 269, 273.
t4, tr. 487, 492.


luyện họ kỹ càng, phải hiểu cán bộ, nuôi dạy, đối đãi, sử dụng, cất
nhắc, thương yêu, phê bình cán bộ. “dụng nhân như dụng mộc”, vì
việc mà dùng người, phải trọng nhân tài, trọng mỗi người làm việc
có ích cho nhân dân.
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân. Đảng vĩ đại là ở nơi
Đảng biết tìm thấy sức mạnh từ trong nhân dân, vì nhân dân mà làm
việc, đủ năng lực dẫn dắt nhân dân biết “đem sức ta mà giải phóng
cho ta”. Đảng ra đời và tồn tại khơng có mục đích nào khác hơn là
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là tối thượng, là
sức mạnh, vì vậy, Đảng phải xây dựng mình thành một tổ chức
chính trị gắn bó máu thịt với nhân dân, phải làm đầy tớ thật trung
thành của nhân dân, nghĩa là lãnh đạo và phục vụ nhân dân. Và như
vậy, mị dân, theo đuôi quần chúng, quan liêu, dối trá, cửa quyền,
hống hách với dân hay trù dập quần chúng đều trái với tư cách của
người đảng viên, làm tổn hại đến Đảng. Hồ Chí Minh căn dặn:
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân,
ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới
u ta, kính ta”17. Hồ Chí Minh cịn nói: Đảng ta vĩ đại vì nó bao
trùm cả nước, đồng thời nó gần gụi tận trong lòng của mỗi đồng bào
ta.
Từ quan hệ gốc ấy Đảng sẽ giải quyết tốt các mối quan hệ khác:

Đảng và Nhà nước; Đảng với các đoàn thể nhân dân; Đảng với các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội; với các tôn giáo, dân tộc...Trong tất cả các
17

Hồ Chí Minh: sđd, t4, tr. 56-57.


mối quan hệ ấy, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng ở mỗi thời
kỳ một khác. Nhưng Hồ Chí Minh đã để lại những chỉ dẫn quan trọng.
Một là, bất cứ hoàn cảnh nào Đảng cũng phải giữ vững vai trị lãnh đạo
của mình. Khơng chỉ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả khi đã
giành được chính quyền về tay nhân dân.Theo Hồ Chí Minh, sự cần
thiết phải có Đảng khơng chỉ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc mà
cả khi đã thắng lợi, giành được chính quyền về tay nhân dân. Người chỉ
rõ: “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo, vì:
-Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh
trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn cịn.
- Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phịng, văn hố, xã hội nên
Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân
dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn”.
Khi đã giành chính quyền về tay nhân dân Đảng trở thành
Đảng cầm quyền. Lúc này phạm vi lãnh đạo của Đảng được mở
rộng, Đảng trở thành người lãnh đạo cả hệ thống chính trị. Nhiệm
vụ phát triển kinh tế, tổ chức và quản lý xã hội, quan hệ đối nội, đối
ngoại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp. Do đó, vai trị
lãnh đạo của Đảng khơng những khơng giảm sút hay mất đi, mà trái
lại, càng tăng lên. Đảng là người khởi xướng, lãnh đạo, tổ chức và
cũng là người chịu trách nhiệm về mọi mặt của đời sống nhân dân,
về vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: “Dân
khơng đủ muối, Đảng phải lo. Dân khơng có gạo ăn đủ no, dân



khơng có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé khơng có
trường học, Đảng phải lo. Tơi lo chuyện này lắm: các cháu mắt
choẹt, da bủng. Tất cả mọi việc, Đảng phải lo. Việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giành thống nhất nước
nhà, Đảng phải lo. Ngay đến cả tương, cà, mắm muối của dân, Đảng
đều phải lo”18. Để giữ vững vai trị và địa vị lãnh đạo Đảng phải tự
nâng mình lên. Bởi vì, Đảng khơng thể tự nhận hoặc u cầu nhân
dân hay các tổ chức trong xã hội thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình “mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động
nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng cảnh báo về những nguy cơ đối với Đảng
cầm quyền; những căn bệnh mà khi Đảng cầm quyền dễ mắc phải,
nguyên nhân và tác hại của nó, đồng thời chỉ ra cách chữa trị. Những lỗi
lầm chính, đó là: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ..., những căn
bệnh như bệnh tham lam, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật,
óc hẹp hịi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè
kéo cánh, bệnh cận thị, bệnh quan liêu, bệnh mệnh lệnh, tham ơ, lãng
phí... Đáng tiếc là những cảnh báo của Hồ Chí Minh có từ rất sớm song
có những căn bệnh trong thời điểm hiện nay vẫn đang nảy nở với mức

18

Hồ Chí Minh: sđd, t10, tr. 463-464.


độ nghiêm trọng, việc chữa trị, ngăn chặn chưa đạt hiệu quả như mong

muốn.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng “trước hết phải
có Đảng cách mạng” cho ta thấy rằng: Đảng ra đời là một tất yếu
khách quan, do đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và xây dựng một xã hội mới tự do, ấm no, hạnh phúc cần phải có
lực lượng lãnh đạo. Chính từ địi hỏi khách quan ấy mà phải thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh. Muốn vậy, Đảng phải
luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Đây là một trong những nội dung
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh . Khi nói về vấn đề này Hồ
Chí Minh thường dùng cụm từ “trước hết”: “Trước hết phải chỉnh
đốn lại Đảng”, “Trước hết nói về Đảng” hoặc “trước tiên”, “việc
chính”, “việc cần kíp”, “việc phải làm ngay” chứng tỏ Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng cơng việc chỉnh đốn Đảng. Nhưng theo Hồ Chí
Minh, đây khơng phải là một giải pháp tình thế, thụ động mà là điều
kiện cần và đủ để đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong
các giai đoạn của cách mạng. Với vị trí vai trị, địa vị của Đảng là
người lãnh đạo toàn xã hội, trọng trách của Đảng là rất lớn. Đảng
cũng là một thực thể xã hội, do đó, q trình xây dựng và hoạt động
khơng thể tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Kẻ thù lại ln tìm mọi
cách chống phá. Mặt khác nhiệm vụ của Đảng và của cách mạng
ngày càng phát triển, đặc biệt trước những bước ngoặt của cách
mạng. Vì vậy, phải tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng để Đảng
phát huy được những ưu điểm, khắc phục được những sai lầm


khuyết điểm, làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh, thực sự vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Hồ
Chí Minh rất coi trọng việc thường xuyên kiểm điểm rút kinh
nghiệm, tự phê bình, phê bình đối với mỗi cá nhân và tổ chức Đảng.
Theo Người, đó là nhằm để làm cho phần tốt nở như hoa mùa xuân,

phần xấu bị đẩy lùi. Hồ Chí Minh u cầu cơng tác chỉnh đốn Đảng
phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, bất luận trong
điều kiện hoàn cảnh nào. Để chỉnh đốn đạt hiệu quả thì phải chuẩn
bị chu đáo, xác định rõ mục đích u cầu và có phương châm chỉ
đạo đúng đắn. Cách làm là phải tiến hành trên trước, dưới sau, làm
từ trong cấp uỷ rồi đến đảng viên. Phải coi trọng ở tất cả các cấp
nhưng hết sức coi trọng chỉnh đốn Đảng ở chi bộ. Quá trình chỉnh
đốn phải chỉnh đốn cả tư tưởng kết hợp chặt chẽ với tổ chức, dựa
vào quần chúng và tạo điều kiện cho quần chúng tham gia có hiệu
quả cơng tác chỉnh đốn Đảng.
Đến đây, từ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
“trước hết phải có Đảng cách mạng” có thể rút ra hai kết luận:
- Đảng Cộng sản Việt nam giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
nam là một tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt nam.
- Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình
cũng là một tất yếu khách quan.
Thực tiễn cách mạng Việt nam đã chứng minh tư tưởng của
Hồ Chí Minh về cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng”, là


hồn tồn đúng đắn. Trước khi có Đảng ra đời, lịch sử nước ta kể từ
khi thực dân Pháp xâm lược đã ghi lại rất nhiều cuộc đấu tranh anh
dũng của nhân dân ta chống giặc cứu nước nhằm giành lại độc lập,
tự do cho dân tộc. Nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đó đều đã thất
bại do chưa có đường lối cứu nước đúng đắn, chưa có một Đảng
cách mạng đủ sức lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Ngày 3-2
1930 Đảng Cộng sản Việt nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt nam ở trong
tình trạng “đen tối như khơng có đường ra”, chấm dứt thời kỳ bế

tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước suốt hơn hai phần ba thế kỷ
từ khi thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân
dân ta đã tiến hành thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945 lập
nên Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hồ, Nhà nước cơng nơng đầu
tiên ở Đơng nam á. Cũng chính nhờ có sự lãnh đạo của Đảng mà
sức mạnh của dân tộc Việt nam được khơi dậy và nhân lên mạnh
mẽ, đặc biệt được thể hiện rõ nét trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Khơng chỉ có sức mạnh
bên trong được phát huy mà với đường lối đối ngoại đúng đắn Đảng
đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng chèo lái con thuyền cách
mạng Việt nam vượt qua mn vàn khó khăn thử thách, có những
lúc “tưởng chừng như ngàn cân treo sợi tóc”, đưa cách mạng Việt
nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lần đầu tiên trong lịch
sử, một dân tộc nhỏ, đất không rộng, người không đông đã đánh
thắng hai đế quốc to, giành lại độc lập, thống nhất cho non sông,


gấm vóc Việt nam, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những
thành tựu của sự nghiệp đổi mới mà chúng ta thu được gần hai mươi
năm qua càng chứng tỏ vai trò và địa vị lãnh đạo của Đảng. Thực
tiễn sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu
cho thấy: Làm suy yếu Đảng do từ bỏ những nguyên lý xây dựng
Đảng Mác-Lênin, hạ thấp, coi nhẹ hay từ bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đều làm tổn hại đến sự nghiệp cách mạng, có thể
dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Trong suốt chiều dài lịch sử 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt
nam luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
nam. Nhân dân Việt nam trước sau như một vẫn thừa nhận sự lãnh
đạo của Đảng, gọi Đảng với tên gọi trìu mến “Đảng ta”. Trong bối

cảnh phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta vẫn kiên định với nền
tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, với mục tiêu con đường đã chọn (vì nó mà Đảng ra đời và tồn
tại), không xa rời những nguyên lý, nguyên tắc xây dựng Đảng của
giai cấp công nhân, kiên quyết khơng từ bỏ vai trị lãnh đạo duy
nhất và tồn diện đối với xã hội- Đó chính là vì Đảng ta đã quán
triệt sâu sắc tư tưởng: cách mạng “trước hết phải có Đảng cách
mạng” của Hồ Chí Minh. Nhờ đó mà chúng ta ln giữ vững được
vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng, cơng cuộc đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo thu được nhiều thắng lợi to lớn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng “trước hết phải có Đảng
cách mạng” ngày nay vẫn cịn ngun giá trị. Tư tưởng đó có ý


nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với quá trình xây dựng và hoạt
động của Đảng ta. Quán triệt tư tưởng của Người chúng ta nhận
thức sâu sắc về vai trò của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Để Đảng thực sự
“cách mạng”, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ trong thời kỳ
phát triển mới của đất nước đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn nâng cao hơn nữa sức chiến đấu, năng lực và vai trị lãnh
đạo của mình. Đây là công việc đầu tiên, quan trọng nhất trong các
chương trình nghị sự của các Đại hội Đảng gần đây.
Đại hội lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: “Điều cốt yếu để công cuộc
đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa đi đến thành cơng là
trong q trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo
xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình”19.
Đến Đại hội VIII, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta

nhấn mạnh phải tăng cường vai trị lãnh đạo của mình, coi xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng khẳng định: “Ngăn chặn khuynh
hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh
đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị và tồn xã hội”20.
Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1991, tr. 53.
20 Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 75.
19


Đại hội IX của Đảng xác định, trong những năm tới, toàn
Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là
nghị quyết TW VI lần 2 (khố VIII) và: “Tăng cường vai trị lãnh
đạo của Đảng và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước”21, “nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng
thụ động, ỷ lại, bng lỏng vai trị lãnh đạo”22 ở các đảng bộ, chi bộ
cơ sở.
Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa đế quốc, các thế lực phản
động và những kẻ thù của chủ nghĩa xã hội đang ra sức chống phá ta
về mọi mặt, trong đó chúng tập trung mũi nhọn tấn cơng vào vai trị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đặc biệt gay gắt và quyết liệt là từ sau
thất bại của các Đảng Cộng sản ở Liên xô và Đông Âu. Chúng tấn
công trước hết vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ, vào đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ... Dưới chiêu bài “dân chủ” chúng địi “đa ngun
về chính trị”, “đa đảng đối lập”, nêu u sách địi xố bỏ điều 4
trong Hiến pháp...Trước tình hình đó địi hỏi chúng ta càng phải
nắm vững lý luận và thực tiễn, nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí

Minh về cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng” để đấu
tranh có hiệu quả với những nhận thức và hành động sai trái làm
ảnh hưởng xấu đến vị trí vai trị lãnh đạo của Đảng, nhận thức
Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 144.
22 Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia , Hà Nội, 2001, tr. 143.
21


×