1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------
TRẦN QUỐC TOẢN
Đánh giá lựa chọn một số giải pháp nhằm nâng cao
tính tự giác tích cực trong giờ học môn giáo dục thể
chất của học sinh khối 10 -11 trường THPT
Nguyễn Duy Hiệu tỉnh Quảng Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển hài hòa ở mỗi một con người, con người không chỉ
học hỏi tiếp thu những tri thức thuần túy của xã hội mà còn phải tập luyện thể
dục thể thao. Tập luyện thể dục thể thao đem lại cho con người sự hoàn thiện
về thể chất phong phú về tinh thần….Và nhiều mặt giáo dục khác. Ngay từ
thời xa xưa thể dục thể thao được coi là một bộ phận của nền văn hóa nhằm
hoàn thiện con người với quan điểm vận động là sức khoẻ là sự sống; các nhà
triết học thời cổ đại như: PLATON,ARIXSTOS đã đề cao cái đẹp trong sự
phát triển hài hòa “trong sạch về đạo đức phong phú về tinh thần hoàn thiện
về thể chất” do thể dục thể thao đem lại. Ngày nay vai trò to lớn của thể dục
thể thao đối với sự hình thành và phát triển hài hoà về mặt thể chất, tinh thần,
tâm lý….. của con người, được nhiều nhà khoa học đặt thành vấn đề nghiên
cứu nghiêm túc, thể dục thể thao được coi là một trong những hình thức và
biện pháp quan trọng nhất để phát triển cơ thể con người một cách toàn diện
một yếu tố cần thiết toàn diện trong việc giáo dục con người về các mặt Đức Trí - Thể - Mĩ.
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng nhà nước
và Bác Hồ luôn luôn chăm lo sự nghiệp thể dục thể thao nước nhà coi công
tác thể dục thể thao là công tác cách mạng coi việc xây dựng và phát triển nền
thể dục thể thao Việt Nam tiến bộ dân tộc khoa học và nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Thật vậy sau khi nước Việt Nam non trẻ ra đời. Bác Hồ đã ra lời kêu
gọi toàn dân tập thể dục. Trong buổi sơ khai của nền dân chủ mới, lời kêu gọi
của Bác Hồ như một bản khai sinh của nền thể dục thể thao mang tính nhân
dân sâu sắc Bác nói‘‘Hỡi đồng bào tồn quốc! Giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công.
Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một
người dân mạnh khoẻ, tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên
3
luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân u nước.
Việc đó khơng tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trẻ, ai cũng nên làm và ai
cũng làm được. Mỗi ngày tập một ít thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết
lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe. Bộ giáo dục có nhà thể dục,
mục đích là để khuyên và dạy cho đồng bào tập thể dục, giữ gìn và bồi dưỡng
sức khỏe. Dân cường nước thịnh. Tơi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập
thể dục - tự tôi ngày nào tôi cũng tập thể dục”.
Đất nước ta tiến lên xây dựng một xã hội mới xã hội chủ nghĩa, mọi
ngành mọi lĩnh vực, mọi nhân tố đều hướng vào mục tiêu cao cả dân giàu
nước mạnh dân chủ văn minh, con người Việt Nam ta với truyền thống tự lực
tự cường tinh thần yêu nước sâu sắc, có vị thế xứng đáng về mọi mặt trong
tiến trình phát triển con người của nhân loại cũng như các lĩnh vực kinh tế
khác. Mục tiêu của công tác GDTC là xây dựng XHCN, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy ‘‘muốn xây dựng CNXH phải có con người XHCN’. Đó là con
người được phát triển tồn diện về mọi mặt: Đức – Trí – Thể - Mĩ.
Chính vì những vấn đề đó để giáo dục thể chất mang lại hiệu quả trong
quá trình giảng dạy ở trường THPT giáo viên cần lựa chọn và áp dụng một số
phương pháp sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm tâm, sinh lý
của học sinh nó địi hỏi phải luôn đảm bảo các nguyên tắc. Một trong những
nguyên tắc mà người giáo viên cần chú ý và áp dụng nhiều hơn trong quá
trình giảng dạy là nguyên tắc tự giác tích cực. Bởi vì tính hiệu quả của quá
trình sư phạm một phần được xác định là do học sinh có thái độ tự giác tích
cực thực hiện mọi yêu cầu của giáo viên hay không? Giảng dạy TDTT cho
học sinh THPT là nhằm góp phần bồi dưỡng giáo dục những trí thức kĩ năng,
kĩ xảo vận động cơ bản, nhận thức được phong trào rèn luyện thân thể, truyền
thống thượng võ của dân tộc và tầm quan trọng của quá trình giáo dục thể
chất, điều quan trọng là giúp học sinh hiểu được sự cần thiết phải rèn luyện
thể dục thể thao thường xuyên và ý nghĩa của thể dục thể thao trong việc
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đủ sức khỏe để học tập lao động trong cuộc sống sau
4
này. Từ đó học sinh hình thành được thói quen tự giác và tích cực tập luyện
thể dục thể thao và rèn luyện thân thể.
Giảng dạy TDTT không những là phương tiện phương pháp giáo dục
mà còn là một quá trình sư phạm thống nhất với các hoạt động đời sống của
học sinh. Mặt khác phải giúp học sinh nâng cao dần những điều đúng sai, nên
làm, cần làm, xây dựng động cơ đúng thực hành tích cực các yêu cầu của giáo
viên, cha mẹ về mặt giáo dục ở lớp, trường cũng như ở gia đình.
Giảng dạy TDTT cho học sinh THPT là q trình giáo dục mang tính
sư phạm, cần có mục đích rõ ràng dễ hiểu và có ý nghĩa giáo dục thiết thực
hàng ngày, giáo viên không những cần dạy cho học sinh biết thực hiện theo
đúng động tác mà còn biết phối hợp các động tác riêng lẽ với nhau một cách
nhịp nhàng, liên tục qua đó bồi dưỡng cho học sinh các phẩm chất đạo đức,
lịng u thích hoạt động thể chất, tính tự giác tích cực lịng dũng cảm tự tin,
kiên nhẫn….khả năng chịu đựng và vượt qua khó khăn, thói quen và khả năng
tập trung tư tưởng, chú ý thực hiện nhiệm vụ, nội quy tập luyện và bài học
trên lớp ở nhà, phát huy tính tự giác tích cực trong học tập và trong tập luyện
của học sinh. Chính là tạo điều kiện để học sinh có tinh thần hứng thú thực sự
trong tập luyện. Giáo viên cần gợi ý tạo điều kiện để có thể đáp ứng được nhu
cầu chính đáng của học sinh. Trong quá trình giảng dạy cần chọn nội dung tập
luyện hấp dẫn, các hình thức tập luyện phải đa dạng tránh đơn điệu dễ gây
buồn chán, trong q trình hữu cơ tới cảm giác sảng khối và cảm xúc tốt đẹp
khác. Biết tổ chức hợp lý bài học buổi tập tốt sẽ là một yếu tố cơ bản để khêu
gợi và phát triển sự hứng thú, say mê tập luyện phấn đầu đạt thành tích cao
trong thể thao của học sinh.
Giáo viên cần có phương pháp đánh giá đúng mức, hệ thống, kết hợp
với việc biểu dương kịp thời và đúng mức thành tích học tập rèn luyện của
học sinh, để tạo nên tác dụng tốt trong sự phát huy tính tự giác tích cực say
mê luyện tập đặc biệt đối với học sinh THPT các lớp đầu cấp, chính việc đánh
giá đúng mức của giáo viên trong q trình tập luyện TDTT có tác dụng bồi
5
dưỡng tính tự lập, thúc đẩy học sinh cố gắng hồn thành bài tập. Khi thực
hiện trị chơi, khi giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến
đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi các lớp đầu khóa, như giao nhiệm vụ học tập,
tập luyện nên đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện sau đó nâng dần yêu cầu lên để
phát huy tính vươn lên và vượt khó của học sinh. Để đảm bảo nguyên tắc tự
giác tích cực trong học tập TDTT, giáo viên không ngừng lựa chọn, cải tiến
phương pháp nội dung giảng dạy phù hợp với sức khỏe lứa tuổi của học sinh
và các điều kiện của nhà trường.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn như trên chúng tôi đã đi tới lựa
chọn và nghiên cứu đề tài "Đánh giá lựa chọn một số giải pháp nhằm nâng
cao tính tự giác tích cực trong giờ học mơn giáo dục thể chất của học sinh
khối 10 -11 trường THPT Nguyễn Duy Hiệu tỉnh Quảng Nam”
6
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Quan điểm cuả Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trong
trường học.
Nghị quyết của Ban chấp hành TW Đảng lần thứ V – khóa IX đã nêu
“Định hướng và phát triển đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa và xác định rõ nhiệm vụ, đào tạo là dạy người, thực hiện tư tưởng chiến
lược con người là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, và GDTC là nhu cầu bản
thân của con người, đồng thời là vốn quý tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho
xã hội, sự phát triển thể chất của con người có liên quan chặt chẽ đến các định
hướng phát triển tồn xã hội, đến thể chế chính trị, đến bước tiến của khoa
học và kỹ thuật”.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tri thức
có tác dụng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm thay đổi tận gốc
lực lượng sản xuất hiện đại. Từ thực tế cuộc sống địi hỏi con người phải có
sức khỏe, khả năng lao động và các thao tác có tri thức. Con người là chủ thể
của mọi sự sáng tạo, chủ thể của mọi của cải vật chất và văn hóa để xây dựng
xã hội công bằng và văn minh. Do nhận thức được vai trò quan trọng trong xã
hội của con người, Đảng ta đã chủ trương phát triển con người toàn diện, là
con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần và trong sáng về đạo đức. Cơ sở bền vững để tồn tại lâu dài của mọi quốc
gia, mỗi dân tộc được bắt đầu từ việc chăm lo cho sự phát triển con người về
mọi mặt. Trong đó, việc đầu tư nhằm nâng cao thể lực, nâng cao sức khỏe cho
học sinh là một vấn đề quan trọng trong việc phát triển nhân tố con người.
Khi phê phán tình trạng yếu kém về giáo dục thể chất trong các nhà
trường của nước ta ở thời kì Pháp thuộc, Phan Bội Châu – nhà yêu nước của
Việt Nam đầu tiên có tên tuổi đầu thế kỉ XX đã viết: “ Các môn trong trường
tiểu học khơng có gì quan trọng hơn mơn thể dục mà trường khơng có mơn
đó, thể dục tay khơng, thể dục với vũ khí, thể dục giải trí cho đến các thứ vận
động khác đều không được đưa vào chương trình giảng dạy. Lạ hơn nữa là
7
các trường tiểu học của trẻ em người Pháp thì có sân vận động mà các
trường tiểu học của con em Việt Nam thì ngược lại. Vì trẻ em Việt Nam mà
khỏe mạnh thì người Pháp khơng ưa nên thể dục là môn phải nghiêm cấm”.
(Phan Bội Châu, Thiên Hồ, Hồ Dế - Bản dịch của Chương Thân – NXB năm
1978).
Cũng chính vì thực tế quan trọng như vậy và để muốn phát triển con
người tồn diện thì phải làm cách mạng về phát triển con người toàn diện, tạo
tiền đề cơ bản trước nhất. Vì vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng,
Nhà nước Dân chủ cộng hịa được thành lập, ngày 27/3/1946 chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục. Đồng thời Người đã kí sắc lệnh
nhà thể dục nhằm phát triển phong trào “khỏe vì nước” và thực hành giáo dục
thể chất cho học sinh, sinh viên. Từ đó đến nay thực hiện lời dạy của Hồ Chủ
tịch Đảng, Nhà nước ta đã coi trọng công tác giáo dục thể chất trong trường
học, nhằm đào tạo lớp người phát triển toàn diện để kế tục sự nghiệp cách
mạng, xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng XHCN và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết của Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 4 – khóa VII đã xác
định mẫu người trong thời kỳ hiện đại là “ con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
TDTT ngoài thỏa mãn nhu cầu sức khỏe, tình cảm, tinh thần, còn tác động
trực tiếp lên cơ thể con người, làm thay đổi phát triển hoàn thiện hệ thống
chức năng của cơ thể, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cho con người
nó cịn là lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật mang tính quần chúng, mọi người xích
lại gần nhau hơn. Hơn nữa nó là nhịp cầu thắt chặt tinh thần đoàn kết hiểu biết
lẫn nhau giữa các dân tộc. GDTC ở các trường THPT cũng đã góp một phần
tích cực của mình trong thắng lợi của sự nghiệp giáo dục, góp phần củng cố,
nâng cao sức khỏe, xây dựng nếp sống mới của học sinh trong nhà trường.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW Đảng khóa IX đã
nêu: “định hướng phát triển và đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa” và xác định rõ nhiệm vụ giáo dục và đào tạo là “ dạy người” thực
8
hiện tư tưởng chiến lược “con người là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã
hội” trong đó sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người,
đồng thời là vốn quý tạo ra tài trí tuệ và vật chất cho xã hội. Sự phát triển thể
chất của con người có liên quan chặt chẽ đến các định hướng phát triển của
toàn xã hội, đến thể chế chính trị, đến các bước tiến của khoa học kỹ thuật.
Văn kiện Đại Hội Đảng lần thư 8 chỉ rõ “ cơ thể cường tráng là cơ sơ của
đời sống vật chất và tinh thần xã hội”. Không có cơ thể cường tráng khỏe
mạnh thì học sinh khó hồn thiện nhiệm vụ học tập và khó phát huy được
năng lực của mình trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh sự phát triển của giáo dục phù thuộc
vào điều kiện sống vật chất, khám phá ra bản chất xã hội, bản chất giai cấp
đồng thời còn chỉ ra rằng trong XHCN Cộng sản tương lai con người phát
triển toàn diện là một yếu tố khách quan, bởi nó là nhu cầu xã hội.
Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới và được thế giới cơng
nhận danh hiệu Anh hùng giải phóng dân tộc. Bác là người trung thành với
học thuyết Mác – Lênin. Trong chỉ đạo công tác cách mạng và lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc Bác cũng rất quan tâm đến công tác TDTT, coi đó
là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp giáo dục Cộng Sản Chủ Nghĩa cho
thanh niên. Hồ chủ tịch cũng đã chỉ rõ cho thanh niên “Phải rèn luyện thân thể
cho khỏe mạnh. Khỏe thì mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ
những công việc ích nước lợi dân”. Những quan điểm đó của các nhà lãnh
đạo là tư tưởng chỉ đạo cách mạng, đồng thời cũng chỉ rõ vị trí, ý nghĩa quan
trọng của TDTT trong giáo dục toàn diện cũng như mối quan hệ biện chứng
giữa Đức – Trí – Thể - Mĩ.
Trong những năm gần đây, ngành GD&ĐT đã có nhiều đổi mới về
công tác GDTC và đã đạt nhiều kết quả đáng kể trên lĩnh vực giáo dục thể
chất, sức khỏe và y tế học đường.
Chỉ thị 36CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí Thư TW Đảng (khóaVII)
giao trách nhiệm cho bộ GD&ĐT và Tổng cục TDTT thường xuyên phối hợp
9
chỉ đạo, tổng kết công tác GDTC. Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn
rèn luyện thể thao, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC trở thành nếp sống
hằng ngày của hầu hết HS - SV, qua đó phát hiện và tuyển chọn được nhiều
tài năng thể thao cho đất nước. Luật giáo dục được Quốc hội khóa IX nước
Cộng hịa XHCN Việt Nam thông qua ngày 02/12/1998 và pháp lệnh TDTT
được ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua tháng 09/2000 quy định. “Nhà
nước coi trọng TDTT trường học, nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho
tầng lớp thanh thiếu niên và nhi đồng. GDTC là nội dung bắt buộc đối với HS
– SV, được thực hiện theo hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại
học. TDTT ngoại khóa cho người học. Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện cho HS – SV được tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và
điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng thực hiện mục tiêu giáo
dục tồn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Ủy ban thường vụ quốc hội đã ban hành pháp lệnh TDTT gồm 9
chương, 59 điều nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về TDTT để
nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực tồn dân, góp phần hình thành nhân cách
con người Viêt Nam, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Pháp
lệnh qui định :
“ Giáo dục thể chất trong trường học là chế độ bắt buộc nhằm tăng
cường, phát triển thể chất, góp phần hình thành và phát triển nhân cách, đáp
ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học”
Mục tiêu của GDTC và thể thao trường học là nhằm góp phần thực
hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý
kinh tế và văn hóa xã hội phát triển hài hịa, đáp ứng yêu cầu chuyên môn
nghề nghiệp, cơ thể cường tráng. GDTC và thể thao trường học duy trì và
củng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực cho học sinh, rèn luyện thân thể
đạt tiêu chuẩn thể lực quy định. Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản
10
về nội dung và phương pháp tập luyện TDTT, kĩ năng vận động và kỹ thuật
động tác cơ bản của một số mơn thể thao.
1.2 Ý nghĩa vai trị của hoạt động thể dục thể thao
Cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội TDTT nước ta coi con
người là vốn quý, con người là hiện thân của những thành quả sáng tạo vô giá
là động lực của quá trình phát triển là niềm vui của mọi giai đoạn trong lịch
sử. Cũng là cơ sở để phát triển giống nịi. Đối với chúng ta sự hình thành con
người phát triển hài hịa, hồn thiện về mặt thể lực phong phú về tinh thần
trong sáng về đạo đức là nguồn lực to lớn nhất để xây dựng xã hội mới.
Trong những năm vừa qua hoạt động TDTT của nước ta được đầu tư
phát triển mạnh nhiều câu lạc bộ thể thao ra đời nhiều phong trào tập luyện
TDTT với nhiều hình thức khác nhau trên truyền hình.
1.2.1 Ý nghĩa của TDTT đối với đạo đức
Thông qua việc học tập và rèn luyện TDTT đã giúp mọi người nhận
thức sâu xa về bản chất của TDTT. Khác với các chế độ xã hội khác TDTT ở
các nước văn minh tiến bộ nói chung và nước ta nói riêng là nhằm mục đích
mang lại sức khỏe cho nhân dân lao động để học tập, sản xuất và khi cần thì
chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Sống một cuộc sống tươi vui, lành mạnh dưới chế
độ Xã hội chủ nghĩa nhân dân có điều kiện về kinh tế và xã hội tham gia hoạt
động TDTT, rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe, làm cho đời sống tinh
thần thêm phong phú, lành mạnh. Từ thực tế đó giúp ta thêm tự tin ở sự lãnh
đạo của Đảng, càng yêu thêm chế độ, càng tự hào về chế độ mới – chế độ mà
con người phát huy được mọi khả năng và trí tuệ của mình. Sức khỏe của con
người được coi là vốn quý cần nhìn nhận một cách biện chứng với tư tưởng,
đạo đức của một con người cụ thể không thể tồn tại bên ngồi cơ thể sống.
Nói cách khác tư tưởng, đạo đức luôn tồn tại gắn liền với một cơ thể nhất
định. Cho nên nếu cơ thể phát triển bình thường, khỏe mạnh thì thần kinh tốt,
tinh thần minh mẫn. Cơ thể khỏe mạnh là tiền đề vật chất phát huy cao độ
nghị lực dũng khí cách mạng của mình cống hiến được nhiều hơn như Hồ
11
Chủ tịch đã từng dạy: “Luyện tập thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận
của mỗi người dân yêu nước”.
Ngồi ra q trình tập luyện TDTT cịn là một quá trình phát triển và
thử thách nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Như ý thức tổ chức kỉ luật trong các buổi tập, thái độ chấp hành các
quy tắc, luật lệ thi đấu.
Như tính kiên trì, chịu khó trong tập luyện, ý chí vượt gian khổ bởi vì
q trình tập luyện TDTT nâng cao thành tích và hồn thiện thể chất là một
q trình phấn đấu gian khổ, phải có ý thức kiên cường mới vượt qua được.
Nó địi hỏi người tập phải nghiêm khắc với bản thân mình, nhất là với chế độ
sinh hoạt và tập luyện hàng ngày, nó chống lại mọi lối sống bê tha, phóng
túng trong sinh hoạt. Quá trình tập luyện TDTT là một quá trình rèn luyện
tinh thần dũng cảm, linh hoạt, mưu trí. Những phẩm chất đó rất cần thiết cho
con người mới năng động, sáng tạo.
Như sự thống nhất giữa quyền lợi cá nhân và tập thể trong luyện tập,
đặc biệt là trong thi đấu, nó địi hỏi người tập phải tự chủ, phải phối hợp chặt
chẽ giữa kỉ luật và chiến thuật cá nhân với đồng đội mới có thể dành được
thành tích cao, mới mang lại vinh dự cho tập thể và bản thân.
Thông qua tập luyện và thi đấu, biểu hiện TDTT cịn tăng cường tính
đồn kết hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tập thể, các địa phương, các
dân tộc và giao lưu quốc tế.
1.2.2 Ý nghĩa, vai trị của TDTT đối với trí dục
Cơ thể con người là một khối thống nhất trí lực và thể lực đều do hệ
thống thần kinh trung ương điều khiển khoa học về tâm lí và sinh lí – người
đã chỉ ra, một cơ thể khỏe mạnh là tiền đề vật chất giúp con người phát triển
năng lực hoạt động trí óc của mình. Bộ não là cái giá đỡ vật chất của trí tuệ và
tâm lí. Não khơng được ni dưỡng, thiếu rèn luyện thì não sẽ chết nhận thức,
tình cảm, ý chí. Nhân cách cũng sẽ khơng tồn tại và biến mất. Ngược lại trong
một cơ thể lành mạnh não sẽ hoạt động nhanh hơn, tinh vi hơn và ít sai sót
12
hơn bảo đảm được tính bền vững và ổn định trong trường hợp có sự biến đổi
ở bên ngồi và nhất là sự sáng suốt của hoạt động tư duy.
Hoạt động TDTT ln thay đổi theo tình huống và hành động, là một
loại nghỉ ngơi tích cực nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc phát triển chức
năng của vỏ não, đến tính linh hoạt của q trình thần kinh, đến sự hồn thiện
của bộ máy phân tích, nâng cao hiệu quả vùng phản xạ ảnh hưởng đến tốc độ
và sự vững chắc của sự hình thành phản xạ có điều kiện, cải tạo hoạt động trí
tuệ. Bởi vậy, những trẻ em có cơ thể khỏe mạnh, có hệ thần kinh được rèn
luyện vững chắc thường là những em bé linh hoạt, nhạy cảm với hoạt động
nhận thức. Nhờ quá trình hưng phấn và ức chế mạnh mẽ, những trẻ em như
vậy dễ tập trung tư tưởng phong phú, có óc phân tích tổng hợp nhanh, khả
năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, trí nhớ tốt.
Đó là tất cả những đặc trưng tâm lí để con người có tiềm lực dồi dào về
hoạt động trí óc, có cơ sở để phát triển trí thơng minh và năng lực của mình.
TDTT có ý nghĩa rất to lớn trong việc kéo dài năng lực lao động trí óc
của con người về cả hai lứa tuổi trẻ và già.
Nhờ rèn luyện thân thể và vệ sinh phòng bệnh tốt trẻ em sẽ sớm phát
huy được năng lực nhận thức của mình. Thực tế cho thấy những đứa trẻ khỏe
mạnh đều sớm biết nói, tiến bộ nhanh về mặt ngôn ngữ. Nhờ vậy mà quá trình
nhận thức đối với thế giới xung quanh được nâng lên mau chóng và năng
khiếu cũng có điều kiện biểu hiện sớm.
Mặt khác TDTT còn tạo điều kiện cho người cao tuổi duy trì bộ nhớ
của mình một cách minh mẫn và sáng suốt, kéo dài tuổi thọ và hoạt động
nhận thức. Ví dụ, thơng qua tập luyện TDTT thân thể khỏe mạnh, trí nhớ tốt
hạn chế được những sự suy yếu của kí ức, một nhân tố của bộ óc sáng tạo.
Trong thực tiễn vẫn có nhiều người ốm yếu nhưng vẫn có tài năng. Tuy
nhiên có thể khẳng định rằng tuổi thọ của những tài năng và bộ óc đó khơng
cao, họ thiếu điều kiện để đem tài trí của mình phục vụ lâu dài cho Tổ quốc.
13
TDTT cịn có tác dụng tốt đến việc nâng cao trình độ văn hóa, kiến
thức khoa học cho thế hệ trẻ. Trước hết cần thấy rằng văn hóa thể chất là một
bộ phận của văn hóa nhân loại. Nhờ tham gia hoạt động TDTT mà học sinh
củng cố, mở rộng được những kiến thức khoa học phổ thông mà các em đã
được học. Nhất là khi đi sâu vào khoa học TDTT thanh thiếu niên sẽ phải vận
dụng nhiều các tri thức về sinh lí giải phẫu, vật lí, tốn học, hóa học, sinh
học,… nhờ vậy kiến thức văn hóa, khoa học có điều kiện được củng cố và
phong phú thêm, được vận dụng vào thực tiễn giúp học sinh nhớ lâu và khắc
sâu thêm kiến thức.
Ngoài ra nhờ tham gia hoạt động TDTT đã giúp các em hiểu sâu hơn về
cơ thể con người, về vệ sinh trong tập luyện, về phương pháp rèn luyện thân
thể và theo dõi kiểm tra sức khỏe của bản thân những người xung quanh, hiểu
rõ và thưởng thức nghệ thuật TDTT. Bên cạnh đó những buổi hành qn cắm
trại, các trị chơi, các buổi tham quan hoặc trực tiếp tham gia thi đấu đều là
những bài học sinh động về tự nhiên, xã hội.
1.2.3 Ý nghĩa của TDTT đối với mĩ dục
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục thẩm mĩ là bồi dưỡng
cho học sinh năng lực thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật, năng lực cái đẹp
trong cuộc sống, trong lao động, trong thiên nhiên và trong hành vi của con
người mới xã hội chủ nghĩa. Mĩ dục còn bồi dưỡng cho học sinh những tình
cảm lành mạnh trong sáng, làm cho các em yêu cuộc sống, yêu cái đẹp chân
chính, ghét cái xấu, cái giả tạo.
Với ý nghĩa của mĩ dục, TDTT được coi là phương tiện góp phần tích
cực vào việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.
Trước hết TDTT làm cho thanh thiếu niên nhận thức đúng đắn và có
tình cảm đối với những hành vi cử chỉ đẹp, lành mạnh của con người, song có
mục đích, ln ln lạc quan, u đời, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Đó
là những cái đẹp của hành vi dũng cảm, ý chí kiên cường, vượt qua mọi khó
khăn trong tập luyện và trong thi đấu hoặc những hành vi tự giác nhận lỗi vi
14
phạm các quy tắc thao trường. Đó cịn là tư tưởng tình cảm lành mạnh của
người vận động viên mới biết gắn tài năng của cá nhân vào sự nghiệp chung
của đất nước.
Hoạt động TDTT ở nước ta hầu hết được tiến hành ngoài trời trên sân
cỏ rộng và quang đãng làm cho tâm hồn sảng khoái. Hơn nữa một số hoạt
động như du lịch, hành quân cắm trại, thi đấu sẽ tạo điều kiện cho các em học
sinh mở rộng tầm mắt nhìn xa hơn, thưởng thức cái đẹp hùng vĩ của thiên
nhiên đất nước ta. Thấy được cái đẹp mn hình mn vẻ của những hoạt
động lao động và sản xuất của một xã hội mới đang vươn mình và vững bước
đi lên ở các cơng trình, nhà máy vùng mỏ, vùng q,… Từ đó mà hình thành
lịng u nước chân chính, u q hương dân tộc mình.
Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ làm tăng vẻ đẹp tự nhiên của con
người. TDTT sẽ làm cho cơ thể phát triển cân đối, tư thế di động chính xác,
tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, tinh thần sảng khoái, lạc quan. Nhìn vào con
người như vậy ta cảm nhận được sự trẻ trung, tràn đầy sức sống, yêu đời. Rất
may mắn cái đẹp trong đa số trường hợp không phản lại khái niệm sức khỏe
và ngược lại sự yêu thương đi ngược với các chuẩn mực, khêu gợi lên ở
chúng ta cảm giác khái niệm về cái đẹp.
Ngoài ra, bản thân TDTT cũng chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật,
chẳng hạn, các động tác vận động viên trên sân cỏ và trên dụng cụ. Khi đã đạt
tới trình độ điêu luyện thì rất đẹp. Các mơn thể dục tự do, thể dục nghệ thuật,
thể dục nhịp điệu, thể dục đồng diễn là những mơn thi đấu vừa khỏe, vừa
mang tính nghệ thuật cao. Đặc biệt thể dục đồng diễn được coi là một nghệ
thuật tổng hợp như những bông hoa đua nở muôn sắc, muôn màu trên sân
khấu của nhà hát, thao trường.
15
1.2.4 Ý nghĩa của TDTT đối với lao động
Vấn đề này đã được đề cập đến ở các phần trên tuy nhiên cũng cần
nhấn mạnh thêm một số ý chính sau:
Khi nói đến lao động sản xuất thì người ta nghĩ đến vấn đề khoa học kĩ
thuật và thể lực. C Mác chỉ rằng, sức khỏe lao động hoặc năng lực lao động là
tổng hợp của những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể một cá
thể đang sống.
TDTT còn ảnh hưởng đến lao động sản xuất được thể hiện trong
khuynh hướng cơ bản của nó là chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực
nghề nghiệp. Các bài tập thể chất có tác dụng nâng cao thể chất tồn diện,
hình thành các kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ bản hoặc động tác có liên quan
đến các thao tác lao động nghề nghiệp nhằm giúp con người thích ứng nhanh
chóng với các điều kiện lao động phức tạp, nặng nhọc. Ví dụ: rèn luyện sức
khỏe để làm việc được lâu, rèn sức nhanh để sản xuất được nhiều và nhanh,
luyện sức mạnh để đảm bảo được các công việc nặng. Rèn đôi tay khéo léo để
thao tác được chính xác. Luyện tinh thần vững chắc để chịu đựng đối với nền
sản xuất hiện đại, tự động hóa và cơng nghiệp hóa. Nhiệm vụ chủ yếu của
TDTT là mang lại sức khỏe cho con người, là hình thức nghỉ ngơi tích cực, do
đó nâng cao được năng suất lao động mà còn kéo dài được tuổi thọ sáng tạo
của người lao động.
Tóm lại theo C Mác “việc kết hợp lao động sản xuất với đức dục và thể
dục không những là biện pháp để tăng cường thêm sức sản xuất của xã hội mà
còn là biện pháp duy nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện”
Phát biểu tại đại hội TDTT toàn miền Bắc năm 1960 thủ tướng Phạm
Văn Đồng chỉ rõ: “Cơ sở để tiếp thu tốt đức dục, trí dục và mĩ dục”. Mà đúng
vậy đạo đức, trí dục và mĩ dục là rất đáng quý. Nhưng các mặt đó phải tồn tại
trong một cơ thể nhất định.
16
1.2.5 Ý nghĩa của động cơ và hứng thú tập luyện TDTT
Tiền đề cần thiết của động cơ và hứng thú tập luyện TDTT là việc tham
gia hoạt động đó và nó dựa chủ yếu trên nguyên tắc tự giác tích cực. Các
động cơ kích thích tập luyện rất đa dạng. Thông thường đặc biệt là ở trẻ em
những động cơ đó là ngẫu nhiên, khơng quan trọng và sâu sắc (ví dụ: sự hấp
dẫn bởi các hình thức bên ngồi của các động tác, ham muốn có thể hình đẹp,
thích thú thể thao theo ý nghĩ nơng cạn). Nhà giáo dục thể chất phải biết khêu
gợi cho người tập hiểu được ý nghĩa chân chính của hoạt động TDTT và dựa
trên những động cơ ban đầu đó mà khéo léo dẫn dắt người tập hiểu được bản
chất của xã hội sâu sắc của TDTT – một phương tiện quan trọng để phát triển
cân đối, củng cố sức khỏe, chuẩn bị cho lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Sự lí thú vững chắc đối với hoạt động TDTT cũng được phát triển cùng
với nhận thức về bản chất hoạt động sau này. Nếu tính hấp dẫn của buổi tập
và các yếu tố khác mà không xuất phát từ bản chất của giáo dục thể chất thì
khơng thể là nguồn kích thích bền vững, có hiệu lực để động viên người ta tập
luyện có hệ thống. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc tự giác và tích cực, trước hết
phải đảm bảo tính nhận thức sâu xa về mục đích của các buổi tập, từ đó mở ra
con đường triển vọng hồn thiện sau này.
Ngun tắc tự giác tích cực còn đòi hỏi xa hơn và cụ thể hơn. Cần làm
cho người tập nhận thức được ý nghĩa cụ thể các nhiệm vụ cần được thực
hiện. Tức là chứng minh được sự cần thiết của các nhiệm vụ đó như một trong
những khâu tất yếu, những bước tuần tự trên con đường đạt tới mục đích đã
định. Đồng thời xây dựng được nhận thức các quy luật và các điều kiện quyết
định để thực hiện các nhiệm vụ đó. Các nhiệm vụ trong quá trình giáo dục
nhất định. Người giáo viên cần làm cho người tập không những hiểu được cần
phải tập gì và tập như thế nào, mà phải hiểu tập chính bài tập này mà khơng
phải là bài tập khác. Vì sao phải tuân theo quy tắc thực hiện động tác như thế
này mà không phải như thế khác.
17
Mức độ nhận thức về mục đích và nhiệm vụ phụ thuộc vào khả năng
theo lứa tuổi và vào mức độ chuẩn bị của người tập. Ở giai đoạn ban đầu của
giáo dục thể chất mới chỉ hình thành được khái niệm sơ đẳng. Tiếp theo người
tập nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất cơng việc của mình và trở thành
những người giúp sức cho thầy giáo (huấn luyện viên) trong xác định các
nhiệm vụ sắp tới và cách hoàn thiện thể chất cho họ. Song cho dù bất kì ai thì
người thầy giáo cũng phải quan tâm trước hết đến ý thức của người tập và
không nên coi họ chỉ như những người thực hiện máy móc những mệnh lệnh
của mình.
Như vậy, cần phát huy hứng thú thường xuyên tập luyện TDTT của học
sinh và phối hợp chặt chẽ với việc nâng cao nhận thức đúng đắn về ý nghĩa
của hoạt động TDTT. Nếu tính hấp dẫn và các yếu tố khác của bài học không
xuất phát từ u cầu giáo dục, khơng có tác dụng trực tiếp đến sức khỏe của
học sinh thì khơng trở thành nguồn kích thích, có hiệu lực động viên các em
tập luyện say sưa thường xuyên và hệ thống. Vì vậy, muốn thực hiện được
động cơ và hứng thú tập luyện TDTT của học sinh trước hết giáo viên cần
phải giáo dục cho học sinh hiểu biết sâu sắc về mục đích của bài học. Đặc biệt
giáo viên cần nêu những kết quả thực tế dễ hiểu, dễ thấy qua các tấm gương
tốt trong TDTT để khơi dậy tinh thần say sưa tập luyện của TDTT của học
sinh.
1.2.6 Ý nghĩa vai trị của cơng tác GDTC trong giáo dục phát triển
con người toàn diện .
GDTC trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu được của nền
giáo dục XHCN. Dưới chế độ XHCN con người là vốn quý nhất bảo vệ và
tăng cường sức khỏe cho nhân dân lao động mà trước hết là đối tượng học
sinh trong các trường học là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách. Bởi vì thế hệ
trẻ là tương lai của đất nước quyết định sự phát triển của một quốc gia.
Công tác GDTC trong trường học các cấp là một bộ phận không thể
tách rời của quá trình giáo dục trong nhà trường, góp phần tích cực hình thành
18
nhân cách và phát triển thể chất cho học sinh. GDTC có tác dụng tích cực tới
sự hồn thiện và tính cách những phẩm chất cần thiết và phẩm chất hoàn thiện
đối với học sinh nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước giữ vững an
ninh quốc phịng
Trong Nghị quyết TW 2 khóa VIII về GDĐT và khoa học công nghệ
Đảng ta đã xác định “Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người và thế hệ trẻ
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH có đạo đức trong sáng,
có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có trình độ làm chủ tri thức
khoa học và cơng nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và có sức khỏe”, trong đó
nói rõ rằng: “đối với giáo dục điều đáng quan tâm nhất là chất lượng hiệu quả
giáo dục và yêu cầu giáo dục phải nhằm vào mục tiêu thực hiện giáo dục tồn
diện: đạo đức, trí dục, thể dục, mĩ dục, trong tất cả các cấp”.
Vấn đề này được đề cập cụ thể trong chỉ thị 36/CT-TW ngày
24/3/1994 của Ban Bí thư TW Đảng về cơng tác TDTT trong giai đoạn mới
đã nêu lên vai trò của TDTT đối với việc nâng cao sức khỏe cho mọi người,
cải tiến chương trình giảng dạy và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đào tạo giáo
viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện về cơ sở vật chất để
thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học. GDTC kết hợp với
các mặt giáo dục khác trở thành phương tiện gián tiếp nâng cao hiệu quả của
sản xuất xã hội. Còn là phương thức cơ bản để tạo ra những con người phát
triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu GDĐT nhằm giúp
con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thân và trong sáng về đạo đức. GDTC trong nhà trường các cấp từng bước
nâng cao trình độ văn hóa thể chất và thể thao cho học sinh sinh viên hiện nay
GDTC là một môn học bắt buộc được dạy chính thức trong kế hoạch giảng
dạy của các trường từ Mầm non đến Đại học.
GDTC chịu ảnh hưởng khác nhau từ các mặt của q trình giáo dục
tồn diện. Song dưới một góc độ nào đó giáo dục thể thao lại có vai trị hỗ trợ
19
và thúc đẩy các mặt giáo dục đó. Sự tác động qua lại, sự kết hợp hài hòa khoa
học các mặt khác nhau của quá trình giáo dục con người tồn diện. Cá nhân
và xã hội khơng thể thừa nhận những tác động tích cực quan trọng của cơng
tác GDTC trong nhà trường.
1.3 Giáo dục thể chất.
Giáo dục thể chất (GDTC) là một mặt của giáo dục toàn diện trong
trường phổ thơng, trong đó mơn thể dục có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ
và nâng cao sức khỏe, thể lực của học sinh, chuẩn bị cho người lao động
tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Việc dạy và học mơn thể dục trong trường phổ thơng có nhiệm vụ
trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng vận động cơ bản để rèn
luyện nâng cao sức khỏe, thể lực, góp phần giáo dục đạo đức, ý chí và xây
dựng lối sống lành mạnh, đồng thời giúp học sinh giải tỏa những căng thẳng
do thiếu vận động tạo nên.
1.3.1 Phát triển thể chất
Thể chất bao gồm các đặc điểm và hình thái chức năng cơ thể, vì vậy
phát triển thể chất là sự thay đổi về kích thước, chức năng cơ thể diễn ra trong
suốt cuộc đời của mỗi cá nhân. Sự phát triển thể chất vùa là quá trình tự nhiên
nó tn thủ những quy luật tự nhiên, quy luật sinh học vừa là quá trình xã hội
vì nó phụ thuộc hai yếu tố tong đó mơi trường giáo dục có tác đơng một cách
tích cực chủ động.
1.3.2 Đặc điểm của hoạt động giáo dục thể chất
Đặc điểm của hoạt động TDTT với quan điểm tâm lí thì q trình tiếp
thu những kiến thức chun mơn, hình thành kĩ năng kĩ xảo vận động và
những phẩm chất tâm lí cá nhân tốt ở người tập. Dưới góc độ hoạt động giáo
dục thể chất bao gồm hai mặt, thống nhất hữu cơ với nhau: giảng dạy và học
tập. Tức là thống nhất giữa biện chứng và truyền đạt (nhà sư phạm) và phía
tiếp thu (người tập).
20
Nhà sư phạm: bao gồm những thủ thuật thúc đẩy sự phát triển hoạt tính
trí tuệ và thể chất, động viên sự nỗ lực ý chí của người tập trong những điều
kiện phải khắc phục những khó khăn mới nảy sinh, thử huy động nguồn dự
trữ cảm xúc trong những điều kiện bất lợi. người dạy giữ vai trò lãnh đạo tổ
chức, điều khiển quá trình giáo dục. Sự khác biệt của giáo dục thể chất được
xác định ở chỗ, nó là một q trình truyền thụ và lĩnh hội các tri thức thuộc
lĩnh vực TDTT, rèn luyện các kĩ năng, hình thành các kĩ xảo vận động và phát
triển các phẩm chất thể lực của con người. Tổng hợp các nét đặc trưng ấy sẽ
quyết định năng lực chủ yếu về mặt thể lực chủ yếu của con người tạo nên sự
phát triển hài hòa về thể chất và tư tưởng. Xuất phát từ quan điểm thống nhất
biện chứng giữa giảng dạy và học tập giáo dục thể chất của nhà tâm lí học
TDTT đề xuất một loạt các u cầu tâm lí sau:
Cần thiết phải thơng báo cho người tập các phương pháp nâng cao trình
độ ổn định chú ý: Tập trung phân phối, luôn chuyển chú ý, chỉ trong điều kiện
như vậy thì các kiến thức trong thể thao mới trở thành kiến thức của người
tập.
Quá trình giảng dạy phải nâng cao được hoạt tính của tất cả các q
trình tâm lí nhận thức nhờ sử dụng rộng rãi các phương tiện tâm lý chung, sự
tinh tế của cảm giác và tri giác, tính linh hoạt của các biểu tượng tưởng tượng
tốc độ và các thao tác của tư duy sẽ đảm bảo tốt cho công việc tiếp thu kiến
thức.
Sử dụng các rộng rãi các phương pháp kích thích sự nỗ lực chú ý cho
người tập biểu hiện các khả năng dự trữ của mình, biến các khả năng đó thành
hiện thực một cách có hiệu quả.
Cần thiết phải hình thành ở người tập hứng thú thể thao bền vững và
sâu sắc. Trên cơ sở đó người tập dễ dàng chuyển hóa được lượng vận động
cao.
Giáo dục đạo đức luôn gắn liền trong một hệ thống hữu cơ với nhau. Sự
thống nhất giữa giảng dạy và giáo dục được thể hiện ở mọi nơi bắt đầu từ
21
những giờ học TDTT trong các trường phổ thông đến các buổi tập của vận
động viên cấp cao. Sự thống nhất đó được thể hiện ngay trong q trình thi
đấu.
Mục đích của hoạt động giáo dục thể chất là hồn thiện thể chất , một
bộ phận không thể tách rời của sự hài hịa về nhân cách. Tính hiệu quả và tính
hệ thống của các buổi tập được thể hiện mức độ phát triển nhất định các tố
chất thể lực kĩ năng vận động.
Tóm lại, giáo dục thể chất là một q trình giáo dục mà đặc trưng của
nó thể hiện ở việc giảng dạy các động tác và giáo dục các tố chất thể lực của
con người.
1.4 Khái quát mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình GDTC trong hệ
thống các trường Phổ thông.
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới theo hướng CNH – HĐH vì
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, thì
giáo duc và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu trong việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục thể chất phải là
một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước, và nằm
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được hiểu là: “ Quá trình
sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân
cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người”. Vì vậy,
trong những năm qua Bộ giáo dục và đào tạo đã rất quan tâm đến công tác
GDTC trong hệ thống các trường học, đột phá vào lĩnh vực GDTC cho lứa
tuổi học sinh để nâng cao tầm vóc và thể trạng của người Việt - đó là một
trong những nội dung của chương trình quốc gia do Viện Khoa học thể dục
thể thao (Ủy ban TDTT) xây dựng. Dự kiến, phần lớn kinh phí của chương
trình sẽ được đầu tư cho Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) để cải thiện tình
hình thể dục thể thao học đường. Chương trình GDTC cho học sinh thường
xuyên được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển thể
chất trong nhiệm vụ giáo dục phát triển tồn diện cho HS. Điều đó cũng thể
22
hiện tính khoa học và thực tiễn phong phú, nhằm nâng cao mục tiêu của
GDTC, đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng, bồi dưỡng đội ngũ lao động có
phẩm chất: “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Bộ giáo dục và đào tạo luôn nhất quán mục tiêu của công tác GDTC và
thể thao trong nhà trường là góp phần đào tạo đội ngũ giáo dục, cán bộ khoa
học kĩ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài hịa, có thể chất
cường tráng đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với lao
động sản xuất của thời đại. GDTC và thể thao trong trường học bao gồm 3
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Góp phần giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, rèn luyện tinh thần tập
thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống lành mạnh sẵn sàng
phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về nội dug phương
pháp tập luyện TDTT, kĩ năng vận động và kĩ thuật một số mơn thể thao cơ
bản. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện để rèn luyện
thân thể, tăng cường sức khỏe, đồng thời tham gia tích cực các hoạt động
TDTT của nhà trường và xã hội.
- Góp phần củng cố và tăng cường sức khỏe cho học sinh, nâng cao trình
độ thể lực chung, phát triển toàn diện cân đối, đáp ứng các tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể.
Mơn thể dục đã được đưa vào giờ chính khóa, tuy nhiên thời lượng cịn
rất hạn chế, từ bậc tiểu học đến trung học phổ thơng chỉ có 2 tiết/tuần. Trên cơ
sở mục tiêu của công tác GDTC và hoạt động thể thao nói trên, Bộ GD – ĐT
đã qui định nội dung chương trình GDTC trong các trường phổ thơng.
Chương trình được tiến hành trong cả q trình học tập của học trong nhà
trường bằng các hình thức:
- Giờ học TDTT chính khóa: Là hình thức cơ bản nhất của GDTC được
tiến hành trong kế hoạch học tập của nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về
23
thể chất, thể thao cho học sinh là nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội
dung thích hợp để phát triển các tố chất thể lực và phối hợp vận động cho học
sinh. Đồng thời, giúp các em có trình độ nhất định để tiếp thu được các kỷ
thuật động tác TDTT. Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất
và thể thao trong trường học là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt
thành tích trong thể chất và thể thao của học sinh, phát triển các tố chất thể
lực, phát triển năng lực tâm lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xun, giáo
dục được đức tính cơ bản và lịng nhân đạo cho học sinh”. Bởi vậy, giờ học
TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc quản lý và giáo dục con
người trong xã hội.
- Giờ học TDTT ngoại khóa: Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi
của một số bộ phận học sinh với mục đích và nhiệm vụ góp phần phát triển
năng lực thể chất tồn diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao.
Chương trình bao gồm 2 phần: Phần lý thuyết và thực hành. Cuối năm
học, học sinh phải kiểm tra lý thuyết và thực hành các kĩ năng mơn học trong
chương trình. Đồng thời, học sinh phải kiểm tra trình độ phát triển các tố chất
thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.
Tuy nhiên, hệ thống rèn luyện thể lực khó áp dụng cho các trường khơng
có hoặc thiếu cơ sở dạy và học môn GDTC, hệ thống rèn luyện thể lực phức
tạp, nhiều nội dung do vậy thường bị coi nhẹ vì vậy làm cho học sinh cũng
xem nhẹ mơn học khơng cịn thấy hứng thú. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu để
xây dựng và cải tiến phương pháp học tập mang lại sự hứng thú và co thái độ
tự giác tích cực trong học tập môn học giáo dục thể chất cho học sinh trường
Phổ thông vẫn chưa được quan tâm đầy đủ, việc xây dựng và cải tiến phương
pháp học tập để tạo ra tính hứng thú cho học sinh vẫn áp dụng theo chương
trình đào tạo rộng rãi và chung, chưa sát thực với thực tế như đối tượng của
trường THPT Nguyễn Duy Hiệu tỉnh Quảng Nam.
Chương trình mơn GDTC học kỳ II năm học 2011 – 2012 của khối 10
và khối 11 trường THPT Nguyễn Duy Hiệu bao gồm:
24
- Khối 10: Bóng đá,chạy bền, cầu lơng, đẩy tạ, nhảy cao
- Khối 11: Cầu lơng, bóng đá, chạy bền, đá cầu, đẩy tạ
Trên cơ sở phân phối chưng trình học của nhà trường tôi đã tiến hành
thực tập và thực nghiệm được mức độ thể hiện tính tự giác tích cực trong học
mơn giáo dục thể chất của học sinh trường THPT Nguyễn Duy Hiệu tỉnh
Quảng Nam.
1.5 Đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh THPT
Sự phát triển về tâm lý lứa tuổi của con người được chia thành nhiều
giai đoạn trong đó giai đoạn 14,15 đến 17, 18 tuổi đây là giai đoạn đầu tuổi
thanh niên ( còn gọi là thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh ). Lứa tuổi này
là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên các chức năng tâm sinh lý đã phát triển
mạnh mẽ. Sự phát triển cơ thể của nam và nữ học sinh THPT đã có sự khác
nhau đáng kể do sự khác nhau về giới tính. Sự khác nhau ấy càng rõ rệt về
tầm vóc, khả năng hoạt động thể lực và tâm lý. Do đó q trình GDTC, các
giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và giới tính để có sự
phân biệt về tính chất, cường độ, khối lượng tập luyện sao cho đảm bảo tính
hợp lý, tạo sự phát triển một cách tồn diện.
1.5.1 Đặc điểm tâm lí của lứa tuổi THPT
Tuổi đầu thành niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực
nhưng sự phát triển cơ thể thì cịn kém so với sự phát triển cơ thể của người
lớn. Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển cơ thể tương đối êm ái về mặt
sinh lý. Lứa tuổi này có sự xuất hiện nhiều yếu tố mới của dấu hiệu trưởng
thành là kết quả biến đổi về mặt cơ thể, tỏ ra mình là người lớn, khơng cịn là
trẻ con nữa địi hỏi mọi người xunh quanh phải tơn trọng mình, tỏ ra là người
hiểu biết, các em đã hiểu nhiều, quan hệ và biết rộng hơn, ưa hoạt động, vận
động, có nhiều ước mơ hồi bão. Do q trình hưng phấn chiếm ưa thế cao
hơn quá trình ức chế nên các em tiếp thu nhận thức cái mới nhanh hơn nhưng
lại không chán mà chóng qn và các em dễ bị mơi trường bên ngoài tác động
vào. Sự phối hợp động tác ở lứa tuổi này vẫn còn kém, thực hiện động tác
25
cứng, phong cách cử chỉ nói năng vụng về, nhưng khi hồn thành được thì trở
nên tự kiêu, hãnh diện. Trái lại, dù chỉ thất bại tạm thời cũng trở nên mất tự
tin, bi quan, rụt rè, bất mãn. Chính điều đó sẽ gây tác động khơng tốt cho hoạt
động TDTT.
Vì vậy, khi tiến hành cơng tác GDTC cho lứa tuổi này cần uốn nắn, nhắc
nhở, chỉ bảo, động viên các em hồn tất nhiệm vụ. Trong q trình giảng dạy
cần chú ý quan tâm đến những em có thể lực yếu, từ đó sẽ giúp các em khơng
chán nản, có định hướng đúng và hiệu phát triển thể chất được nâng cao.
1.5.2 Đặc điểm sinh lí, giải phẩu của lứa tuổi học sinh THPT
Nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Các em gái
đạt được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng tuổi 16,17. Các em
trai khoảng 17,18 tuổi. Trọng lượng của các em trai đã đuổi kịp các em gái và
tiếp tục vươn lên. Sức mạnh cơ bắp tăng rất nhanh. Lực cơ của em trai 16 tuổi
tăng lên gần gấp hai lần so với lực cơ của em lúc 12 tuổi…
Sự phát triển của hệ thân kinh có nhiều thay đổi quan trọng do cấu trúc
bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của
tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc của tế bào não
của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên liên kết các phần
khác nhau của võ não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa
hoạt động phân tích, tổng hợp …của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học
tập.
* Hệ thần kinh
Trong giai đoạn này hệ thần kinh của lứa tuổi THPT tiếp tục phát triển
mạnh và dẫn đến khả năng hoàn thiện tư duy, nhất là khả năng phân tích tổng
hợp trừu tượng hóa, sự phát triển thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có điều
kiện.
Ngồi ra do hoạt động mạnh của các tuyến giáp, tuyến yên, tuyến sinh
dục… làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế. Do đó, các em
thường xuyên tập luyện quá sức gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, với