BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN:
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỀ SỐ 10
Ngun tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự và
điều kiện bảo đảm thực hiện.
HỌ TÊN
:
NGUYỄN VĂN CƯƠNG
MSSV
:
K18BCQ052
LỚP
:
K18BCQ
NHÓM
:
03
Hà Nội, 2020
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................... 1
ĐỀ BÀI ........................................................................................................... 2
BÀI LÀM ........................................................................................................ 2
I. Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự” ......................................................................... 2
1. Cơ sở của nguyên tắc. ............................................................................ 2
a. Cơ sở lý luận. ..................................................................................... 2
b. Cơ sở pháp lý...................................................................................... 3
2. Nội dung của nguyên tắc. ....................................................................... 4
a. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập. .............................................. 4
b. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật. ..................... 7
c. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của thẩm phán và hội thẩm. ................................................. 8
3. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc. ................................................................ 9
II. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. ......................................................... 12
1. Về cách thức tổ chức hệ thống Tòa án. ................................................. 12
2. Về cách thức quản lý Tòa án................................................................. 13
3. Về ngân sách cho Tòa án và hoạt động xét xử ...................................... 14
4. Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ................................................... 14
5. Về hoàn thiện Hệ thống pháp luật ........................................................ 15
KẾT LUẬN ................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 17
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
1
ĐỀ BÀI
Câu 10. Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong tố tụng hình sự và điều kiện bảo đảm thực hiện.
BÀI LÀM
Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” là nguyên tắc thể hiện sự độc lập nhất định của Tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền. Sự độc lập xét xử của Tòa án là một nhân tố thiết yếu trong
việc kiểm chế những hoạt động tùy tiện của các cơ quan Nhà nước.
Xét xử là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong tồn bộ q
trình tố tụng, giải quyết một vụ án hình sự trên thực tế. Sau khi hồn tất các giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo
trạng để Tòa án nghiên cứu, chuẩn bị mở phiên tòa. Kết thúc xét xử, Tịa có thể
tun một người là có tội hay vơ tội, ảnh hưởng sâu sắc đến những quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người phạm tội cũng như các tổ chức, cá nhân liên quan.
Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng để Tòa án thực
hiện nhiệm vụ xét xử. Từ cơ sở này, Hội thẩm và Thẩm phán có quyền đưa ra
phán quyết dựa trên quy định của Pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách
quan và chính xác mà khơng phải phụ thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu,
tìm hiểu về cơ sở pháp lý, nội dung cụ thể, thực trạng áp dụng nguyên tắc “Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật”, qua đó
đưa ra các điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc.
I. Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
Pháp luật” trong tố tụng hình sự
1. Cơ sở của nguyên tắc
a. Cơ sở lý luận
Việc quy định nguyên tắc này gắn liền với việc tổ chức bộ máy Nhà nước
theo cơ chế phân cơng và kiểm sốt quyền lực. Tính độc lập của thẩm phán, hội
thẩm là một trong những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân chia quyền lực ở Việt
Nam, thể hiện sự độc lập nhất định của Tư pháp. Sự vi phạm nguyên tắc này sẽ
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
2
dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thối hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên
sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn.
Trong một nhà nước pháp quyền cần phải có sự phân quyền giữa
lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng tư pháp vẫn là cành quyền lực cần độc
lập hơn cả. Tầm quan trọng của tư pháp độc lập từ lâu đã được ghi nhận tại
Điều 10 Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế năm 1948 (UDHR) ghi nhận, mọi
người đều có “quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một Tịa án độc
lập và khách quan”. Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 (ICCPR) thì mọi người có “quyền được xét xử cơng bằng, cơng
khai bởi một Tịa án có thẩm quyền, độc lập, cơng minh được thiết lập theo
pháp luật”. Bên cạnh các văn kiện đã nêu, Liên hợp quốc đã thông qua Các
nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của tịa án nhằm hỗ trợ các quốc gia thành
viên trong việc bảo đảm và thúc đẩy tính độc lập của tồ án. Trong phần đầu
văn kiện này, Liên hợp quốc khuyến nghị các quốc gia tôn trọng và lồng ghép
các nguyên tắc trong văn kiện này vào luật pháp và thông lệ quốc gia, cũng như
phổ biến rộng rãi các nguyên tắc đó đến các thẩm phán, luật sư, nhân viên các
ngành hành pháp, lập pháp và cơng chúng nói chung.
Ở nước ta, tính độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm từ lâu đã
là một nguyên tắc Hiến định (được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946,
1959, 1980, 1992 và 2013), được cụ thể hóa trong các đạo luật quan trọng như
BLTTHS , BLTTDS, LTTHC, Luật Tổ chức TAND.
b. Cơ sở pháp lý
* Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.”
Các bản Hiến pháp của Việt Nam đều có quy định về sự độc lập của Tịa
án nhưng đi vào chi tiết thì ngun tắc này được quy định trong các Hiến pháp
rất khác nhau: Hiến pháp năm 1946 quy định “Khi xét xử các thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”; Hiến pháp năm
1959 viết: “Khi xét xử, Tịa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”; Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 quy định: “Khi xét xử, thẩm
phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật”.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
3
Hiến pháp năm 2013 đã minh định một cách cụ thể hơn so với các bản
Hiến pháp trước đây. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định: "Khi xét xử Thẩm
phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", thì Hiến pháp năm 2013
quy định cụ thể, sâu sắc hơn: "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, hội thẩm". Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử
là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể
từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tịa xét xử, chứ khơng chỉ giới
hạn bởi "khi xét xử". Cụm từ "nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vào việc xét xử của Thẩm phán, hội thẩm" trong công tác xét xử cũng là bảo
đảm cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử.
* Điều 23 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định rõ về nguyên tắc này:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của luật.”
2. Nội dung của nguyên tắc
a. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy
định của pháp luật để đưa ra quyết định về vụ án mà không phụ thuộc vào bất
cứ sự tác động nào khác.
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập với các cơ quan nhà nước khác.
Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, trước và trong phiên
tòa, HĐXX làm việc cần có sự độc lập với các cơ quan nhà nước ở nhánh quyền
lực lập pháp, hành pháp cũng như các cơ quan khác trong hệ thống tư pháp.
HĐXX không bị phụ thuộc vào quan điểm cuả các cơ quan này, không bị ảnh
hưởng chi phối một cách tiêu cực để làm sai trái với sự thật khách quan vụ án.
Khi xét xử các vụ án hình sự, HĐXX căn cứ vào các tình tiết của vụ án,
căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tịa cơng khai và căn cứ
vào pháp luật để xác định tội phạm cũng như hình phạt đối với người phạm tội.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
4
Thẩm phán và hội thẩm không được dựa vào quyết định, kết luận của cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, mà phải tự mình nghiên cứu tồn bộ hồ sơ vụ án, kết
hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tịa xét xử để có kết luận riêng
của mình với từng vấn đề. Trong mỗi quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan khác
của Nhà nước khác thì:
- Các cơ quan quản lý khơng được can thiệp vào việc xét xử của Tịa án,
vì cơng tác Xét xử đã được nhà nước giao cho Tòa án. Tòa án không lệ thuộc
vào ý kiến của cơ quan điều tra, VKS. Nếu qua phiên tòa, tòa án thấy cần thiết
xử lý khác với ý kiến của các cơ quan trên thì phải căn cứ vào pháp luật mà xử
lý chính xác.
- Tịa án cấp trên hướng dẫn Tịa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp
luật, đường lối xét xử nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử cụ
thể một vụ án buộc tòa án cấp dưới phải theo.
Hội đồng xét xử độc lập với các tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng.
Trong nhiều vụ án hình sự, số lượng người tham gia tố tụng lớn với thành
phần xã hội phức tạp, HĐXX cần thiết phải có sự độc lập với các chủ thể này.
Thẩm phán, hội thẩm nhân dân không bị chi phối, can thiệp, điều khiển ý chí
từ bất kì ai. Họ phải độc lập với yêu cầu của bị cáo, bị hại, người bào chữa cũng
như những thành viên tham gia tố tụng khác. Bởi giữa những người này đang
tồn tại mâu thuẫn về quyền, lợi ích hợp pháp mà HĐXX chính là người “cầm
cân nảy mực”, đảm bảo công bằng được thực thi cho nên họ không thể bị ảnh
hưởng, nghiêng về phía nào được. Đặc biệt, với tư cách là những người có
chun mơn trình độ cao về pháp luật, được tín nhiệm giao phó sứ mệnh bảo
vệ cơng lí lẽ phải, thẩm phán, hội thẩm khơng được vì bất kì mối quan hệ cá
nhân riêng tư nào chi phối đến quá trình giải quyết vụ án. Khi ở vị trí trung tâm,
quan trọng nhất tại phiên tịa, HĐXX phải trút bỏ hết những lời nhờ cậy, sự cả
nể thậm chí là dọa dẫm từ các thế lực khác xung quanh mà chỉ tuân theo diễn
biến hồ sơ vụ án và quy định của pháp luật để nhanh chóng tìm ra được câu trả
lời chính xác, đúng đắn, hợp tình hợp lí nhất cho mọi người về vụ việc.
Thẩm phán, hội thẩm độc lập với các chủ thể khác của Tòa án.
Giữa thẩm phán, hội thẩm và nội bộ ngành tịa án có mối quan hệ ràng
buộc nhất định được thể hiện cụ thể ở: Quan hệ giữa thẩm phán và tòa án cấp
trên; quan hệ giữa thẩm phán và chánh án tòa án nhân dân tối cao; quan hệ giữa
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
5
Hội thẩm và Chánh án tòa án nơi Hội thẩm tham gia xét xử. Những mối quan
hệ này không đơn thuần là quan hệ vè tổ chức hành chính càng không đơn thuần
là quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có mối quan hệ tố tụng và trong
quan hệ tố tụng có mối quan hệ hành chính nhất định khơng có sự tách bạch rõ
ràng. Ví dụ như: Tiêu chí để có thể được tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán phải
có phẩm chất đạo đức, năng lực, liêm khiết, do cơ quan nơi người được tuyển
chọn đánh giá thơng qua việc bỏ phiếu tín nhiệm. Chánh án là người đứng đầu
cơ quan vừa sử dụng cán bộ nhưng đồng thời cũng là người quản lí cán bộ trong
đơn vị mình, ngồi việc bỏ phiếu tín nhiệm như các cán bộ cơng chức khác,
chánh án cịn có tiếng nói quan trọng trong việc lựa chọn, định hướng công tác
bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Sau khi có phiếu tín nhiệm, người được lựa chọn
phải qua hội đồng tuyển chọn Thẩm phán mà Chánh án cấp trên là thành viên
của hội đồng, sau đó mới đề nghị Chánh án TANDTC bổ nhiệm. Có thể nói
Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự quản lí của Chánh án và Tịa án cấp
trên. Thông qua công tác tổ chức xét xử như họp bàn trước khi xét xử, phân
công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án, Chánh án có tác động đến hoạt động
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thẩm phán, hội thẩm độc lập với nhau trong xét xử vụ án hình sự.
Các thành viên trong HĐXX độc lập trong suy nghĩ khi làm việc tập thể
và quyết định theo đa số. Mỗi ý kiến đưa ra quyết định cuối cùng của thẩm
phán, hội thẩm là có giá trị ngang nhau. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập từ việc
nhận định vụ án, diễn giải pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và ra bản án.
Cơ sở của việc độc lập xét xử giữa thẩm phán và hội thẩm được ghi nhận
thành một trong những nguyên tắc của tố tụng đó là: khoản 1 Điều 22 BLTTHS.
“Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội
đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết
theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến
thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ
sơ vụ án.” Quy định này đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác động đến
hoạt động xét xử của Hội thẩm. Đồng thời, điều này cũng ngăn cấm thái độ ỷ
lại vào Thẩm phán của Hội thẩm mà cũng buộc Hội thẩm phải tích cực chủ
động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
6
Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán tạo mọi điều kiện để Hội thẩm
nghiên cứu hồ sơ nhanh và vẫn đầy đủ. Trong khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán
không được đưa ra những ý kiến, nhận định chủ quan của riêng mình để có thể
ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của Hội thẩm.
Tại phiên tòa, Thẩm phán điều khiển phiên tòa trong việc xét hỏi, tranh
luận, nghị án để đảm bảo hoạt động xét xử đi đúng trọng tâm, xác định những
việc cần làm để chứng minh tội phạm và không được hạn chế việc xét hỏi của
Hội thẩm nếu những câu hỏi đó nhằm làm rõ các tình tiết khách quan vụ án.
Khi xét xử, Thẩm phán độc lập với Hội thẩm trong việc xem xét và đánh
giá chứng cứ để đưa ra các kết luận của mình mà khơng lệ thuộc vào quan điểm,
chính kiến của các thành viên khác trong HĐXX. Về nguyên tắc, Thẩm phán
không được áp đặt ý kiến đối với Hội thẩm khi xét xử.
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với truyền thơng và dư luận xã hội
Có thể thấy, đối với nhiều vụ án lớn, nổi cộm, thu hút sự quan tâm đơng
đảo của người dân thì sức ép của dư luận xã hội, báo chí đối với HĐXX là rất
lớn. Có nhiều ý kiến trái chiều được đưa ra, người dân luôn trong trạng thái
mong muốn người đã vi phạm pháp luật phải bị “trừng trị” thích đáng khiến
cho các vị Thẩm phán, Hội thẩm ít nhiều phải cân nhắc khi đưa ra phán quyết
cuối cùng. Tuy nhiên, dư luận xã hội không thể là yếu tố chi phối q sâu sắc,
làm ảnh hưởng đến tính cơng minh, đúng đắn trong hoạt động giải quyết vụ án
của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, khơng có nghĩa là tách rời
đường lối chính sách của Đảng
Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng chỉ ra đường
lối xét xử trong từng giai đoạn cách mạng và đối với từng loại án. Độc lập xét
xử cũng khơng có nghĩa là khơng có sự kiểm sát, giám sát. Tịa án cấp trên có
quyền thẩm tra các bản án và quyết định của tòa án cấp dưới và hủy bỏ chúng
trong trường hợp trái pháp luật hoặc khơng có cơ sở đúng đắn.
b. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử “chỉ tuân theo pháp luật”
Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập khơng có nghĩa là xét xử tùy tiện
mà phải tn theo Pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập khơng có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
7
tuân theo pháp luật, có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của
bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm phải tuân theo quy định của pháp luật và điều này được thể hiện ở những
khía cạnh sau:
- Tn theo pháp luật hình sự ( bao gồm cả luật thực định và khoa học
về luật hình sự). Vì muốn áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự buộc
Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về việc định tội danh và quyết định
hình phạt,…
- Tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử của
thẩm phán và Hội thẩm thành 2 giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa:
+ Ở giai đoạn thứ nhất là giai đoạn mà Thẩm phán và Hội thẩm nghiên
cứu hồ sơ để xem xét các tài liệu có trong vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét
hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tịa để có kế hoạch ứng phó thích hợp
và những cơng việc cần thiết khác cho phiên tòa.
+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc các quy định của
BLTTHS từ thủ tục bắt đầu phiên tòa cho đến kết thúc phiên tòa, trong đó phần
xét hỏi, tranh luận và nghị án là quan trọng nhất.
- Tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Pháp luật dân
sự và các văn bản luật chuyên ngành khác,..
Như vậy, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, Thẩm phán và Hội thẩm khơng một bước xa rời pháp luật,
khơng có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất
kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào. Đó là địi hỏi có tính chất bắt buộc đối
với Thẩm phán và Hội thẩm.
c. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
“Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau.
“Độc lập” là điều kiện cần để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử “chỉ tuân theo
pháp luật”. “Tuân theo pháp luật” là cơ sở không thể thiếu để thẩm phán và hội
thẩm độc lập trong xét xử. Mỗi quan hệ này là ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà
khơng tn theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện, độc đốn.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
8
Độc lập trong xét xử không những được quy định thành nguyên tắc của
BLTTHS, được ghi nhận trong Hiến pháp, luật tổ chức Tịa án mà nó cịn được
thể hiện ở những điều luật quan trọng khác của luật tố tụng hình sự như các
điều luật về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm. Nếu Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết của
HĐXX mới có tính khách quan, vơ tư, quyết định của HĐXX mới đảm bảo
đúng pháp luật. Độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khơng có nghĩa là là độc
lập tuyệt đối mà giới hạn của sự độc lập đó chính là pháp luật. Sự độc lập của
thẩm phán và hội thẩm nhân dân không thể vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật,
bất chấp pháp luật, phải loại trừ hành vi vượt quyền, lạm quyền, vi phạm pháp
luật, vi phạm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Để có
thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp
luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Tuân theo pháp luật là làm theo
những quy định của pháp luật. Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán
và Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình.
Độc lập nhưng phải trên cơ sở những quy định của pháp luật. Mọi kết
luận của bản án, quyết định của HĐXX phải phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án. Bản án phải xác định đúng người phạm tội, đúng hành vi phạm
tội, đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều
phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết xác thực đã được thẩm tra tại phiên
tịa có lập luận chặt chẽ, khơng kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính cá
nhân của mỗi thành viên HĐXX. Yếu tố độc lập và tuân theo pháp luật không
thể tách rời nhau. Độc lập mà khơng theo pháp luật thì độc lập trong xét xử sẽ
khơng cịn ý nghĩa vì sự xét xử tùy tiện, độc đốn, khơng tránh khỏi sự chủ
quan, cảm tính khi đánh giá vấn đề.
3. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc
Thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc này đã đạt được kết quả nhất
định, tuy nhiên vẫn cịn nhiều hạn chế trong cơ chế đảm bảo tính độc lập của
Thẩm phán và Hội thẩm trong các quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa
án, sự hạn chế về trình độ chun mơn nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm;
vấn đề đạo đức nghề nghiệp chưa được coi trọng; chế độ đãi ngộ đối với Thẩm
phán và Hội thẩm chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể:
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
9
- Hội thẩm có vị trí, vai trị quan trọng đảm bảo tính dân chủ, khách quan
của hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tịa án diễn ra cơng bằng,
chính xác, khách quan. Tuy nhiên, trên thực tế các quy định của pháp luật về
địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế bầu, cử Hội thẩm và thực trạng hoạt động
của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm tham
gia hoạt động xét xử của Tòa án còn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy
được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Hội
thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của mình, có những Hội thẩm chỉ đến
nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc có trường hợp không nghiên
cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tịa án, vì vậy, Hội thẩm
sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng minh tội
phạm cũng như quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho cơng chúng nhìn
nhận về sự tham gia của Hội thẩm chỉ là hình thức, tham gia cho đủ thành phần.
Hiện nay, pháp luật cũng chưa chính thức giao cho cơ quan nào quản lý
thống nhất đội ngũ Hội thẩm của các TAND. Theo quy định của Luật Tổ chức
TAND 2014, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm chuẩn bị nhân sự, hiệp
thương lập danh sách Hội thẩm để HĐND cùng cấp bầu ra Hội thẩm (trừ Hội
thẩm quân nhân của Tòa án quân sự các cấp do cơ quan có thẩm quyền cử theo
Luật Tổ chức TAND). Trong khi đó, UBMTTQ hầu như ít thực hiện giám sát
hoạt động của Hội thẩm do mình giới thiệu hoặc bầu ra. Tịa án chỉ quản lý Hội
thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử. Hiện nay, mặc dù
các địa phương có thành lập Đồn Hội thẩm, nhưng là tổ chức hoạt động theo
nguyên tắc tự quản. Ngoài thời gian tham gia hoạt động xét xử, Hội thẩm sinh
hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống,
nên đối với một số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị tác động, sức ép và dễ
phát sinh tiêu cực.
- Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến họ
lúng túng khi tham gia xét xử như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa
phương, của Chánh án Tòa án, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử. Hiến
pháp hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa Tịa án các cấp,
mối quan hệ giữa Tòa án các cấp là mối quan hệ tố tụng, điều này có nghĩa là
khơng có Tịa án cấp trên và khơng có Tịa án cấp dưới mà chỉ có Tịa án cấp
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
10
sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, các Tòa án thực hiện chức năng giám đốc thẩm
và tái thẩm và các Tòa án thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng Tịa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới
cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chun mơn nghiệp vụ. Tình trạng can thiệp
từ phía lãnh đạo Tịa án vào hoạt động xét xử, trong một số trường hợp đã can
thiệp sâu vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm hoặc cũng có trường
hợp vì lợi ích cá nhân mà Chánh án chỉ thị, định hướng cho HĐXX. Trên thực
tế, tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của lãnh đạo Tồ án cịn cao. Việc
trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ án” vẫn chiếm một tỷ lệ
lớn trong các thẩm phán tỉnh và huyện.
TANDTC đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt động xét xử,
nhưng trên thực tế khơng ít Tịa án địa phương vẫn cịn tồn tại cơ chế này. Tình
trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên
tắc tư pháp trong hoạt động tòa án, như “nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử độc lập”, “nguyên tắc xét xử tập thể”, làm cho những nguyên tắc này trở
nên hình thức và khơng được tơn trọng, làm giảm vai trị của Hội thẩm, phá vỡ
ngun tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm đơi
khi cịn chịu áp lực của cơng luận khi đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa
xét xử; chịu ảnh hưởng và tác động của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi
nghiên cứu hồ sơ nên có thể khơng độc lập trong q trình xem xét và đánh giá
chứng cứ.
- Còn nhiều Thẩm phán và Hội thẩm lệ thuộc vào kết quả điều tra, những
thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, HĐXX tin vào
kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà không coi trọng tới những ý kiến trình
bày tại phiên tịa, chưa thực sự coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về
thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do đó,
phán quyết của HĐXX cịn mang tính áp đặt, cịn tình trạng xét xử oan sai, trái
pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy, sửa
nhiều.
- Quy trình tuyển chọn Thẩm phán cịn nhiều bất cập, việc tuyển chọn
Thẩm phán không được pháp luật quy định phải công bố công khai, rộng rãi
nên không tạo được tính cạnh tranh. Thực tế việc tuyển chọn Thẩm phán cơ
bản là quy trình khép kín trong nội bộ ngành Tịa án, chưa có cơ chế khuyến
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
11
khích những người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc tuyển chọn
làm Thẩm phán. Hiện tại, bên cạnh những Thẩm phán được đào tạo bài bản, có
trình độ chun mơn, nghiệp vụ vững vàng, có bề dày kinh nghiệm và kỹ năng
xét xử, vẫn cịn khơng ít Thẩm phán hạn chế về năng lực, trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, khơng có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm,
không tự quyết định được các tình huống khi xét xử. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân ảnh hưởng tới nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm.
Bên cạnh đó, chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối
với Hội thẩm chưa hợp lý. Mức lương của Thẩm phán ở nước ta hiện nay là rất
khiêm tốn, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình
họ. Điều này sẽ làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác, dễ bị những tác
động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng. Đối với Hội
thẩm, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa
với mức 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử. Trong khi đó, pháp
luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng
một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp cơng vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề,
thì Hội thẩm lại không được hưởng là không hợp lý.
Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm
và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường
hợp Thẩm phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những
người thân của họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những quy định
về bảo vệ đối với tính mạng, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ
ngồi thời gian tham gia xét xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình,
đặc biệt là xét xử những vụ án lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng nguy hiểm.
II. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc "Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
1. Về cách thức tổ chức hệ thống Tòa án.
Hệ thống tổ chức Tòa án phải độc lập so với các cơ quan nhà nước khác.
Nếu tổ chức hệ thống Tịa án độc lập thì sẽ khơng bị chi phối bởi các cơ quan
nhà nước khác, không gắn quá nhiều sự ràng buộc với chính quyền địa phương
và như thế khi xét xử sẽ có tính độc lập cao. Để đảm bảo được điều kiện này
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
12
các nước trên thế giới thường tổ chức hệ thống tịa án theo chức năng của tịa
án chứ khơng theo tiêu chí cấp hành chính.
Ở nước ta, hệ thống Tịa án lại được tổ chức theo cấp hành chính tuy có
những ưu điểm như bám sát nhiệm vụ chính trị xã hội hay có sự phân cơng phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước thì bộc lộ những điểm bất cập như thiếu khách
quan khi đối tượng xét xử là các quan chức nhà nước… Để khắc phục hạn chế
này theo Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ
Chính trị đã khẳng định: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử,
khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính”. Đây là một định hướng đúng, không
những đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tịa án có hiệu quả mà cịn đảm bảo
được nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập chỉ tuân theo
pháp luật.
2. Về cách thức quản lý Tòa án.
Quản lý Tòa án được xem xét dưới hai góc độ là quản lý hành chính và
quản lý chuyên môn nghiệp vụ. Trong hai lĩnh vực đó thì vấn đề quản lí hành
chính trong hệ thống Tòa án là yếu tố quan trọng để đảm bảo nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Nếu Tòa án tối
cao quản lý cả chuyên môn nghiệp vụ lẫn tổ chức hành chính thì tính độc lập
dễ bị vi phạm, bởi:
- Việc tổ chức, quản lý hành chính ảnh hưởng đến lợi ích thiết thân của
Thẩm phán và cán bộ Tịa án nên Tịa án cấp trên có thể lợi dụng thế này để
can thiệp vào công việc chuyên môn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
- Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể dễ dàng chấp nhận những yêu cầu
khơng khách quan của cấp trên vì tâm lý nể sợ cấp trên…
Do đó, để đảm bảo cho nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi
xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật thì cần phải tách thẩm quyền quản lí hành
chính cho một chủ thể khác.
Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử,
cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư pháp
giữa Tịa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án với Thẩm phán;
phải có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về hành động
của mình. Cần tăng cường tính chịu trách nhiệm giải trình cơng khai, minh bạch
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
13
của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Sự độc lập của tư pháp
cần phải đi cùng với cơ chế trách nhiệm trong hoạt động tư pháp.
3. Ngân sách cho Toà án và hoạt động xét xử: Yếu tố quan trọng bảo
đảm độc lập xét xử. Nguyên tắc cơ bản thứ 7 trong hệ thống các nguyên tắc cơ
bản của Liên hợp quốc về độc lập tư pháp do Đại Hội đồng thông qua vào năm
1985 đã chỉ ra “Nhiệm vụ của mỗi quốc gia thành viên Liên hợp quốc là cung
cấp các nguồn lực đầy đủ cho phép ngành Tư pháp thực hiện tốt chức năng của
mình”. Có được nguồn lực đầy đủ là yếu tố cần thiết để ngành Tư pháp có thể
thực hiện đúng đắn những nhiệm vụ của mình. Thực hiện đúng đắn có nghĩa
là thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập và công minh, và vấn đề đặt ra ở đây
là việc dự trù và cung cấp ngân sách cho hoạt động của Toà án sẽ do cơ quan
nào đảm nhiệm?
4. Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
a. Công tác đào tạo, bổ nhiệm Thẩm phán: cần đổi mới chương trình,
giáo trình, phương pháp đào tạo hướng tới mục tiêu Thẩm phán phải vững vàng
về chuyên môn, giỏi về kỹ năng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp
và bản lĩnh, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ
công lý. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chun mơn cao với cái tâm trong
sáng, tơn trọng sự cơng bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ
lệch lạc hoặc những tác động bên ngồi mang tính chất vụ lợi cá nhân. Cùng
với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng, tập huấn
nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.
Cần đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục,
giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương. Nhiệm kỳ 05 năm
đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là q ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán n
tâm cơng tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh
nghề nghiệp, thì cần đổi mới cơ chế bổ nhiệm theo hướng Thẩm phán được bổ
nhiệm suốt đời, hoặc kéo dài thêm nhiệm kỳ của Thẩm phán.
b. Tiền lương và chế độ đãi ngộ: Vấn đề tiền lương và chế độ đãi ngộ
được đảm bảo sẽ giúp cho Thẩm phán yên tâm công tác và không nảy sinh mục
đích tư lợi dẫn đến thiếu cơng tâm trong quá trình xét xử. Cần nghiên cứu, sửa
đổi một cách tổng thể chế độ, chính sách đãi ngộ cho Thẩm phán và Hội thẩm.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
14
Việc khen thưởng Thẩm phán, tăng lương, tăng ngạch nên thực hiện theo kênh
độc lập, không theo phương pháp quản lý đặc trưng của hệ thống hành chính.
Bên cạnh đó, trong ngành Tồ án phải có cơ chế thưởng phạt nghiêm
minh. Người giỏi, người có cơng phải được đánh giá đúng mức; người kém,
người vi phạm phải bị xử lý nghiêm minh. Những Thẩm phán khơng hồn thành
trách nhiệm có thể bị tạm đình chỉ cơng việc xét xử trong một thời gian nếu sai
phạm chưa tới mức miễn nhiệm chức danh Thẩm phán và có thể khơng được
đưa vào danh sách tuyển chọn để tái bổ nhiệm. Tuy nhiên, cũng cần thấy một
thực tế là khơng làm thì khơng sai, cịn đã làm thì cũng có lúc mắc sai lầm,
khuyết điểm, do đó, cần phải phân biệt mức độ lỗi là do chủ quan hay khách
quan để có biện pháp xử lý phù hợp.
c. Về cơ chế bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe của Thẩm phán và
gia đình họ: Có thể nói ngề nghiệp của một Thẩm phán được xem là “nghề
nguy hiểm”, do tính chất của hoạt động xét xử mà Thẩm phán có thể bị đe dọa
về tính mạng, sức khỏe. Thẩm chí cả gia đình họ cũng bị nguy hiểm. Nếu vấn
đề này khơng được quan tâm thì Thẩm phán sẽ khơng dám phán quyêt khách
quan vì sợ người phạm tội trả thù hay đe dọa.
5. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật: xây dựng hệ thống pháp luật hồn
chỉnh, khơng chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành
và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán
và Hội thẩm khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.
Bên cạnh đó, cần từng bước thực hiện cơng khai hố bản án, quyết định
của Tồ án, trừ những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
liên quan đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Mục đích của việc cơng bố phán
quyết của Tồ án là nhằm làm cho cơng chúng thấy rõ quan điểm của Toà án
trong việc áp dụng pháp luật để xét xử và giám sát chất lượng của Thẩm phán
khi tuyên bản án đó. Việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu
hiệu để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng địi hỏi của q
trình hội nhập quốc tế. Cũng chính vì thế địi hỏi bản thân các Thẩm phán phải
không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, để khi xét xử được độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, ra phán quyết về vụ án một cách khách quan, chính xác,
đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật được xã hội thừa nhận.
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
15
KẾT LUẬN
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật có ý nghĩa pháp lý, ý nghĩa chính trị, xã hội và ý nghĩa đối với hoạt
động thực tiễn sâu sắc. Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm
tiến hành hoạt động xét xử được khách quan, đúng pháp luật, hiến pháp và pháp
luật được tuân thủ nghiêm túc. Ngun tắc khẳng định vai trị, vị trí của cơ quan
Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước, chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử
và khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không
một cá nhân nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên
tắc gián tiếp thể hiện bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước do
dân làm chủ, nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của nhà nước, trong đó
có hoạt động xét xử. Kết quả của hoạt động xét xử khách quan, đúng pháp luật
là quyết định, bản án đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, đảm
bảo lợi ích của cơng dân khi tham gia tố tụng.
Như vậy, có thể thấy rằng nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật” là rất quan trọng, cần thiết để đảm bảo hoạt động
xét xử tại tòa diễn ra cơng bằng, minh bạch, đúng đắn. Từ đó, Tịa án sẽ là chỗ
dựa, là nơi làm cho người dân cảm thấy tin tưởng, an tâm khi đến để giải quyết
những vấn đề pháp lý của mình. Hy vọng rằng, những hạn chế, bất cập, tồn tại
từ thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân
theo pháp luật sẽ sớm được các Cơ quan, Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền lưu
tâm và đưa ra giải pháp hiệu quả để khắc phục, đảm bảo việc xét xử được khách
quan, trung thực, đảm bảo cho Tòa án giải quyết các vụ án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, chống các biểu hiện tiêu cực, nhằm từng bước thực hiện
công bằng xã hội trong Tố tụng hình sự.
Với thời lượng có hạn, bài luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế trong giải thích, đánh giá, phân tích các nội dung và các điều kiện bảo đảm
thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật”. Em rất mong nhận được ý kiến đánh giá, góp ý của các giáo viên bộ môn.
Em xin chân thành cảm ơn!
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, 2018
2. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (năm 2013 - 1992 - 1980 -1959 – 1946).
3. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015.
4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
5. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Các ngun tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự,
NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2018.
6. Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế năm 1948 (UDHR).
7. Cơng
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR).
MSSV: K18BCQ052 / NGUYỄN VĂN CƯƠNG
17