Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu tính hiệu quả của trò chơi vận động trong học tập môn giáo dục thể chất cho học sinh khối 11 trường THPT ngũ hành sơn – thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.47 KB, 79 trang )

1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

LÊ VĂN CHIẾN

Nghiên cứu tính hiệu quả của trị chơi vận động
trong học tập môn giáo dục thể chất cho học
sinh khối 11 trường THPT Ngũ Hành Sơn –
thành phố Đà Nẵng

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


2

LỜI MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao là bộ phận của nền văn hóa xã hội, là một hoạt động rèn
luyện thân thể con người nhằm nâng cao và hoàn thiện thể chất, nâng cao thành
tích thể thao, góp phần làm phong phú sinh hoạt văn hóa và giáo dục con người
phát triển cân đối hợp lý.
Giáo dục thể chất là một bộ phận của thể dục thể thao, là một loại hình giáo
dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học động tác và phát triển có chủ định các tố
chất vận động. Giáo dục thể chất nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất
con người, phát triển con người toàn diện. Trong hệ thống giáo dục, nội dung
đặc trưng của giáo dục thể chất gắn liền đức – trí – thể – mĩ. Trong hệ thống ấy
thì giáo dục thể chất là một trong những nhân tố giáo dục tồn diện nhân cách.


Mục đích của giáo dục thể chất của nước ta là: bồi dưỡng thế hệ trẻ trở
thành con người phát triển tồn diện, có sức khỏe dồi dào, thể chất cường tráng,
có dũng khí kiên cường để kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng một cách đắc
lực và sống một cuộc sống vui tươi, lành mạnh, ấm no, hạnh phúc. Vì vậy giáo
dục thể chất cho thế hệ trẻ là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu
trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta. Giáo dục thể chất không
chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục và thể dục thể thao mà nó trở thành
mối quan tâm của tồn xã hội.
Trong chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020 của
Thủ tướng chính phủ đã đặt ra mục tiêu: “... Đẩy mạnh công tác giáo dục thể
chất và thể thao trường học, bảo đảm yêu cầu phát triển con người toàn diện,
làm nền tảng phát triển thể thao thành tích cao và góp phần xây dựng lối sống
lành mạnh trong tầng lớp thanh – thiếu niên”. [15]


3
Giáo dục thể chất là một môn học bắt buộc trong trường học từ giáo dục
mầm non cho đến đại học và được đặt ngang hàng hàng với các môn học khác, là
một bộ phận không thể thiếu trong nền giáo dục Việt Nam. Giáo dục thể chất
trong trường học trước hết là chuẩn bị cho học sinh sức khỏe dồi dào, các tố chất
thể lực phát triển toàn diện, nâng cao các hoạt động của các cơ quan trong cơ thể,
hoàn thiện các kỹ năng kỹ xảo vận động. Thông qua các hoạt động giáo dục thể
chất hướng các em tới tình yêu hoạt động thể dục thể thao và lựa chọn các môn
thể thao phù hợp với năng khiếu của mình.
Trong những năm qua Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng đã quan
tâm sâu sát hơn đối với công tác giáo dục thể chất cho học sinh ở các hệ thống
trường học nhằm phục vụ tốt cho cơng tác giảng dạy, hoạt động ngoại khóa và
các phong trào thể dục thể thao của học sinh; trong chương trình đào tạo của các
trường trung học phổ thông, công tác giáo dục thể chất được quan tâm, thường
xuyên đầu tư đổi mới về trang thiết bị, cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ và cả đội

ngũ giáo viên, nhiều trường đã đầu tư cải tạo và xây dựng nhiều cơng trình thể
dục thể thao như: nhà tập đa năng, sân bóng đá... qua đó đã có những bước
chuyển biến tích cực đối với cơng tác giáo dục thể chất trong trường học
Trường THPT Ngũ Hành Sơn một trong những ngôi trường mới trong hệ
thống các trường THPT ở thành phố Đà Nẵng, được thành lập vào ngày 03 tháng
07 năm 1998, bước đầu còn gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên nhờ sự quan tâm
của lãnh đạo thành phố Đà Nẵng, quận Ngũ Hành Sơn, Sở GD&ĐT, hội phụ
huynh học sinh cùng với sự nỗ lực phấn đấu của thầy và trò, vừa dạy học vừa
xây dựng, ngơi trường đã từng bước hồn chỉnh về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo
viên ngày càng lớn mạnh, chất lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật chất
phục vụ cho công tác giáo dục thể chất đã được trang bị nhiều hơn, trường có
nhà tập đa năng, có sân tập bóng đá, sân tập luyện TDTT… tuy nhiên việc giảng


4
dạy và học tập đang cịn nhiều khó khăn và hạn chế. Để công tác giáo dục thể
chất trong nhà trường ngày càng đi vào chiều sâu và đạt được những mục tiêu
quan trọng hơn nữa trong việc phát triển thể chất cho đại bộ phận học sinh cần
có những biện pháp để cho các em thích thú hơn trong học tập, các em có niềm
đam mê và hăng hái tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao qua đó bồi
dưỡng cho các em trở thành con người phát triển tồn diện. Trị chơi vận động
chính là một biện pháp cần thiết đối với công tác giáo dục thể chất trong nhà
trường, đây vừa là nội dung học tập, vừa là một phương pháp giảng dạy hiệu
quả; trò chơi vận động gồm những hình thức hoạt động phong phú, sinh động và
hấp dẫn với tâm sinh lý lứa tuổi, được đơng đảo các học sinh ưa thích để các em
hứng thú hơn với việc học tập giáo dục thể chất trong nhà trường. Ở lứa tuổi này
các bài tập, bài học nếu được giảng dạy dưới dạng trò chơi sẽ lôi cuốn học sinh,
các em sẽ hứng thú hơn trong học tập, tạo tính tích cực, tự giác, qua đó việc
truyền thụ kiến thức đạt kết quả cao.
Thực tế việc sử dụng trò chơi vận động vào trong giảng dạy và học tập

giáo dục thể chất hiện nay ở các trường phổ thông chưa tận dụng được những tác
dụng của nó để hồn thành nhiệm vụ giảng dạy và học tập GDTC một cách hiệu
quả; giáo viên, học sinh chưa thực sự hiểu sâu về hiệu quả của trị chơi vận động
trong giảng dạy mơn giáo dục thể chất: thời lượng để sắp xếp, tổ chức trò chơi
vận động trong giáo án giảng dạy khó khăn, khơng đảm bảo được thời gian giảng
dạy... Vì vậy khơng phát huy được tính hiệu quả của trị chơi vận động đối với
việc học tập môn giáo dục thể chất cho các em học sinh.
Hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về trị chơi vận động trong
học tập mơn giáo dục thể chất ở nhiều địa phương với những khía cạnh khác
nhau nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên biệt nào về tính


5
hiệu quả của trò chơi vận động trong học tập môn giáo dục thể chất cho học sinh
trường THPT Ngũ Hành Sơn – thành phố Đà Nẵng.
Để góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác Giáo dục thể chất và
hiểu biết thêm về tầm quan trọng và tính hiệu quả của trị chơi vận động trong
học tập mơn giáo dục thể chất tại các trường THPT ở thành phố Đà Nẵng nói
chung và trường THPT Ngũ Hành Sơn - thành phố Đà Nẵng nói riêng. Chúng tơi
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu tính hiệu quả của trị chơi vận động
trong học tập mơn giáo dục thể chất cho học sinh khối 11 trường THPT Ngũ
Hành Sơn – thành phố Đà Nẵng”.


6

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm, Đường lối của Đảng và Nhà nước về GDTC trong trường
học.

Lênin sau cách mạng Tháng mười Nga từng nói: “Để hoàn thành và hoàn
thành sự nghiệp Chủ nghĩa Cộng sản cần phải bồi dưỡng thế hệ thanh niên có
một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, một ý chí cứng như gang, rắn như
thép...”[10]. Tiếp thu quan điểm đó của Lênin, Hồ Chí Minh đã từng nói với
thanh niên: “Phải rèn luyện thân thể để cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới có
đủ sức tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những cơng việc ích nước, lợi
dân”[10]. Những quan điểm đó của các nhà lãnh đạo là tư tưởng chỉ đạo cách
mạng đồng thời cũng chỉ rõ vị trí, ý nghĩa quan trọng của thể dục thể thao trong
giáo dục toàn diện cũng như mối quan hệ biện chứng giữa thể dục, đức dục, trí
dục và mỹ dục.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rõ vị trí quan trọng của TDTT trong
chính sách kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, tạo ra
sức mạnh và động lực phát triển đất nước. Giáo dục thể chất là một trong mục
tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, và nằm trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Giáo dục thể chất được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo
dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả
năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”[10].
Những quan điểm đó được xuất phát từ những cơ sở lý luận của học thuyết
Mác – Lênin về con người và phát triển con người toàn diện, những nguyên lý
thể chất của Macxit, tư tưởng quan điểm của Hồ Chí Minh về TDTT nói chung


7
và GDTC cho thế hệ trẻ nói riêng. Những cơ sở lý luận đó đều được Đảng quán
triệt trong đường lối phát triển TDTT trong suốt thời kỳ lãnh đạo của mình.
Chỉ thị 106/CT/TW ngày 02/10/1958 của Ban bí thư TW Đảng về công
tác TDTT đã đề cập đến những vấn đề quan trọng như: vai trò tác dụng của cơng
tác GDTC về thể thao quốc phịng và phát triển phong trào TDTT quần chúng,
nhất là trường học.
Chỉ thị 131/CT/TW ngày 13/01/1960 của Ban bí thư TW Đảng về cơng

tác TDTT và chỉ thị 108/CT/TW của Ban bí thư TW về tăng cường TDTT trong
những năm tới, đã xác định được vị trí và tầm quan trọng của TDTT, coi TDTT
trở thành yêu cầu của quần chúng và là một mặt của sự nghiệp xây dựng CNXH
và chủ trương trên được cụ thể hóa tới sự phát triển phong trào TDTT trong học
sinh.
Đại hội Đảng lao động lần thứ III tháng 9/1960 đã định hướng công tác
giáo dục và rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường và chủ trương này được
hội nghị TW lần thứ VIII tháng 4/1963 phát triển lên một bước mới. Đến nghị
quyết VIII BCH TW Đảng khoá VIII đã khẳng định bắt đầu đưa việc giảng dạy
thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của trường
phổ thông.
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản lần thứ VII tháng 6/1991 khẳng định về
công tác TDTT cần coi trọng và nâng cao chất lượng GDTC trong trường học.
Chương III điều 35, 36, 41 hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ghi:
“GDTC là một môn bắt buộc trong các trường học”.
Nghị quyết Hội nghị TW Đảng lần thứ V khóa VII về giáo dục đào tạo đã
khẳng định mục tiêu: “Xây dựng con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng
về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.”


8
Trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 có ghi: “Thanh
niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức
công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng
tạo và bảo vệ Tổ quốc”.
Chỉ thị số 113 - TTG, ngày 7 tháng 3 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ
về việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành TDTT, Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu: “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo dục thể chất
trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy thể dục thể thao nội khoá, ngoại

khoá, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học; có quy
chế bắt buộc các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi, phịng tập
thể dục thể thao; có biện pháp hợp lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ
giáo viên thể dục thể thao, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp học. Bộ Giáo dục
và Đào tạo cần có một thứ trưởng chun trách chỉ đạo cơng tác thể dục thể
thao trong trường học”.
Nghị quyết số 08-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước
phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020 nhằm mục tiêu: “Tiếp tục
hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
thể dục, thể thao; tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học,
công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể
thao; đến năm 2020, phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể; các trường học, xã, phường, thị trấn, khu cơng nghiệp có đủ cơ sở vật
chất thể dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ một số môn
thể thao trọng điểm được nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; bảo đảm các
điều kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn của
Châu Á và thế giới”.


9
Từ các dẫn liệu nói trên, có thể nói rằng những quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta về GDTC và thể thao trường học được thể hiện rõ và nhất
quán trong Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Chỉ thị, Nghị quyết, Thơng tư của Đảng,
Chính phủ, Quốc hội và các Bộ, ngành, đồn thể chính trị xã hội có liên quan.
Đó là quan điểm coi GDTC là một bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện
thế hệ trẻ, nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hồn thiện về thể chất và nhân
cách, có trí tuệ phát triển cao để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Vai trò của GDTC trong trường học.
1.2.1. GDTC là một bộ phận cấu thành của giáo dục phát triển tồn diện.
Vị trí của GDTC là do nhu cầu của xã hội đối với giáo dục quyết định. Từ

lịch sử phát triển của GDTC có thể nhận ra rằng GDTC là một bộ phận cấu thành
quan trọng của giáo dục phát triển tồn diện. Nó là u cầu của xã hội và là yêu
cầu tất nhiên của lịch sử.
Mục tiêu của GDTC của nước ta là “nhằm tăng cường sức khỏe, phát
triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu
giáo dục tồn diện cho người học”. Đó là phương hướng chiến lược của GDTC,
trong đó địi hỏi tất cả các mặt giáo dục phải hướng tới phát triển học sinh tồn
diện tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ và kỹ, để họ trở thành những người chủ
tương lai của đất nước.
Đức dục và trí tuệ rất quan trọng, thể dục cũng rất quan trọng. Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ “cơ thể cường tráng là cơ sở vật chất của
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội”. Khơng có thể chất cường tráng, học
sinh khó hồn thành nhiệm vụ học tập và khó phát huy tác dụng của mình trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thời kỳ mới – thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, càng có u cầu
càng mới, càng cao đối với việc nâng cao thể chất cho học sinh; yêu cầu con


10
người phát triển mạnh khỏe, hài hịa để có thể công tác trong những điều kiện lao
động với tốc độ cao, cường độ lớn và thần kinh căng thẳng. Do đó cần phát huy
hơn nữa GDTC để giáo dục phát triển con người toàn diện.
1.2.2. GDTC là cơ sở của TDTT tồn dân.
Bác Hồ đã từng nói “dân cường thì nước thịnh”, “non sơng Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay khơng,chính là nhờ một phần lớn
vào cơng học tập của các cháu"[3].
Tuổi học sinh là giai đoạn sinh trưởng của cơ thể, là giai đoạn hưng thịnh
trong sự phát triển của cơ thể, giai đoạn nhạy cảm của hầu hết các tố chất thể lực
của cơ thể. Tăng cường rèn luyện ở tuổi học sinh làm xúc tiến cơ thể học sinh

phát triển bình thường, đặt nền móng cho một cơ thể cường tráng.
GDTC có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài,
nâng cao trình độ thể thao. GDTC nâng cao sức khỏe, bảo đảm sự phát triển bình
thường của cơ thể học sinh. Phát triển thể lực, hình thành các thói quen rèn luyện
thân thể, giữ gìn vệ sinh và giáo dục các phẩm chất đạo đức cho học sinh.
GDTC có tác dụng quan trọng đối với việc đẩy mạnh phong trào TDTT
quần chúng phát triển. Thông qua các hoạt động GDTC ngồi giờ học, các em
học sinh có nhu cầu tập luyện TDTT tại các điểm tập luyện khác ngoài trường
nhằm mục đích tăng cường sức khỏe, phát triển các tố chất thể lực, phát triển các
năng khiếu thể thao. Từ đó thúc đẩy các em học sinh tham gia các hoạt động
TDTT trong và ngồi trường, qua đó đẩy mạnh phong trào TDTT quần chúng
cùng phát triển.
Tóm lại, GDTC có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với việc phát triển
TDTT nước nhà, có tác dụng tồn diện, lâu dài và cơ bản.
1.2.3. GDTC là yếu tố tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần.


11
GDTC có tác dụng to lớn trong việc xây dựng nền văn hóa mới và con
người mới. TDTT là một phần trọng yếu của văn hóa, đồng thời cũng là biện
pháp quan trọng để xây dựng những phẩm chất cao quý của con người, là cơ sở
vật chất của sự phát triển trí lực.
TDTT có tác quan trọng đối với trí lực. Cơ thể cường tráng, đặc biệt là hệ
thống thần kinh khỏe mạnh. Thơng qua tập luyện TDTT có thể bồi dưỡng năng
lực cảm nhận, sức tư duy linh hoạt, trí tưởng tượng phong phú, sức chú ý và
năng lực ghi nhớ. Các hoạt động thể dục giữa giờ lại có thể tiêu trừ mệt mỏi, làm
cho đầu óc minh mẫn, tinh thần thoải mái, nâng cao hiệu quả học tập.
TDTT cịn có tác dụng rất tốt đối với mỹ dục. Luyện tập TDTT làm cơ thể
học sinh cân xứng thể hình, tư thế ngay ngắn, động tác kiều diễm. Như vậy
GDTC với nội dung phong phú là hình thức độc đáo có vai trị to lớn trong việc

bồi dưỡng hình thể đẹp, động tác đẹp, tư thế đẹp, cử chỉ và tâm hồn đẹp, từ đó
xây dựng óc mỹ quan chính xác, nâng cao năng lực cảm thụ và diễn đạt thẩm
mỹ, yêu mến và sáng tạo cái đẹp.
TDTT cịn là phương thức giải trí hứng thú, lành mạnh có tinh thần quần
chúng. Tham gia tập luyện TDTT, tiến hành các cuộc giao lưu, biểu diễn, thi đấu
sau học tập tạo nên sự hưởng thụ văn hóa cao sang, làm cho hoạt động văn hóa
nghiệp dư càng thêm phong phú, đồng thời đó cũng là biện pháp quan trọng để
chiếm lĩnh trận địa tư tưởng văn hóa ngồi giờ, phòng ngừa và khắc phục các
hành vi tiêu cực.
GDTC cịn có ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục tư tưởng, đạo đức
cho học sinh, có tác dụng tốt để bồi dưỡng phẩm chất, ý chí, tác phong, cũng như
xây dựng lối sống cao thượng cho các em học sinh. Nội dung GDTC đa dạng và
phong phú, phù hợp với tính hiếu động của thanh thiếu niên và nhi đồng nên có
thể thu hút các em tích cực tham gia, đồng thời qua đó các em được sự giáo dục


12
nhiều mặt. Tính chất của các bài tập GDTC rất khác nhau là điều kiện hữu ích để
bồi dưỡng lịng dũng cảm, ý chí kiên cường, tinh thần hợp tác, ý chí tập thể v.v...
cho các em. Tính đua tranh cao độ trong thi đấu và tập luyện TDTT cũng tạo
điều kiện để bồi dưỡng các em tinh thần sáng tạo, chí tiến thủ, phấn đấu gian
khổ, tinh thần trách nhiệm và trọng danh dự. Giải thưởng qua thi đấu giúp các
em khoan khoái về tinh thần và tăng thêm lịng tự tin. Thơng qua tập luyện và thi
đấu thể thao các em nhận thức được sự giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, về lý
tưởng, đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật.
1.2.4. GDTC là yếu tố cơ bản để xây dựng một đội ngũ lao động và những
chiến sĩ tương lai của Tổ quốc.
GDTC trước hết chuẩn bị cho học sinh có một trạng thái sức khỏe dồi dào,
các tố chất thể lực phát triển toàn diện, nâng cao hoạt động của các cơ quan hệ
thống cơ thể, phát triển và hoàn thiện các kỹ năng kỹ xảo vận động, nhất là các

kỹ năng vận động thực dụng như đi, chạy, nhảy, mang vác, leo trèo, bơi lội...
GDTC giáo dục học sinh phẩm chất ý chí cần thiết, tinh thần chịu đựng
gian khổ, khắc phục khó khăn, ý chí dũng cảm, kiên cường... là những đức tính
cần có trong lao động và phục vụ quân ngũ.
1.2.5. GDTC làm phong phú đời sống xã hội hiện đại.
Ở thời kỳ học sinh các em được bồi dưỡng GDTC, hiểu được chính xác
bản chất và giá trị của GDTC, được thử nghiệm trong các hoạt động thực tiễn
của sự vận động, thưởng thức được sự hứng thú vận động, do đó các em sẽ trở
thành những người làm chủ các hoạt động GDTC, đặt cơ sở vững chắc cho thói
quen vận động trong suốt cuộc đời của mình, làm cho sinh hoạt của con người
càng thêm văn minh, hạnh phúc và mạnh khỏe.


13
Thông qua các hoạt động TDTT, đặc biệt là các cuộc giao lưu và thi đấu
thể thao mối quan hệ giữa trò và trò, trò và thầy, thầy và thầy, cũng như gia đình,
phụ huynh với nhà trường càng thêm tăng cường gắn bó...
GDTC ngày càng có tác dụng to lớn cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, có ý
nghĩa chiến lược quan trọng, vượt ra ngoài phạm vi giáo dục của nhà trường và
có giá trị xã hội rộng lớn, không những chỉ dừng lại ở chức năng tăng cường thể
chất mà cịn tác dụng tồn diện đến việc phát triển tâm thế hài hịa, góp phần xây
dựng văn minh vật chất – tinh thần cho con người.
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT.
Bản chất của tâm sinh lý con người là một quá trình biến đổi các chức
năng tâm sinh lý. Là sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm sinh lý dẫn đến
thay đổi về chất và đưa đến hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển
tâm sinh lý của con người là một quá trình lĩnh hội nền văn hóa xã hội của lồi
người.
Sự phát triển tâm sinh lý của mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự
khác nhau này có thể ảnh hưởng tới tốc độ, đỉnh cao.. của các thành tựu của con

người cụ thể trong một lĩnh vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và
phương thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm sinh lý... Chúng là
những tiền đề, điều kiện cần thiết để phát triển tâm sinh lý, ngoài ra sự phát triển
tâm sinh lý đó có thành hiện thực hay khơng cịn phụ thuộc vào một tổ hợp
những yếu tố khác nữa.
Lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về thể lực,
nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn.
Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại, sự phát triển của
hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức
tạp và các chức năng của não phát triển. Hoạt động của các em ngày càng phong


14

phú và phức tạp, nên vai trò và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở
rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng.
Ở độ tuổi này tập luyện thể dục thể thao là một phương pháp hữu hiệu để
tăng cường thể chất, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và ý chí cho học sinh để trở
thành những người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, kỹ và là những chủ
nhân tương lai của đất nước.
1.3.1. Về mặt tâm lý.
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông là thời kỳ phát triển tâm lý rất
phong phú và phức tạp. Ở độ tuổi này quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh
mẽ, sơi nổi và có tính chất đặc thù riêng: học sinh có nhu cầu tìm hiểu và đánh
giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích sống và hồi
bão của mình. Chính điều này khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm
lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.
Ở lứa tuổi học sinh THPT các em tỏ ra mình là người lớn, muốn mọi
người xung quanh phải tơn trọng mình, thích thể hiện cá tính và cái tơi cá nhân
của mình. Đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân tích tổng

hợp, ln tị mị, ham học hỏi và có những ước mơ hồi bão cho mình. Ở tuổi
này mang tính chất tập thể, điều quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với
các bạn cùng lứa tuổi, cảm thấy mình cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất định
trong nhóm. Các em quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan hệ
với người lớn tuổi hoặc ít tuổi hơn. Quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần
dần cũng được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Vì vậy, ngồi gia đình,
nhà trường thì các giáo viên giảng dạy GDTC cần có những biện pháp để phát
huy những cá tính mạnh mẽ, những mặt tích cực của học sinh, đồng thời để sữa
chữa những khuyết điểm bộc lộ trong quá trình hoạt động GDTC của học sinh.


15
Lứa tuổi học sinh THPT có q trình hưng phấn chiếm ưu thế hơn nên các
em tiếp cận cái mới rất nhanh, nhưng cũng nhanh nhàm chán khi bị môi trường
bên ngoài tác động tạo nên sự đánh giá cao về mình, trái lại chỉ thất bại một lần
là tạm thời tự ti, rụt rè và dễ bỏ cuộc. Hưng phấn của các em xuất hiện thêm
nhiều mệt mỏi và đã được xác định rõ ràng hơn, mang tính chất bền vững, sâu
sắc và phong phú hơn. Các em thể hiện tính năng động, sẵn sàng đi vào các lĩnh
vực tri thức mà các em ưa thích và coi thường những thứ mà các em khơng thích.
Vì vậy, khi tiến hành công tác GDTC cho lứa tuổi này chúng ta cần tạo
điều kiện để các em thỏa mãn tính tích cực, độc lập trong hoạt động, tạo điều
kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các em. Bên cạnh đó chúng ta cần
phải uốn nắn, nhắc nhở, chỉ bảo, động viên các em, giúp đỡ các em hoàn thành
tốt bài tập trong điều kiện các em tiếp thu chậm. Từ đó các em khơng chán nản,
có định hướng đúng đắn và hiệu quả của bài tập được nâng cao, giúp các em tự
tin trong học tập.
1.3.2. Về mặt sinh lý.
Lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh
lý. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển
của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên của não phức tạp

và các chức năng của não phát triển.
* Hệ thần kinh:
Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng, cấu trúc của
tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não người
lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của
vỏ não lại. Điều đó cần thiết cho sự phức tạp hóa các hoạt động phân tích, tổng
hợp ... của bán cầu đại não trong quá trình học tập.


16
Hệ thần kinh tiếp tục phát triển đi đến khả năng hồn thiện tư duy, khả
năng phân tích tổng hợp và trừu tượng hóa được phát triển tạo điều kiện thuận
lợi cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm
thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và hồn thiện kỹ thuật động tác. Tuy
nhiên đối với một số bài tập mang tính đơn điệu, khơng hấp dẫn cũng làm cho
các em chóng mệt mỏi. Cần thay đổi hình thức tập luyện phong phú, vận dụng
các hình thức thi đấu, trị chơi để hoàn thành tốt các bài tập.
Ngoài ra, ở lứa tuổi này do sự hoạt động mạnh của các tuyến giáp, tuyến
sinh dục, tuyến yên làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa
hưng phấn và ức chế không cân bằng, làm ảnh hưởng đến hoạt động thể dục. Vì
vậy giáo viên GDTC cần bố trí các bài tập thích hợp, chú ý quan sát các phản
ứng của cơ thể học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
* Hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi học sinh THPT hệ tuần hoàn đang phát triển và đang dần đi đến
hoàn thiện, trọng lượng và sức chứa của tim phát triển tương đối hoàn chỉnh.
Tim của nam mỗi phút đập 70 – 80 lần, của nữ 75 – 85 lần. Mỗi phút cung cấp
số lượng máu gần tương đương với lứa tuổi trưởng thành.
Phản ứng của hệ tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt, nhưng sau vận
động mạch đập và huyết áp hồi phục tương đối nhanh chóng. Cho nên lứa tuổi
này có thể tập những bài tập chạy dài sức và những bài tập có cường độ và khối

lượng vận động tương đối lớn hơn lứa tuổi trung học cơ sở.
Bên cạnh đó, tuyến sinh dục, tuyến giáp và tuyến yên hoạt động mạnh, các
chất nội tiết tiết ra nhiều sẽ làm rối loạn sự chi phối của hệ thần kinh đối với hệ
tuần hoàn, dẫn đến hiện tượng cao huyết áp tạm thời của tuổi dậy thì. Vì vậy
trong khi bố trí các bài tập có khối lượng cường độ vận động lớn, hoặc các bài


17
tập phát triển sức bền cần phải hết sức thận trọng, nếu khơng sẽ có hại đến sức
khỏe.
* Hệ hơ hấp:
Vịng ngực lứa tuổi 15 – 17, nam trung bình từ 67,30 đến 72,22 cm, nữ từ
69,50 đến 74,84cm. Diện tích tiếp xúc khơng khí của phổi khoảng 100 – 120m2
gần bằng lứa tuổi trưởng thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng, lúc 15
tuổi dung lượng phổi khoảng 2 – 2,5 lít, từ 16 – 18 tuổi khoảng 3 – 4 lít, khả
năng hoạt động của phổi tăng lên rõ rệt. Lứa tuổi học sinh THPT khả năng hấp
thụ O2 và thải các khí CO2 cao hơn. Từ 12 – 14 tuổi thành phần khí thở ra gồm
17,6% O2, 3,3% khí CO2.., từ 16 – 18 tuổi thành phần khí thở ra có nhiều thay
đổi gồm 16% O2, 4% khí CO2... Tần số thở của lứa tuổi học sinh THPT cơ bản
giống người lớn khoảng 10 – 20 lần/phút.
Tuy nhiên các cơ thở vẫn còn yếu nên sức co giãn của lồng ngực thấp, học
sinh chủ yếu thở bằng bụng. Trong tập luyện cần chú ý thở bằng ngực, thở sâu,
chậm để tăng cường cơ năng cơ quan hô hấp. Luyện tập các động tác phát triển
cơ ngực, cơ lườn, cơ mình, tập các mơn: bơi lội, chạy cự ly trung bình, chạy việt
dã để có tác dụng tốt đến cơ quan hô hấp.
* Hệ cơ xương:
Giai đoạn này chiều cao của cơ thể phát triển chậm lại, đồng thời bề ngang
phát triển vì lúc này chiều dài của xương đã bị cốt hóa, điều đó chấm dứt sự phát
triển của chiều dài, sự cốt hóa này đã phá hủy và tiêu hao sụn dự trữ. Mặt khác,
được xây dựng lại thành các tổ chức xương do các tế bào xương.

Mỗi năm: nữ cao thêm 0,5 – 1cm, nam từ 1 – 3cm, nếu không rèn luyện
thân thể, luyện tập TDTT nữ sau 20 tuổi, nam sau 25 tuổi hầu như không cao lên
nữa. Tập luyện TDTT sẽ làm cho xương phát triển thêm về chiều dài và nhất là
về chiều ngang. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa được củng cố,


18
vẫn dễ bị cong vẹo. Cho nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác trong đi,
chạy, nhảy, ngồi... cho các em vẫn rất cần thiết và không thể xem nhẹ.
Hệ thống cơ phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn còn tương đối yếu. Các cơ bắp
lướn phát triển tương đối nhanh như cơ đùi, cơ cánh tay, còn các cơ nhỏ như cơ
bàn tay, ngón tay... phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớm hơn các cơ
duỗi, nhất là cơ duỗi của nữ lại càng tương đối yếu.
Do những đặc điểm trên nên ở lứa tuổi này cần tập những bài tập phát
triển sức mạnh, để góp phần đẩy mạnh sự phát triển của các cơ. Các bài tập phải
có tác dụng phát triển tồn diện các cơ, phải có mức độ phù hợp với sức chịu
đựng của cơ thể. Bảo đảm cho các cơ từ lớn đến nhỏ đều được phát triển. Vì vậy
trong quá trình học tập và tập luyện giáo viên cần chú ý đến đặc điểm này để lựa
chọn bài tập cho phù hợp.
1.4. Thực trạng công tác GDTC trong các trường phổ thông ở Việt Nam và tại
trường THPT Ngũ Hành Sơn – thành phố Đà Nẵng.
1.4.1. Thực trạng công tác GDTC trong các trường phổ thông.
Công tác GDTC trong các trường phổ thơng có một vị trí và ý nghĩa vơ
cùng quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ tri thức mới đáp ứng được những yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa nước nhà để
thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Giai đoạn học tập tại các trường phổ thông của học sinh là giai đoạn quan
trọng chuẩn bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để bước vào đời.
Trong những năm qua công tác GDTC trong các trường phổ thông đã đạt
được những thành tựu đáng kể về nhiều mặt:

- Bộ Giáo dục và Đào tạo, các ban ngành địa phương đã tích cực đầu tư và
nâng cấp cơ sở vật chất phục cho giảng dạy và học tập.


19
- Thời lượng chương trình giảng dạy GDTC trong trường phổ thông cũng
đã được tăng lên.
- Đội ngũ giáo viên được bổ sung và nâng cấp về trình độ chuyên môn.
- Công tác kiểm tra, đánh giá đã được thực hiện cụ thể hơn và có nhiều
hình thức đổi mới.
- Chương trình sách giáo khóa đã đưa vào cải cách và đổi mới, đồng thời
chuyển biến một cách cơ bản phù hợp với mục tiêu đào tạo.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ nói trên, tuy nhiên chất
lượng và hiệu quả GDTC trường học vẫn còn nhiều hạn chế:
- Thể dục không thuộc các môn văn hóa và khơng là mơn thi tốt nghiệp, vì
vậy nó còn chưa được sự quan tâm đúng mực của các bậc phụ huynh, các em học
sinh và các ban ngành liên quan, nhiều người không hiểu được tác dụng vô cùng
to lớn của GDTC trong trường học. Trong quá trình học tập và rèn luyện GDTC
có thể bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm nhận, tư duy linh hoạt, trí tưởng
tượng phong phú, tăng sức chú ý và năng lực ghi nhớ, làm giảm mệt mỏi và căng
thẳng, giúp cho đầu óc minh mẫn, thoải mái và nâng cao hiệu quả học tập. Học
tập và rèn luyện GDTC là điều kiện hữu ích bồi dưỡng những đức tính như: tinh
thần đoàn kết, hy sinh, dũng cảm, tạo dựng niềm tin vào cuộc sống cho học sinh.
- Điều kiện cơ sở vật chất tuy đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu học tập và giảng dạy ở các trường phổ thông.
- Hoạt động đào tạo chỉ diễn ra trong giờ học, việc học sinh tự học, tự rèn
luyện hầu như ít diễn ra, chất lượng giờ học, tiết học chưa phải là chỉ tiêu đánh
giá kết quả đào tạo.
- Hoạt động của giáo viên trong trường học mang tính chất tổ chức giờ tập
luyện cho học sinh, thông qua 90 phút/tuần để phát triển thể chất cho học sinh.



20
1.4.2. Thực trạng công tác GDTC tại trường THPT Ngũ Hành Sơn – thành phố
Đà Nẵng.
Công tác GDTC của trường THPT Ngũ Hành Sơn – thành phố Đà Nẵng
được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu nhà trường cùng các ban
ngành đoàn thể nên ngày càng được đầu tư và phát triển nhằm phục vụ tốt cho
việc học tập và rèn luyện GDTC cho học sinh, thúc đẩy các phong trào thể dục
thể thao trong nhà trường ngày càng phát triển. Cơ sở vật chất phục vụ cho công
tác giáo dục thể chất đã được trang bị nhiều hơn, trường có nhà tập đa năng, có
sân tập bóng đá, tập luyện TDTT… Tuy nhiên để đáp ứng cho việc giảng dạy và
học tập GDTC tại trường vẫn là một vấn đề lớn. Với hơn 1500 học sinh và đội
ngũ giáo viên giảng dạy GDTC có 4 giáo viên thì vấn đề học tập đang cịn gặp
nhiều khó khăn. Diện tích của nhà trường cũng tương đối hẹp, chỉ đủ xây dựng
phòng học và các phòng ban khác. Diện tích sân tập chỉ đáp ứng được khoảng
25% nên việc phục vụ cho học tập và rèn luyện ngoại khóa cho học sinh hầu như
là khơng có. Điều kiện sân bãi, dụng cụ phục vụ cho quá trình học tập GDTC
đang còn sơ sài, sử dụng chưa hợp lý dẫn đến việc giảng dạy và học tập trở nên
khó khăn hơn.
Qua điều tra thực trạng cho thấy cần phải đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật
chất và tăng cường thêm cán bộ giảng dạy của trường rất cần thiết cho việc giảng
dạy và học tập GDTC. Đồng thời phải đổi mới phương pháp giảng dạy, từ
phương pháp truyền đạt kiến thức như trước thành những phương pháp giúp học
sinh chủ động học tập dựa trên cơ sở vật chất nhà trường hiện có, mặt khác phải
bổ tu và sử dụng triệt để nhà tập đa năng để khắc phục những hạn chế trong học
tập và nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập GDTC cho học sinh.
1.5. Đặc điểm của trò chơi vận động.



21
Trong lịch sử xã hội lồi người, đã có một thời kỳ dài con người phải sống
bằng săn bắt và hái lượm. Có thể nói, chính cuộc sống lao động và đấu tranh để
sinh tồn và phát triển ấy đã là một sự thi đấu, một cuộc đọ sức về sức mạnh, sức
nhanh, sức bền, sự khéo léo linh hoạt, tài trí và sự dũng cảm... giữa con người
với thiên nhiên, với động vật. Chính trong cuộc sống lao động đó và nhờ có tư
duy mà con người thấy cần thiết phải sự chuẩn bị trước về sức khỏe, về công cụ
lao động... cho từng hoạt động lao động của mình. Những kinh nghiệm được lặp
đi, lặp lại nhiều lần trong thực tế đã giúp cho con người nhận biết được hiện
tượng tập luyện. Con người cũng dần dần nhận thấy rằng kết quả lao động phụ
thuộc khá nhiều vào sự chuẩn bị trước bằng những động tác tương tự những thao
tác lao động. Sau một ngày lao động và đấu tranh vất vả, người ta tụ tập nhau lại
và vui mừng với những thành quả lao động của mình. Trong những cuộc vui như
vậy, người ta nhắc lại những thao tác quyết định mà nhờ đó con người đã thắng
thiên nhiên để đem lại những thành quả. Con người vui chơi mà tập luyện, tập
luyện mà vui chơi. Trong q trình đó, người này thêm một chút, người kia bớt
một chút, dần dần những thao tác lao động được hình tượng hóa mang tính chất
tượng trưng. Cộng vào đó, khi khả năng tư duy, khả năng trừu tượng với ngơn
ngữ cũng như những kinh nghiệm tích lũy trong lao động phát triển cao, người ta
thấy rằng không nhất thiết phải tập luyện những động tác y như những thao tác
lao động mà chỉ tập luyện mang tính chất tượng trưng và trò chơi đã ra đời. Trò
chơi bắt nguồn từ lao động .
Ngay từ những ngày đầu, trò chơi đã mang tính chất giáo dục rõ rệt.
Người ta dùng trò chơi để dạy con cái, dạy lớp người trẻ, chuẩn bị cho họ tiếp
bước cha anh tham gia vào công cuộc lao động, đấu tranh để sinh tồn và phát
triển. Trong xã hội ngun thủy, những trị chơi có ý nghĩa nhất là những trò
chơi bắt chước thao tác lao động.


22

Sau này, cùng với giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội lồi người,
trường học được hình thành và mở rộng. Trường học trở thành trung tâm tập
trung những mầm non của xã hội. Ở đó người ta sử dụng những phương pháp,
nội dung giáo dục tinh hoa nhất để giáo dục lớp người trẻ, trong đó có trị chơi.
Trò chơi được coi là một trong những nội dung, đồng thời cũng là một phương
tiện giáo dục lớp trẻ nhanh nhất, có hiệu quả nhất, dễ tiếp thu nhất. Ngày nay hầu
hết các nước trên thế giới rất coi trọng trò chơi, trò chơi được khai thác và sử
dụng một cách triệt để trong giáo dục nói chung đặc biệt là trong giáo dục thể
chất ở nhà trường phổ thơng.
Trong chương trình GDTC ở trường phổ thơng, trị chơi vận động được sử
dụng vừa là một nội dung học tập vừa là một phương tiện huấn luyện. Các em
chơi mà học, học mà chơi một cách nhẹ nhàng nhưng thấm mạnh, thấm sâu, chất
lượng giáo dục cao. Vì vậy tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của của trị chơi để
sử dụng tác dụng tích cực của nó là điều cận thiết.
Hầu hết những trò chơi vận động được sử dụng trong quá trình giáo dục
thể chất ở nhà trường phổ thơng đã mang tính mục đích rõ ràng. Trong quá trình
chơi, các em tiếp xúc, quan hệ với nhau, cá nhân phải hồn thành nghĩa vụ của
mình trước tập thể với một trách nhiệm cao, tập thể có trách nhiệm giúp cá nhân
hồn thành trách nhiệm của mình, vì vậy tình bạn, tình đồng chí, tinh thần tập
thể, trách nhiệm của cá nhân trước tập thể... được hình thành. Cũng trong quá
trình chơi, đã xây dựng cho các em tác phong khẩn trương, kỷ luật, sáng tạo để
hoàn thành nhiệm vụ với năng suất cao... góp phần vào sự hình thành nhân cách
cho học sinh. Vì vậy có thể nói trị chơi mang tính tư tưởng rất cao.
Chơi là một nhu cầu trong đời sống của tuổi trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi học
sinh cấp cơ sở và phổ thơng. Có thể nói u cầu vui chơi đối với các em cần thiết
và quan trọng như yêu cầu ăn, ngủ, học tập trong sinh hoạt hàng ngày. Chính vì


23
vậy dù được hướng dẫn hay không hướng dẫn, các em vẫn tìm mọi cách để chơi.

Các em tự tổ chức trị chơi trong mọi lúc, mọi nơi nếu có thể. Do chơi là một yêu
cầu của các em, nên khi được chơi các em đã tham gia một cách hồn tồn có tự
giác và chủ động. Tự giác tham gia luyện tập là một yếu tố quan trọng trong học
tập giáo dục thể chất. Trò chơi đáp ứng rất tích cực các yếu tố đó, nên đặc tính tự
giác là một trong những nguyên nhân làm cho trò chơi được coi trọng, được sử
dụng một cách triệt để, tích cực trong giáo dục thể chất ở trường phổ thông.
Trong quá trình chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng: niềm vui khi
thắng lợi, nỗi buồn khi thất bại, vui mừng khi đồng đội của mình hồn thành
nhiệm vụ một cách xuất sắc, bản thân thấy có lỗi khi khơng hồn thành nhiệm vụ
do tập thể giao cho... Vì danh dự của tập thể mà các em ln ln phải cố gắng
phấn đấu khắc phục khó khăn để mang lại vinh quang cho tập thể trong đó có
bản thân mình. Do đó trị chơi vận động có tính thi đua rất cao.
Mỗi trị chơi thường có những quy tắc, luật lệ, quy định nghiêm, nhưng
cách thức đều đa dạng. Trong khi đó bản thân trị chơi lại mang sẵn tính thi đua
và tính tự giác. Vì vậy, khi đã tham gia chơi, thông thường người chơi vận dụng
hết khả năng về sức lực, trí thơng minh và óc sáng tạo của mình. Chính những
cái đó đã hạn chế khả năng điều chỉnh khối lượng vận động cho người chơi. Đây
là một đặc điểm quan trọng mà các giáo viên khi tổ chức cho học sinh cần lưu ý,
nếu không sẽ dẫn đến hiện tượng quá mệt mỏi, ảnh hưởng đến sức khỏe của các
em. Dựa vào những quy tắc, yêu cầu và thời gian đã quy định của trò chơi mà
tăng hay giảm phạm vi hoạt động, thời gian, khơng gian... để điều chỉnh lượng
vận động của trị chơi cho thích hợp.
1.6. Ý nghĩa và tác dụng của trò chơi vận động trong giảng dạy và học tập
GDTC.


24
Trong nhà trường phổ thông nước ta hiện nay, giáo dục thể chất được coi
là một hoạt động học tập như những hoạt động học tập văn hóa khác, là một bộ
phận quan trọng trọng giáo dục và đào tạo thế hệ tương lai của Tổ quốc. Trong

chương trình giáo dục thể chất ở trường phổ thơng, trị chơi chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng. Trị chơi ở đây được sử dụng một cách triệt để, vừa là một nội dung
học tập, vừa là một phương pháp giảng dạy. Ở lứa tuổi này các bài tập, bài học
nếu được giảng dạy dưới dạng trị chơi thì học sinh rất ham thích, các em học tập
rất tích cực, tự giác, đạt kết quả cao. Trò chơi đã được quy định một tỷ lệ thời
gian nhất định trong chương trình giáo dục thể chất ở trường phổ thơng, cịn
những mơn khác như điền kinh, thể dục rèn luyện các kỹ năng vận động cơ bản
đều được giảng dạy ở mức độ cơ bản đơn giản nhất, đôi khi được giảng dạy như
một trị chơi. Có thể nói trị chơi vận động và phương pháp giảng dạy trò chơi
được đặc biệt chú ý và coi trọng trong những nội dung cũng như trong phương
pháp truyền thụ kiến thức giáo dục thể chất cho cấp trung học phổ thơng, trong
đó đặc biệt là những lớp đầu cấp.
Trị chơi là một hình thức vận động tổng hợp các hoạt động vận động cơ
bản của con người như đi, chạy, nhảy, ném, leo trèo, mang vác... Trong chương
trình giáo dục thể chất ở nhà trường phổ thơng, trị chơi được kết hợp chặt chẽ
với các mơn thể dục, điền kinh, bóng chuyền, cầu lơng... Thơng qua trị chơi, học
sinh ơn luyện để củng cố và nâng cao kỹ thuật đã được học ở các môn trong
chương trình giáo dục thể chất.
Sau một tiết học giáo dục thể chất, việc giao bài tập cho học sinh về học
tập và ôn luyện ở nhà trở thành một khâu không thể thiếu được và đang được
nhiều giáo viên giáo dục thể chất và học sinh ủng hộ. Nội dung học và ơn luyện
ở nhà có nhiều hình thức như học lý thuyết các nguyên lý kỹ thuật động tác, sưu
tầm tranh ảnh kỹ thuật, tập các động tác bổ trợ, các bài tập phát triển thể lực và


25
đặc biệt là các bài tập ôn luyện các bài đã học ở dạng trị chơi. Vì vậy, trị chơi ở
trường phổ thông không chỉ là một nội dung học tập mà cịn là phương tiện
giảng dạy có hiệu quả, cũng là một phương pháp được các em ưa thích. Và trị
chơi chính là một phương tiện để rèn luyện thể lực, thể chất và giáo dục nhân

cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh rất hiệu quả.
Trò chơi cũng như những hoạt động giáo dục thể chất khác, nếu được thực
hiện đúng phương pháp khoa học thì nhất định có tác dụng nâng cao sức khỏe.
Đây là mục đích cơ bản, quan trọng nhất trong giáo dục thể chất. Trong quá trình
chơi, hệ vận động được củng cố và phát triển, hệ hơ hấp, tuần hồn, bài tiết...
được rèn luyện, thơng qua đó các chức năng thần kinh khơng ngừng được củng
cố, nâng cao và hoàn thiện làm cho học sinh phát triển toàn diện các tố chất
nhanh, mạnh, bền, khéo léo... cơ thể phát triển nhịp nhàng, cân đối và hài hịa
đúng theo quy luật giới tính và lứa tuổi.
Với những cơng trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học đã đi đến kết luận
rằng: vận động là một hiện tượng sinh học, là một nhu cầu của cơ thể ở mọi lứa
tuổi, đặc biệt với thanh thiếu niên. Trong quá trình phát triển của cơ thể, nhu cầu
vận động là chức năng sinh học bẩm sinh, là những tín hiệu có điều kiện phức
tạp. Mối quan hệ giữa các cơ quan cảm thụ đến bộ máy vận động thông qua sự
chỉ huy của thần kinh trung ương là một mối liên hệ rất chặt chẽ. Nói một cách
khác, các phản xạ từ các cơ quan nội tạng có ảnh hưởng tới chức phận của hệ
vận động, trước hết là cơ bắp và ngược lại tình trạng chức năng của hệ vận động
sẽ ảnh hưởng tới các cơ quan nội tạng. Vì vậy, ít vận động là ngun nhân gây ra
sự suy yếu toàn bộ cơ thể về chức năng của từng hệ cơ quan trong cơ thể.
Tập luyện các bài tập thể chất, đối với học sinh trò chơi là một trong
những hình thức tập luyện có hiệu quả nhất nhằm kích thích sự hoạt động của
các cơ quan cảm thụ bản thể thông qua sự hoạt động của hệ thần kinh, tim


×