Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.54 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Vấn đề biển đảo như một điểm nóng trong sinh hoạt chính trị đang đặt ra ở Việt Nam hiện</b>
<b>nay là kết quả phức hợp của nhiều nguyên nhân cả hiện tại lẫn quá khứ. Bởi vậy, trong việc</b>
<b>khẳng định và bảo vệ quyền lợi quốc gia đối với biển đảo cần được nhìn nhận từ nhiều khía</b>
<b>cạnh, trong đó có tiến trình về tư duy biển của con người Việt Nam.</b>
Những truyền thuyết ít giá trị sử liệu hiện cịn khơng đủ là cơ
sở để nhận định, nhưng trước thế kỷ X, tư duy về biển của
người Việt dường như cũng chưa mấy rõ ràng.
Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang vẫn trồng dưa hấu để bán,
An Dương vương bị phá hỏng nỏ thần thua trận chạy tới bờ
biển là kể như cùng đường. Nhưng sau khi Việt Nam giành
được độc lập từ thế kỷ X trở đi thì khác.
Ngơ Quyền phá qn Nam Hán, nhà Trần chống Nguyên Mông
đều dựa vào thủy quân, những xung đột quân sự với Chiêm
Thành trước chiến tranh Nam - Bắc triều cũng cho thấy người
Việt Nam không hề thờ ơ với biển đảo.
Dĩ nhiên tư duy biển thời bấy giờ chưa thể tồn diện, vì trình
độ sức sản xuất đương thời chỉ cho phép nhiều dân tộc và quốc gia khai thác biển chủ yếu như một
nguồn tài ngun tự nhiên về tơm cá và nhiều chính quyền chỉ quan tâm tới biển để bảo vệ đất liền,
tức yếu tố quốc phòng vẫn tách rời yếu tố kinh tế. Tình hình nói trên đã thay đổi từ thế kỷ XVI trở
đi, nhất là sau khi quốc gia Đại Việt bị tách thành Đàng ngoài - Đàng trong.
Với bộ phận dân tộc ở Đàng trong phải phát triển xuống phía Nam men theo bờ biển, biển cả không
chỉ là nguồn tài nguyên về tôm cá mà còn là điều kiện cho hoạt động thương nghiệp biển – ngoại
thương.
<i>Tư Dung vãn của Đào Duy Từ đã nói tới những cánh buồm thương nhân – thị dân trên vùng biển</i>
miền Trung “Buồm ai dàng dạng chân trời, Phất phơ cờ gió thẳng vời chèo trăng”.
Sau thương cảng Hội An thế kỷ XVI – XVII người Việt Nam ở Đàng trong lại có thêm thương cảng
Tranh minh họa trận đánh trên
sông Bạch Đằng trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông lần thứ ba, năm
Vân trở vào Nam thời Đàng trong (và cả Lục tỉnh Nam Kỳ thời Nguyễn về sau) đều có cửa sơng
cửa biển, nên sơng ngịi miền Trung vốn chảy theo hướng Đơng - Tây cũng trở thành những tuyến
giao thông nối liền cửa biển với đầu nguồn.
Tuy nhiên chính hệ thống sơng ngòi ấy lại hạn chế việc kinh tế biển biến toàn bộ miền Trung thành
một thị trường nội địa tương đối thống nhất khiến nền kinh tế thương nghiệp hình thành trên cơ sở
sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp và khai thác tài nguyên phát triển một cách tự phát ấy chủ
yếu chỉ mới đẩy mạnh việc giao lưu nội vùng, nên tâm lý địa phương lại chi phối việc xây dựng
hàng loạt cảng biển và kinh tế miền Trung hiện nay vẫn thiếu một “nhạc trưởng” như Diễn đàn kinh
tế miền Trung năm trước đã nêu ra.
Song nhìn chung việc hướng ra biển cũng đã bước đầu tích lũy cho con người Việt Nam thế kỷ
XVIII những khả năng kinh tế – kỹ thuật mới để giải quyết các vấn đề của đất nước.
Lực lượng thủy quân như một kết quả đặc biệt của sự phát triển kinh tế thương nghiệp biển đã góp
phần quan trọng trong việc xóa bỏ tình trạng phân tranh và kết thúc nội chiến - bộ phận tàu chiến
kiểu phương Tây đã giúp thủy quân của Nguyễn Ánh nâng cao hiệu suất chiến đấu trong các trận
hải chiến từ cửa Thi Nại tới núi Đâu Mâu, và chỉ sau khi tiêu diệt được gần như toàn bộ thủy quân
Tây Sơn năm 1801, Nguyễn Ánh mới có thể tiến ra Thăng Long năm 1802.
Cần nói thêm rằng sau khi nhà Thanh thay thế nhà Minh cai trị Trung Hoa từ 1644 thì hoạt động
trên biển của chính quyền Trung Hoa đã hoàn toàn tách rời truyền thống hải hành với đỉnh cao “thất
hạ Tây dương” của Tam bảo Thái giám Trịnh Hịa trước đó, nên triều đình Khang Hy vẫn phải dùng
một viên tướng người Hán là Thi Lang làm Tư lệnh trong chiến dịch tấn công Đài Loan, thống nhất
Trung Hoa năm 1683.
Nhưng khi nhà Thanh quay lưng với biển thì các chúa Nguyễn Đàng trong thế kỷ XVII – XVIII lại
hướng ra phía biển, nên sau gần ba thế kỷ phân tranh và nội chiến Việt Nam không những mở rộng
được lãnh thổ tới vịnh Thái Lan mà còn có thể thống nhất trở lại vào năm 1802.
Khác với bờ biển miền Trung, bờ biển Nam Bộ từ phía Nam Vũng Tàu tới mũi Cà Mau là bờ biển
phù sa bồi, nên việc phát triển kinh tế biển cần đầu tư nhiều về hạ tầng kỹ thuật dưới thời phong
kiến và thời Pháp thuộc nói chung là một điều khơng dễ.
Tuy nhiên điều đáng nói là sau 1802, nhà Nguyễn lại bế quan tỏa cảng. Trên cửu đỉnh mà Minh
Mạng cho đúc năm 1835 tuy vẫn có khắc hình ghe ơ, ghe lê, tàu đa sách (tàu nhiều dây buồm)
nhưng đó là một sự thối bộ về tư duy biển, vì nó lại trở về nhấn mạnh yếu tố quốc phòng đồng thời
giới hạn trong phạm vi lợi ích của phía quan phương như người ta đã thấy qua các đơn vị bán quân
sự kiểu Đội Trường Sa.
Và tương tự nhà Thanh ở Trung Quốc, nhà Nguyễn ở Việt Nam thế kỷ XIX không xây dựng được
sức mạnh kinh tế – quốc phòng mang tính chất tồn dân từ biển đảo nên phải mất đất liền.
tuyệt nhiên khơng có người Việt Nam.
đón tiếp du lịch mà đã mở rộng ra các lãnh vực khai thác tài nguyên dưới đáy biển, khai thác năng
lượng biển, công nghiệp xây dựng trên biển, bảo vệ môi trường biển vân vân.
Tình hình nói trên cho thấy đã đến lúc xã hội Việt Nam phải nhìn nhận lại vấn đề biển đảo một cách
toàn diện mới có thể bảo vệ được quyền lợi chính đáng và lâu dài của toàn dân tộc.