Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bien gioi viet nam trung quoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.92 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Mở đầu</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

những nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở một số khu
vực làm cho tình hình càng trở nên phức tạp và thường xuyên xảy ra tranh
chấp trên toàn tuyến biên giới giữa hai bên.


Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như
hình với bóng, do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa
nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Việc
phân định biên giới giữa các quốc gia bao giờ cũng là một vấn đề vô cùng tế
nhị. Việc giải quyết vấn đề này phải được tiến hành trên cơ sở thực sự bình
đẳng, hữu nghị, tơn trọng lẫn nhau và có tinh thần xây dựng. Sau hơn 100
năm kể từ những thỏa thuận đầu tiên, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức,
tháng 12 năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất được cùng nhau
việc phân định toàn bộ đường biên giới trên bộ. Đây là một bước tiến dài trên
con đường xây dựng một đường biên giới ổn định, hịa bình và hữu nghị giữa
hai nước.


Việc phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề nhạy
cảm và đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm đề cập
tới: “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc”, NXB Sự thật Hà Nội,
1979; Lê Minh Nghĩa,“ Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam
<i>và các nước láng giềng”; Trương Nhân Tuấn, “ Biên giới Việt- Trung, lịch sử</i>
<i>thành hình và những tranh chấp”, NXB Dũng Châu, Paris, 2005; Pao-Min</i>
Chang, “Sino-Vietnamese Territorial Dispute”, Praeger Pub Text, 1985;
Brantly Womack, “China and Vietnam: the Politics of Asymmetry”,
Cambridge University Press, 2006...Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đề cập cụ thể đến việc phân định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong giai đoạn từ 1950 tới nay.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>1. Sơ lược lịch sử quan hệ Việt Nam- Trung Quốc từ năm 1950 đến</b></i>
<i><b>nay.</b></i>


Việt Nam và Trung Quốc vốn có quan hệ truyền thống lâu đời. Từ thế kỷ
XIX, Việt Nam và Trung Quốc lại đều là nạn nhân chịu họa xâm lược áp
bức của chủ nghĩa thực dân đế quốc, nhân dân hai nước đã sát cánh bên
nhau trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng, giành độc lập dân tộc.
Sau khi hồn thành cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ, ngày 2-9-1945, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ( nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) và ngày 1-10-1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
được thành lập. Sau ngày thành lập nước, Việt Nam và Trung Quốc đều
tiến sang giai đoạn cách mạng mới – giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 18-1-1950, Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao, bắt đầu thời kỳ lịch sử hiện đại trong quan hệ hai nước. Kể từ
đó đến nay, quan hệ Việt Nam- Trung Quốc đã trả qua một chặng đường
dài 60 năm. Trên chặng đường đó, quan hệ Việt- Trung có những lúc bằng
phẳng nhưng có những khi lại quanh co, khúc khuỷu. Trong cuộc đấu
tranh cách mạng lâu dài của nhân dân Việt Nam, Trung Quốc đã ủng hộ
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam, viện trợ nhiều
mặt cho Việt Nam (thời kỳ 1950-1975). Lại có giai đoạn do bất đồng quan
điểm, xung đột lợi ích quốc gia dân tộc đã dẫn đến quan hệ hai nước xấu đi
nghiêm trọng, đi ngược lại lợi ích và mong muốn của nhân dân hai nước
(thời kỳ 1975-1990).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, vấn đề hàng đầu của quan hệ quốc tế là
vấn đề chiến tranh và hịa bình. Chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề hịa bình
và phát triển trở thành dịng chính của thời đại. Các nước tìm cách tăng
cường sự hợp tác trên hai vấn đề lớn: duy trì mơi trường an ninh ổn định
và thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế. Quan hệ giữa các nước, đặc biệt là


các nước lớn đã xuất hiện sự điều chỉnh và thay đổi, đó là: trong đấu tranh
tìm cách thỏa hiệp, trong cạnh tranh tìm cách hợp tác, tránh đối kháng tồn
diện, tìm kiếm điểm chung về lợi ích.


Năm 1978, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa, có những
chuyển biến lớn về chiến lược. Đầu những năm 1990, Việt Nam cũng bắt
đầu đổi mới mạnh mẽ, dốc sức phát triển kinh tế, tích cực hội nhập khu
vực và quốc tế. Trong giai đoạn cách mạng mới này, Việt Nam và Trung
Quốc đều mong muốn có một mơi trường xung quanh và mơi trường quốc
tế hịa bình, ổn định để mở rộng hợp tác và phát triển kinh tế. Chính trong
bối cảnh đó đã khiến quan hệ Việt Nam- Trung Quốc sau hơn 10 năm bị
gián đoạn đã xích lại gần nhau và tiến tới bình thường hóa trên cơ sở mới.
Từ ngày 05 đến ngày 10-11-1991, nhận lời mời của Tổng bí thư Đảng
cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ viện nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Bằng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt
Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam Võ Văn Kiệt đã sang thăm chính thức nước Cộng hịa
nhân dân Trung Hoa. Tại cuộc gặp gỡ cấp cao này, hai bên đã ký “Thông
<i>cáo chung Việt Nam- Trung Quốc”, tuyên bố quan hệ hai nước chính thức</i>
bình thường hóa, từ đây mở đầu cho giai đoạn phát triển mới trong quan
hệ Việt- Trung trên nguyên tắc: độc lập tự chủ, hồn tồn bình đẳng, tơn
tọng lẫn nhau, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nhập khẩu của Việt Nam- Trung Quốc đã đạt 3,264 tỷ USD, tăng 15,95%
so với năm 2001. Hai nước đã đưa kim ngạch buôn bán hai chiều lên 19,46
tỷ USD, tăng lũy kế là 28,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong các công
việc quốc tế, hai bên giữ được sự hợp tác chặt chẽ. Quan hệ Việt- Trung
bước vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh mẽ. Tình hữu nghị có bước
phát triển mới: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.



Bước vào thế kỷ XXI, hai nước Việt- Trung với tinh thần láng giềng hữu
nghị đang cùng nhau vun đắp cho sự phát triển quan hệ tốt đẹp lâu dài và
bền vững, hướng tới tương lai, có nghĩa là nhằm đảm bảo tinh thần bền
vững của sự phát triển, khơng ngừng tiến về phía trước, đạt được sự thống
nhất và hài hịa lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia và lợi ích tồn nhân loại
trong hiện tại và tương lai; là sự hợp tác lâu dài và không bị gián đoạn, sự
hợp tác hài hịa và tồn diện.


<i><b>2. Q trình phân định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung</b></i>
<i><b>Quốc từ năm 1950 đến nay.</b></i>


2.1. Giai đoạn từ năm1950 đến năm 1979.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trả lời đồng ý với ý
kiến của Trung ương Đảng Việt Nam về công tác biên giớl Việt – Trung.
Ngày 15-8-1974, vòng đàm phán Việt- Trung về biên giới lần thứ nhất đã
được tiến hành tại Bắc Kinh. Vòng đàm phán lần thứ hai bắt đầu từ ngày
7-10-1977 đến tháng 6-1978 được tiến hành ở cấp Thứ trưởng Bộ ngoại giao
song do bối cảnh lịch sử lúc đó, cuộc đàm phán bị gián đoạn.Trong khoảng
thời gian từ tháng 4 cho tới tháng 8 năm 1978, quan hệ giữa hai nước trở nên
đặc biệt xấu. Cùng với cuộc khủng hoảng Hoa kiều, vấn đề Campuchia, quan
hệ Việt Nam-Liên Xô và các vụ tranh chấp biên giới, Trung Quốc khơng cịn
giữ thái độ kiềm chế mà bắt đầu lớn tiếng đe dọa, buộc Hà Nội phải chấp
thuận các yêu sách từ Trung Quốc. Trung Quốc bắt đầu tính đến khả năng
dùng vũ lực để đối phó với Việt Nam. Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Việt Nam
ký kết Hiệp ước Hợp tác và Hữu nghị với Liên Xô, ngay sau đó, Nhân dân
Nhật báo của Trung Quốc bắt đầu đăng các bài tố cáo Việt Nam tiến hành
xâm phạm và khiêu khích trên biên giới với Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Từ tháng 2 năm 1979 đến 1986 diễn ra chiến tranh và xung đột quân sự


trên vùng biên giới đặc biệt là trên biên giới các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn,
ác liệt và kéo dài nhất là ở biên giới tỉnh Hà Giang.


Ngày 18-04-1979, cuộc đàm phán về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và
Trung Quốc được nối lại tại Hà Nội. Tại cuộc đàm phán này, phía Việt
Nam đã đưa ra đề nghị việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa
hai nước tuân theo nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng đường biên giới do
lịch sử để lại và đã được hoạch định bởi các Cơng ước năm 1887 và năm
1895 do Chính phủ Pháp và nhà Thanh ký, đã được phía Việt Nam và phía
Trung Quốc đồng ý chấp nhận.


Theo đúng thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản, mỗi bên tự căn cứ vào
các văn bản pháp lý nêu trên để vẽ đường biên giới theo sự đánh giá của
mình lên cùng một loại bản đồ gọi là “bản đồ đường biên giới chủ trương”.
Sau đó trao cho nhau để đối chiếu, xác định những đoạn biên giới hai bên
vẽ trùng nhau và khác nhau.


Qua đối chiếu, hai bên vẽ trùng khớp nhau khoảng 900km, chiếm 67%
trong tổng số khoảng 1400km tồn tuyến biên giới. Trong 450km cịn lại,
có 289 khu vực hai bên có nhận thức khác nhau, trong đó 74 khu vực khác
nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lẫn lên nhau (khu vực A), 51 khu vực vì lý
do kỹ thuật hai bên cùng chưa vẽ tới (khu vực B). Cả hai khu vực A và B
có diện tích khơng lớn, chỉ khoảng 5 km2 đã được hai bên giải quyết
nhanh chóng và cơng bằng. Cịn lại 164 khu vực có nhận thức khác nhau
và có tranh chấp (khu vực C) với tổng diện tích khoảng 227 km2.


<i>2.2. Giai đoạn từ năm1979 đến nay.</i>


Sau chiến tranh biên giới 1979, mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng
quân Trung Quốc vẫn chiếm đóng khoảng 60km2<sub> lãnh thổ biên giới</sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

giới Việt Nam, nhằm làm bàn đạp cho các cuộc tấn công quân sự sau
này.


Kể từ nửa sau năm 1988, tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước lắng
xuống, rồi tới cuối năm các hoạt động buôn bán qua lại biên giới bắt đầu
trở lại. Hai phía bắt đầu nối lại các hoạt động đàm phán về bình thường
hóa quan hệ và giải quyết vấn đề biên giới. Quan hệ giữa hai nước đặc
trưng bởi hình ảnh hữu hảo của các chuyến viếng thăm cao cấp qua lại
giữa hai nước, diễn ra đồng thời với sự căng thẳng liên quan đến chủ
quyền lãnh thổ, đặc biệt là trên biển Đông, cả hai bên tiếp tục tuyên bố
khẳng định chủ quyền trên các vùng có tranh chấp.


Sau khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, cuộc đàm phán lần thứ ba
được tiến hành bắt đầu từ tháng 10-1992. Đây là cuộc đàm phán dài nhất,
kéo dài tới 7 năm trên nhiều diễn đàn nhất: ở cấp chính phủ 6 vòng, cấp
chuyên viên 16 vòng và các cấp kỹ thuật. Đến cuối năm 1999, hai đoàn
đàm phán đã giải quyết xong toàn bộ và ký Hiệp ước năm 1999 về biên
giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc. Theo hiệp ước này thì khoảng
114,9km2 được xác định là thuộc Việt Nam và khoảng 117,2 km2 được
xác định là thuộc Trung Quốc. Như vậy, đất thuộc bên nào thì trả lại cho
bên đó dựa trên các nguyên tắc mà hai bên đã thống nhất nhằm đảm bảo
cơng bằng, thỏa đáng, đáp ứng các lợi ích cơ bản và lâu dài cho cả hai
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Quốc). Tại mốc giới này, nhóm phân giới đã phải đóng mốc ở cả hai đầu
cầu Bắc Luân, một trên lãnh thổ Việt Nam và một ở nước bạn vì theo
thơng lệ quốc tế, khi biên giới đi qua sơng thì phải cắm cột mốc kép đồng
thời tại hai nước. Hai bên đã nhất trí các quy tắc đối chiếu xác định biên
giới trên đất liền trên cơ sở lấy các công ước Pháp- Thanh năm 1887 và


năm 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới
kèm theo cũng như các mốc giới cắm theo quy định để xác định lại đường
biên giới trên đất liền. Đây là nguyên tắc cơ bản và quan trọng.


Trong quá trình đối chiếu xác định hướng đi của đường biên giới đối với
những khu vực sau khi đã đối chiếu nhiều lần mà vẫn khơng đi đến nhất
trí, hai bên sẽ cùng nhau khảo sát thực địa, suy tính đến tình hình tồn tại
khu vực với tinh thần thơng cảm và thương lượng trên cơ sở tình láng
giềng hữu nghị để tìm giải pháp cơng bằng, hợp lý.


Để xác định chính xác vị trí cột mốc, tổ kỹ thuật hai bên dùng phương
pháp đường cắt giao nhau và chỉ giới đỏ bản đồ, dùng máy đo được đặt
trên đỉnh một số ngọn núi để xác định đường biên giới sẽ đi qua đâu. Tổ
phân giới cắm mốc hai bên đã phối hợp với nhau rất tốt, tin tưởng lẫn nhau
đo đạc chính xác và xác định được cột mốc số 834-1. Việc cột mốc được
xác định là kết quả của sự phối hợp và tin tưởng lẫn nhau dựa trên cơ sở
pháp lý do lãnh đạo hai bên quy định.


Sau khi hai bên đã đối chiếu xác định lại đường biên giới, bất cứ khu vực
nào do một bên quản lý vượt quá đường biên giới về nguyên tắc phải được
trả lại cho bên kia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

với những đoạn tàu thuyền khơng đi lại được thì phân giới theo đúng luật
pháp và tập quán quốc tế, tức là theo trung tâm của dịng chảy hoặc dịng
chính. Khu vực thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân, hai bên đã đi đến
giải pháp tổng thể. Theo đó, tại khu vực thác Bản Giốc, đường biên giới đi
từ mốc 53 cũ qua cồn Pò Thoong đến điểm giữa mặt thác chớnh; phn thỏc
ph v ẵ thỏc chớnh, ẳ cn Pũ Thoong quy thuộc Việt Nam. Ta giữ lại
dấu tích trạm thủy văn xây dựng từ những năm 1960 trên cồn Pò Thoong.
Hai bên thỏa thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch


trên thác Bản Giốc.


Tại khu vực cửa sông Bắc Luân, đường biên giới đi qua bãi Tục Lãm và
bãi Dậu Gót: ¾ bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót thuộc Việt Nam, ¼ bãi
Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót thuộc Trung Quốc.


Hai bên thỏa thuận khơng xây dựng cơng trình nhân tạo tại khu vực thác
bản Giốc, bãi Tục Lãm, hòn Tài Xẹc và bãi Dậu Gót, đồng thời nhất trí
thiết lập khu giao thông thủy tự do cho dân địa phương hai bên hai bên sử
dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và bãi Dậu Gót.


Đối với khu vực Hữu Nghị Quan là khu vực có liên quan đến đoạn biên
giới đi qua đường bộ và đường sắt thì hai bên đã thống nhất là đường biên
giới đi qua km 0, mốc 19 cũ của Pháp và cách điểm nối 2 148m về phía
Bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đối với các khu vực có pháo đài lịch sử thì giải quyết trên cơ sở tôn trọng
quyền của bên hữu quan đối với các pháo đài đó. Đối với các điểm cao
nằm trên đường biên giới thì theo luật pháp quốc tế khơng bên nào được
phép đóng quân trên đường biên giới.


Việc phân giới cắm mốc là một việc làm hết sức khó khăn địi hỏi độ chính
xác cao bởi vì đường biên giới trên bản đồ địa hình tỷ lệ là 1/50000 thì chỉ
là một nét vẽ, nhưng khi chuyển ra thực địa có thể sai số hàng chục mét.
Các nhóm phân giới cắm mốc hai bên khi làm việc trên thực địa thường
gặp phải khó khăn khi thống nhất vị trí mốc, hướng đi của đường biên
giới.


Khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc có đặc điểm rất đặc biệt
ít thấy so với đường biên giới giữa các nước khác là người dân của hai


nước sinh sống, làm ăn xen lẫn nhau qua nhiều thế hệ. Vì thế khi phân giới
cắm mốc hai bên phải giải quyết trên tinh thần linh hoạt, tránh để việc
phân giới cắm mốc làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân vùng biên,
đặc biệt còn đảm bảo cho họ một cuộc sống ổn định.


Ngồi ra, cơng tác phân giới cắm mốc chủ yếu được thực hiện ở các khu
vực có địa hình hết sức phức tạp, có độ chia cắt lớn, có khí hậu khắc
nghiệt, xa các khu dân cư song bằng sự quyết tâm, đồng thuận của toàn thể
lực lượng phân giới cắm mốc, các bộ, ban ngành từ trung ương tới địa
phương, các cơ quan chức năng, bộ đội biên phòng, sự nhiệt tình giúp đỡ
của người dân vùng biên giới, cơng tác phân giới cắm mốc trên tồn tuyến
biên giới Việt Nam- Trung Quốc đã hoàn thành xuất sắc, đảm bảo ngun
tắc bình đẳng, cơng bằng và chủ quyền lãnh thổ quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu hợp tác, đặc
biệt trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại.


Ngày 31-12-2008, hai trưởng đồn đồn đại biểu chính phủ đàm phán về
biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã ra thơng báo chung
tun bố hồn thành việc phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất
liền giữa Việt Nam- Trung Quốc với chiều dài gần 1400km, trong đó có
344 km đường phân giới đi theo sơng suối chính đúng theo thời hạn mà
hai bên thống nhất. Tổng số mốc giới cắm được là 1971 cột mốc, trong đó
1549 cột mốc chính, 422 cột mốc phụ. Hệ thống mốc giới này đã được
đánh dấu ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một cách khách
quan, khoa học và chi tiết.


Ngày 18/11/2009, hai bên đã ký Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp
định về Quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế
quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Sự kiện


này đã chính thức kết thúc 35 năm đàm phán giải quyết vấn đề biên giới
trên đất liền giữa hai nước.


Việc hồn thành cơng tác phân giới cắm mốc là một thông điệp quan trọng
khẳng định với thế giới mối quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp
giữa hai nước, “tạo cơ sở vững chắc để xây dựng biên giới Việt - Trung
<i>hịa bình, hữu nghị và ổn định lâu dài” (Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng</i>
Ngoại giao Phạm Gia Khiêm).


<b>Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong thời gian tới, hai nước sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ để sớm ký kết
các văn kiện liên quan, nhằm đưa Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt
-Trung đi vào cuộc sống, đồng thời làm tốt công tác quản lý biên giới, thúc
đẩy giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa các địa phương biên
giới nói riêng và giữa hai nước nói chung.


Hiện giữa hai nước cịn có bất đồng và nhận thức khác nhau đối với vấn
Biển Đông. Đây là vấn đề do lịch sử để lại, có tính phức tạp nhất. Lãnh
đạo hai nước đã đạt được nhận thức chung quan trọng là kiên trì thơng qua
đàm phán, hiệp thương hữu nghị tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn
đề biển Đông trên cơ sở quan hệ láng giềng hữu nghị, bình đẳng, tơn trọng
lợi ích của nhau; trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Cơng ước Liên
Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, tuân thủ nghiêm chỉnh Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung
Quốc.


Việc xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác mới, phát triển bền vững, hướng
tới tương lai, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đã và đang đạt được những
thành tựu tốt đẹp. Nhưng vì giữa hai bên vẫn cịn tồn tại một số vấn đề do lịch


sử để lại và hiện tại có những vấn đề mới nảy sinh. Chúng ta xử lý những vấn
đề do lịch sử để lại không phải là lật lại những vấn đề cũ của lịch sử, xử lý
những vấn đề của hiện thực khơng phải là tranh luận gay gắt mà là xóa bỏ
những khó khăn và trở ngại. Chúng ta phải xuất phát từ tầm cao chiến lược,
nhìn vào đại cục, hướng tới tương lai để xử lý những vấn đề còn tồn tại. Xử lý
thỏa đáng những vấn đề này trở thành vấn đề then chốt để mối quan hệ mới
giữa hai nước được bền vững, tiến vào thế kỷ XXI.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×