Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG SÁNG TÁC TRUYỆN KIỀU XÉT TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT - TÁC GIẢ: NGUYỂN HỮU RẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN HỮU RẠNG - MSSV: 44.01.601.040

DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG SÁNG TÁC
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
XÉT TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TIỂU LUẬN NGÔN NGỮ HỌC CUỐI KỲ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2020


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN HỮU RẠNG - MSSV: 44.01.01.601.040

DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG SÁNG TÁC
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU XÉT TỪ GÓC ĐỘ
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

Học phần: Phong cách học tiếng Việt
Mã lớp học phần: LITR145504 - Lớp: Chiều thứ 2 (7 - 9)
TIỂU LUẬN NGÔN NGỮ HỌC CUỐI KỲ

Giảng viên hướng dẫn học phần:


TS. Tăng Thị Tuyết Mai

THÀNH PHỚ HỒ CHÍ MINH - 2020


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong tiểu luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả tiểu luận

Nguyễn Hữu Rạng


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập học phần cũng như tiến hành thực hiện đề
tài tiểu luận này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ quý thầy cô khoa
Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Nay đề tài của tôi được
hoàn thành, chúng tôi xin trân trọng gửi lời tri ân và cảm ơn sâu sắc đến:
- Tiến sĩ Tăng Thị Tuyết Mai, người đã giảng dạy tôi trong suốt hai học
phần: Ngữ pháp học tiếng Việt - Phong cách học tiếng Việt. Em xin chân thành
cảm ơn cô về những giờ học tập, thảo luận hào hứng, sôi nổi đầy tính khoa học
trên lớp. Em cũng cảm ơn cô về những lời nhận xét, góp ý cũng như sự chỉ dẫn
tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài tiểu luận cuối kỳ này.
- Các cán bộ chuyên trách thư viện trường, những người đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi tiếp cận được với nhiều nguồn tư liệu tham khảo đa dạng và

phong phú nhằm hoàn thiện tốt bài tiểu luận cuối kỳ này.
- Quý thầy cô khoa Ngữ văn cùng bạn bè và gia đình đã luôn bên cạnh,
kịp thời hỗ trợ, động viên và tạo động lực để tôi có thể hoàn thành tốt được bài
tiểu luận cuối kỳ của mình.
Sau cùng, chúng tôi xin được kính chúc cô Tăng Thị Tuyết Mai, các thầy
cô chuyên trách thư viện trường, quý thầy cô khoa Ngữ văn cùng bạn bè, gia
đình những lời chúc sức khỏe, bình an và hạnh phúc trong mọi điều.
Trân trọng tri ân tất cả.
Tiểu luận này của chúng tôi còn rất nhiều thiếu sót cũng như hạn chế về
mặt tiếp cận đề tài và tri thức khoa học, rất mong nhận được sự góp ý, chỉ giáo
thêm từ quý thầy cô, các bạn sinh viên và độc giả. Chân thành cảm ơn !
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 11 năm 2020
Tác giả tiểu luận

Nguyễn Hữu Rạng


4

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 2
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 3
MỤC LỤC ........................................................................................................ 4
DANH MỤC LIỆT KÊ CÁC SƠ ĐỒ ............................................................ 6
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 7
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 10
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 17

6. Đóng góp của tiểu luận .......................................................................... 19
7. Bố cục của tiểu luận ............................................................................... 20
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 22
1.1. Vấn đề về dấu ấn cá nhân của tác giả trong sáng tác văn chương. 22
1.1.1. Khái niệm “dấu ấn” và “dấu ấn cá nhân của tác giả” ..................... 22
1.1.2. Các yếu tố hình thành nên dấu ấn cá nhân của tác giả ................... 25
1.2. Vấn đề về các yếu tố tạo nên dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều ................................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. DẤU ẤN CÁ NHÂN CỦA NGUYỄN DU TRONG
TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC ĐỘ NGƠN NGỮ NHÂN VẬT .................. 40
2.1. Ngơn ngữ ước lệ, tượng trưng............................................................ 40
2.2. Ngôn ngữ giàu màu sắc tu từ, chuyển tiếp bất ngờ ......................... 49
2.3. Ngôn ngữ hô ứng, tăng cấp ................................................................ 56
2.4. Ngôn ngữ bình dân, thông tục ........................................................... 63
2.4.1. Ngôn ngữ dùng trong đời sống sinh hoạt hằng ngày ...................... 65
2.4.2. Ngôn ngữ dùng trong thơ ca dân gian ............................................ 68
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 72


5

CHƯƠNG 3. DẤU ẤN CÁ NHÂN CỦA NGUYỄN DU TRONG
TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ THIÊN NHIÊN ............ 74
3.1. Ngôn ngữ biểu đạt tâm trạng con người ........................................... 74
3.2. Ngôn ngữ biểu đạt sự dịch chuyển của thời gian ............................. 85
3.3. Ngôn ngữ có tính chất dự báo số phận nhân vật ............................. 91
3.4. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc hội họa (Tính họa trong ngôn ngữ) 99
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 109
KẾT LUẬN .................................................................................................. 111

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 117
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................. 120
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................. 132
PHỤ LỤC 3 .................................................................................................. 136
PHỤ LỤC 4 .................................................................................................. 137


6

DANH MỤC LIỆT KÊ CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ mô phỏng các thành tố văn hóa cấu tạo nên con người
Nguyễn Du trong sáng tác văn chương……………………………………...36
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ mô phỏng thuật ngữ “màu sắc tu từ” trong phong cách
học tiếng Việt………………………………………………………………..50


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách đây khoảng hơn 200 năm về trước đại thi hào của dân tộc, bậc kỳ
tài của mảnh đất sông Lam núi Hồng, người con ưu tú của dòng họ Nguyễn
Tiên Điền là Nguyễn Du đã viết nên tác phẩm Truyện Kiều bằng cả tài năng và
sự trải nghiệm cá nhân trong cuộc đời của thi nhân. Có thể nói, Truyện Kiều ra
đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển vượt bậc về mọi
mặt trên thi đàn văn học trung đại Việt Nam thời bấy giờ. Trải qua hơn hai thế
kỷ, đã có không ít những ý kiến, nhận xét, bình phẩm của các nhà nghiên cứu,
các nhà văn, nhà thơ hay thậm chí là cả những người bình dân về Truyện Kiều,
về những nỗi đau nhân tình thế thái, về triết lý “tài - mệnh”, về những tư tưởng
tiến bộ vượt xa thời đại của tác giả... . Không chỉ thu hút được đông đảo sự

quan tâm, đón nhận từ phía độc giả, các nhà nghiên cứu trong nước mà Truyện
Kiều còn được các nhà nghiên cứu trên thế giới “để mắt” đến như nhà nghiên
cứu văn học người Pháp Joocjơ Buđanen trong bài viết Nguyễn Du và “Đoạn
trường tân thanh” đã từng phê rằng: “Trên thế giới, ít nhà thơ tìm thấy được
ngay giữa lòng nhân dân nước mình một tiếng vang lớn như nhà thơ Nguyễn
Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển trong văn học Việt
Nam, nhưng là thứ kinh điển mà mọi người đều biết, không sót một ai.” (1).
Tất cả những điều trên đã góp phần khẳng định tài năng văn chương cũng
như đóng góp quan trọng của tác giả Nguyễn Du đối với thi ca dân tộc và thế
giới. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của tác giả trong Truyện Kiều
chính là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể nói, những đóng góp về mặt ngôn
ngữ nghệ thuật trong tác phẩm đã góp phần quan trọng đến việc xác lập nên
dấu ấn cá nhân của tác giả.

Dẫn theo: Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (Đồng chủ biên),
2012, tr.529.
1


8

Mặt khác, để có thể tiến hành khảo sát, tìm hiểu về phong cách nghệ
thuật của tác giả trên lĩnh vực phong cách học tiếng Việt một cách hợp lý thì
con đường tối ưu là đi vào tìm hiểu những dấu ấn cá nhân của tác giả ấy, cụ thể
là ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm văn chương của mình (ngôn ngữ nghệ
thuật). Bên cạnh đó, để có thể thấy được những tư tưởng tiến bộ, vượt thời đại
cũng như giá trị hiện thực, nhân đạo và tính dân tộc mà Nguyễn Du đã thể hiện
trong tác phẩm Truyện Kiều, chúng tôi tiến hành đi vào việc tìm hiểu ngôn ngữ
nghệ thuật tác phẩm.
Ngoài ra, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm văn chương đã được

đưa vào giảng dạy phổ biến ở cấp trung học từ nhiều năm nay và trở thành một
trong sáu ngữ liệu dạy học bắt buộc (2) trong chương trình Ngữ văn theo định
hướng phát triển năng lực ở người học kể từ năm 2018. Điều này chứng tỏ tầm
quan trọng cũng như giá trị văn chương mà Nguyễn Du đã để lại trong “đứa
con tinh thần” của mình. Tuy nhiên, thực trạng dạy học tác phẩm này hiện nay
lại còn tồn đọng nhiều vấn đề bất cập mà chủ yếu nhất là việc tách bạch, rạch
ròi, xa rời giữa nội dung và ngôn ngữ trong tác phẩm. Cả người dạy lẫn người
học đa phần chỉ chú trọng khai thác về mặt nội dung, giá trị tư tưởng của tác
giả mà lắm lúc hạ thấp hoặc không đề cập đến phần chất liệu cơ bản nhất để
cấu thành tác phẩm ấy - ngôn ngữ tác phẩm. Chính vì vậy mà cả người dạy lẫn
người học đều còn một số hạn chế nhất định trong việc tìm hiểu, khám phá dấu
ấn cá nhân của tác giả thể hiện trong văn bản.
Tóm lại, xuất phát từ những lí do nêu trên qua hai phương diện nghiên
cứu và giảng dạy văn học, chúng tôi tiến hành chọn đề tài tiểu luận “Dấu ấn
cá nhân trong sáng tác Truyện Kiều của Nguyễn Du xét từ góc độ ngôn ngữ
Sáu ngữ liệu tác phẩm bắt buộc được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định trong chương
trình Ngữ văn năm 2018 như sau: 1. Nam quốc sơn hà (Thời Lý) - 2. Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn - 3. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi - 4. Truyện Kiều của Nguyễn Du - 5. Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu - 6. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018, tr.16).
2


9

nghệ thuật”. Chọn đề tài này, bên cạnh những lý do khách quan đã nêu trên thì
về mặt chủ quan, xuất phát từ chuyên ngành đào tạo hệ sư phạm Ngữ văn,
chúng tôi cũng mong muốn tích lũy thêm một phần tri thức khoa học phục vụ
cho nghề nghiệp giảng dạy trong tương lai đồng thời một lần nữa khẳng định
lại những đóng góp vượt bậc của tác giả Nguyễn Du trong kiệt tác Truyện Kiều

nhất là trong bối cảnh toàn thể nhân dân cả nước đang cùng nhau hồi tưởng
cũng như hướng về mảnh đất Nghi Xuân (Hà Tĩnh) để kỷ niệm 255 năm ngày
sinh và 200 năm ngày (3) mất của vị đại thi hào dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Dấu ấn cá nhân trong sáng tác Truyện Kiều của Nguyễn Du
xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật” được chúng tôi lựa chọn nghiên cứu nhằm
thực hiện những mục đích như sau:
Thứ nhất, đề tài nhằm mục đích chỉ ra và làm rõ những nét đặc sắc, riêng
biệt về mặt ngôn ngữ nghệ thuật mà tác giả Nguyễn Du đã sử dụng khi viết
Truyện Kiều. Điều này sẽ góp phần lý giải được phần nào dấu ấn cá nhân của
tác giả trong quá trình sáng tác văn chương của mình.
Thứ hai, đề tài nhằm mục đích đưa ra những cách tiếp cận mới, khác với
những cách tiếp cận đã có trong giới nghiên cứu văn chương Nguyễn Du hiện
nay về mặt ngôn ngữ nghệ thuật qua đó góp phần tạo nên tính mới mẻ của đề
tài đồng thời khẳng định lại dấu ấn cá nhân Nguyễn Du trong sáng tác Truyện
Kiều.
Thứ ba, đề tài nhằm mục đích đào sâu, tìm hiểu những giá trị mới về mặt
nội dung, tư tưởng mà tác giả Nguyễn Du đã để lại trong Truyện Kiều thông
qua con đường giải mã ngôn ngữ tác phẩm. Hướng tiếp cận này sẽ giúp chúng
tôi tránh được việc diễn đạt nội dung tác phẩm, tư tưởng tác giả một cách chủ
Tác giả Nguyễn Du (tên chữ Hán: 阮 攸) sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu 1765
(ngày 3 tháng 1 năm 1766 Dương Lịch), mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn 1820 (ngày
16 tháng 9 năm 1820 Dương lịch).
3


10

quan, cảm tính, duy ý chí bởi lẽ “ngôn ngữ chính là yếu tố thứ nhất của văn
chương” (M.Gorki).

Thứ tư, đề tài nhằm mục đích cung cấp thêm một phần nhỏ nguồn tư liệu
tham khảo về tác giả Nguyễn Du nói chung và tác phẩm Truyện Kiều nói riêng
dưới góc độ ngôn ngữ nghệ thuật cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn chương
trong nhà trường phổ thông hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong tiểu luận là ngôn ngữ
nghệ thuật mà tác giả Nguyễn Du đã sử dụng thông qua tác phẩm Truyện Kiều
- một kiệt tác văn học xuất chúng trên thi đàn văn chương dân tộc.
Bên cạnh đó để có một cái nhìn đa diện và khái quát hơn cũng như đặt
tác phẩm trong mối liên hệ, đối sánh với các tác phẩm khác chúng tôi cũng tiến
hành mở rộng đối tượng nghiên cứu của tiểu luận, cụ thể là những tác phẩm thơ
ca, văn xuôi trung ở hai giai đoạn trước (thế kỷ X - XVII) và sau (thế kỷ XVIII
- XIX) Truyện Kiều chủ yếu tập trung vào phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.
Tuy nhiên, việc khảo sát những tác phẩm này được chúng tôi xác định trong
một chừng mực nhất định, chủ yếu mang tính chất liên hệ, so sánh nhằm làm
nổi bật được dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong Truyện Kiều xét từ góc độ
ngôn ngữ nghệ thuật. Chúng tôi không tiếp cận theo hướng riêng rẻ từng tác
phẩm cụ thể.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu trong tiểu luận là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn
Du mà cụ thể hơn là những nét đặc sắc, riêng biệt về mặt ngôn ngữ nhân vật và
ngôn ngữ thiên nhiên. Đây là hai yếu tố góp phần tạo nên dấu ấn cá nhân của
tác giả.


11

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với đề tài “Dấu ấn cá nhân trong sáng tác Truyện Kiều của Nguyễn

Du xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật” chúng tôi tiến hành khảo sát một số
tài liệu chủ yếu sau đây:
4.1. Nhóm tài liệu tìm hiểu chung về phong cách nghệ thuật và dấu
ấn cá nhân của tác giả trong ngôn ngữ nghệ thuật:
1. Chúng tôi khảo sát công trình Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt (1983) của tác giả Cù Đình Tú. Trong phần tìm hiểu về phong cách văn
chương, tác giả đã đề cập đến các chức năng cơ bản của ngôn ngữ văn chương
đồng thời chỉ rõ những đặc điểm cụ thể nhằm phân biệt giữa ngôn ngữ văn
chương của một tác giả với ngôn ngữ dùng trong đời sống thường ngày của
người dân cũng như mối liên hệ giữa hai hình thức ngôn ngữ này với nhau.
Theo đó, tác giả cho rằng: “Ngôn ngữ văn chương nói chung và ngôn ngữ nhà
văn nói riêng phải vừa giống mọi người, vừa khác mọi người. Có giống mọi
người tức có thuận lợi theo chuẩn mực thì mọi người mới hiểu, có khác mọi
người tức có lối nói riêng thì mới thành ra văn để mọi người thích đọc. Sự
giống ngôn ngữ mọi người là cái thuộc về điều kiện nền tảng, sự khác ngôn
ngữ mọi người là cái thuộc về điều kiện bắt buộc.” (Cù Đình Tú, 1983, tr.190).
Mặt khác, tác giả cũng nhấn mạnh đến cơ chế hình thành nên dấu ấn cá
nhân của một nhà văn trong tác phẩm văn chương của mình nằm ở biệt tài sáng
tạo ngôn ngữ văn chương, điều mà tác giả gọi là “lỗi nên có” ở mỗi nhà văn.
Tác giả khẳng định việc sáng tạo ngôn ngữ văn chương dựa trên nền tảng ngôn
ngữ dân tộc sẵn có chính là điều góp phần tạo nên phong cách của tác giả ấy:
“…sở trường ngôn ngữ dẫn đến sáng tạo ngôn ngữ […] Chệch chuẩn mực chứ không phải chống chuẩn mực - cũng là một cái “lỗi”, nhưng là cái “lỗi”
muốn có, cái “lỗi nên có” ở các nhà văn để tạo nên phong cách tác giả.” (Cù
Đình Tú, 1983, tr.192).


12

2. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Phong cách học tiếng Việt
hiện đại (2011) của tác giả Hữu Đạt. Trong công trình này, chúng tôi nhận thấy

có sự tương đồng giữa hai tác giả Hữu Đạt và Cù Đình Tú khi đều nhấn mạnh
đến vai trò, tầm quan trọng của ngôn ngữ nghệ thuật trong quá trình sáng tác
văn chương của các tác giả. Nó góp phần để lại ấn tượng trong trí nhớ của người
đọc sau khi kết thúc tác phẩm: “Một lời nói nghệ thuật có tính thẩm mỹ cao tự
nó đã gây những ấn tượng mạnh cho nhận thức trực giác, in đậm vào trí nhớ
người đọc hình ảnh huyền diệu của âm thanh, nhạc điệu.” (Hữu Đạt, 2011,
tr.220-221). Tầm đón đợi của người đọc đối với một tác phẩm văn chương phụ
thuộc rất lớn vào khả năng sáng tạo ngôn ngữ của tác giả đối với tác phẩm của
mình.
3. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Phong cách học tiếng Việt
(2006) của tác giả Nguyễn Thái Hòa. Khi viết về phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật, cụ thể là ở đặc trưng tính cá thể hóa của nhà văn, tác giả đã có sự so sánh
với phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nhằm làm rõ hơn tầm quan trọng của sự
sáng tạo trong văn chương nghệ thuật ở mỗi nhà văn: “Nếu tính cá thể trong
ngôn ngữ sinh hoạt như là một phẩm chất tự nhiên, thì ngôn ngữ trong tác
phẩm nghệ thuật mang dấu ấn đặc thù, cái riêng của nghệ sĩ.” (Nguyễn Thái
Hòa, 2006, tr.34).
4. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Phong cách học tiếng Việt
(2013) của nhóm tác giả Đinh Trọng Lạc (Chủ biên) và Nguyễn Thái Hòa. Đây
là công trình được chúng tôi sử dụng chủ yếu khi tiến hành tìm hiểu, nghiên
cứu về đề tài này. Nhóm tác giả đã chỉ ra được một cách cụ thể đối tượng của
tính cá thể hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm văn chương đó là
dấu ấn cá nhân của tác giả.
Mặt khác, công trình còn nêu rõ những thành tố góp phần cấu tạo nên
dấu ấn cá nhân của tác giả trong tác phẩm của mình: “Dấu ấn phong cách tác
giả chỉ có thể có có trong tác phẩm nghệ thuật với tư cách là một thể thống


13


nhất của cấu trúc tu từ học kết cấu, một hệ thống tu từ học hoàn chỉnh được
liên kết lại bởi hình tượng tác giả, bởi ý định thẩm mĩ, bởi chủ đề tư tưởng của
tác phẩm.” (Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), 2013, tr.151). Nhận định trên đã góp
phần khẳng định mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời giữa tư tưởng, chủ
đề, giá trị nội dung của một tác phẩm với ngôn ngữ nghệ thuật và các biện pháp
tu từ được nhà văn sử dụng trong tác phẩm ấy.
Qua khảo sát bốn nguồn tư liệu kể trên, chúng tôi nhận định rằng các tác
giả đều đề cao vai trò, tầm quan trọng của ngôn ngữ nghệ thuật mà nhà văn sử
dụng trong tác phẩm của mình. Mặt khác, các tác giả cũng chỉ rõ được mối liên
kết tự nhiên giữa hai thành tố nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật trong cùng một
văn bản văn chương. Những đặc sắc về mặt nội dung chỉ có thể được biểu hiện
trước mắt người đọc thông qua từ ngữ trong tác phẩm và ngược lại nhờ sự sáng
tạo trong cách sử dụng những từ ngữ này mà nội dung tác phẩm mới ghi dấu
ấn đậm nét đối với người tiếp nhận.
Bên cạnh những tài liệu kể trên, chúng tôi còn tiến hành khảo sát mở
rộng thêm một số tài liệu khác về lĩnh vực ngôn ngữ học, đặc biệt chú trọng
đến chức năng biểu đạt ý nghĩa của ngôn ngữ. Một số tài liệu có thể kể đến như:
Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (2017) của tác giả Ferdinand de Saussure
(Cao Xuân Hạo dịch), giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học (2007) của nhóm tác
giả Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng... . Những tài liệu kể trên đã cung cấp cho
chúng tôi một nền tảng lý thuyết ổn định và khá vững chắc trước khi đi vào tìm
hiểu cụ thể hơn về đề tài này.
4.2. Nhóm tài liệu tìm hiểu cụ thể về ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả
Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều:
5. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Từ ngôn ngữ chung đến ngôn
ngữ nghệ thuật (1998) của tác giả Đào Thản. Khi tìm hiểu về tài năng sáng tạo
ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả Nguyễn Du trong Truyện Kiều, tác giả đã nhận
thấy được điểm mấu chốt góp phần làm nên dấu ấn cá nhân của nhà thơ khi sử



14

dụng các từ ngữ nghệ thuật ở chỗ sự kết hợp hài hòa, khít khao giữa cái tự nhiên
và cái cầu kỳ trong văn chương Nguyễn Du: “Cái đặc sắc của Nguyễn Du là ở
chỗ mài giũa đến điêu luyện mà không làm mất vẻ tự nhiên, chọn lọc tinh vi mà
không cầu kỳ, vẫn giữ được phần trong trẻo của ngôn ngữ dân tộc.” (Đào Thản,
1998, tr.173). Chính sự kết hợp đã khiến cho ngôn ngữ Truyện Kiều khác với
những ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương cùng thời và góp phần tạo nên
dấu ấn cá nhân của tác giả.
6. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện
Kiều (2000) của tác giả Nguyễn Quảng Tuân. Tác giả đã khẳng định tài năng
ngôn ngữ điêu luyện, đạt đến trình độ tinh xảo của Nguyễn Du được thể hiện
trong bút pháp miêu tả tâm lý các nhân vật. Chính vì vậy mà tác giả Nguyễn
Quảng Tuân đã nhận định về con người của Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện
Kiều là “một người rất sành về tâm lý” (Nguyễn Quảng Tuân, 2000, tr.147).
Đó không phải chỉ đơn thuần là tâm lý của các nhân vật mà còn là tâm lý chung
của đại đa số quần chúng nhân dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ: “Nghĩ
đời mà ngán cho đời ! / Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
7. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn
Du trong Truyện Kiều (2010) của tác giả Phan Ngọc. Trong công trình này mà
cụ thể là chương VIII. Ngôn ngữ Truyện Kiều, tác giả đã tiến hành khảo sát
và tìm hiểu một cách khá toàn diện và cụ thể những vấn đề liên quan đến nghệ
thuật dùng từ ngữ của Nguyễn Du mà trước đó hầu như ít được giới nghiên cứu
quan tâm và nhắc đến, chẳng hạn như việc sử dụng các từ đơn tiết, từ Hán Việt,
từ láy âm, tính “cân đối” trong ngôn ngữ tác phẩm… . Công trình nhìn tổng thể
đã mang đến cho người tiếp nhận nhiều kiến giải mới mẻ, xác đáng, có tính
thuyết phục cao về một tài năng văn chương hiếm có như ở Nguyễn Du trên
bầu trời thi ca dân tộc.
Mặt khác, tác giả cũng đã góp phần chỉ rõ được điều cốt yếu, căn bản
làm nên dấu ấn cá nhân của tác giả trong sáng tác văn chương: “Một nhà văn



15

bình thường chắp những đoạn hay lại để thành một tác phẩm. Một nhà văn lớn
viết một đoạn, là tính trước đến các đoạn khác, cốt tạo nên một tổng thể hữu
cơ. Chữ dùng có thể là bình thường, từng đoạn tách riêng chưa chắc đã đặc
sắc, nhưng khi xét trong quan hệ nội bộ của bài thơ, thì tự nó gây nên những
sắc thái biểu cảm sâu sắc và tế nhị.” (Phan Ngọc, 2010, tr.313). Nhận định trên
của tác giả Phan Ngọc đã phần nào làm sáng tỏ tính bền vững trong kết cấu
ngôn ngữ qua xuyên suốt toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều.
8. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Thế giới nghệ thuật Truyện
Kiều (2013) của tác giả Phạm Đan Quế. Trong công trình này, tác giả đặc biệt
chú trọng và nhấn mạnh đến tính gợi hình trong ngôn ngữ nghệ thuật của
Nguyễn Du. Tác giả đã khẳng định tính chất ngắn gọn, hàm súc nhưng vẫn đủ
khiến người đọc hình dung ra được vẻ đẹp của cảnh vật trong tác phẩm: “Tính
khái quát không phải được thể hiện bằng một cuộc triển lãm của cảnh vật, mà
trái lại bằng một sự chọn lọc hàm súc có tính chất tượng trưng theo kiểu chấm
phá, có khi chỉ một vài chi tiết mà đã lột tả hết cái thần của cảnh vật.” (Phạm
Đan Quế, 2013, tr.127). Có thể thấy, Nguyễn Du đã tuân thủ nghiêm tính “tiết
kiệm” của ngôn ngữ trong hệ thống nhưng vẫn đủ để tạo dựng nên được cái hay
riêng trong tác phẩm của mình.
9. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình luận án tiến sĩ Ngôn ngữ nghệ
thuật truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa (2015) của tác giả Võ Minh Hải. Công
trình là một quá trình nghiên cứu công phu, tỉ mỉ về những đóng góp vượt bậc
của đại thi hào Nguyễn Du trong lĩnh vực ngôn ngữ nghệ thuật qua kiệt tác
Truyện Kiều của người. Hai đối tượng ngôn ngữ chính được triển khai trong
công trình này là: ngôn ngữ Hán Việt mang tính chất bác học, trang trọng và
ngôn ngữ bình dân mang tính chất gần gũi, thân mật. Sự gắn kết chặt chẽ giữa
hai hình thức ngôn ngữ này đã tạo thành một hệ thống ngôn ngữ chung “trở

thành công cụ thẩm mĩ của văn nhân, thi sĩ trung đại, nó không chỉ chuyển tải
những nội dung thẩm mĩ, suy tưởng về nghệ thuật, về cuộc sống mà còn thể


16

hiện một cách sâu sắc về tầm văn hóa, độ thâm thúy và sở học của tác gia văn
học.” (Võ Minh Hải, 2015, tr.83).
10. Chúng tôi tiến hành khảo sát công trình Thi pháp Truyện Kiều (2018)
của tác giả Trần Đình Sử, cụ thể là ở chương 6. Từ chương học thi ca trong
Truyện Kiều - Mục 7. Nguyễn Du - nhà nghệ sĩ ngôn từ lỗi lạc. Trong công
trình này, tác giả đã đưa ra những nhận định hoàn toàn mới mẻ mà từ trước đến
nay chưa có về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du dưới góc nhìn phong
cách học, đó là “sự phá vỡ thường quy và tái cấu trúc (4)” trong cách sắp đặt từ
ngữ ở Nguyễn Du. Tác giả Trần Đình Sử cho rằng: “Nguyễn Du đã phát hiện
được các quy luật ẩn kín của tiếng Việt để giải cấu trúc ngôn từ thực dụng và
tái cấu trúc những biểu đạt mới, làm cho chúng tự nói lên bằng cấu trúc của
bản thân chúng, không thể dịch lại được bằng ngôn ngữ thông thường mà
không làm mất đi ý nghĩa và vẻ đẹp cùng nhạc điệu của chúng, bởi các cấu trúc
này tự nó có đối xứng, có nhạc điệu và chất thơ.” (Trần Đình Sử, 2018, tr.329).
Sự phá vỡ cấu trúc từ ngữ truyền thống và thay vào đó là sự sắp xếp, tái tạo lại
cấu trúc đó theo cách riêng của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên được dấu ấn
cá nhân của tác giả trong tác phẩm.
Ngoài những công trình kể trên, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát thêm
một số công trình chuyên sâu về lĩnh vực văn học trung đại Việt Nam (X - XIX)
bởi lẽ mặc dù là tác phẩm có những sáng vượt bậc nhưng nhìn từ một góc độ
nào đó Truyện Kiều vẫn là tác phẩm văn học trung đại, nằm trong quy luật
chung của bộ phận văn học này và chịu sự ảnh hưởng của trào lưu văn học nửa
cuối thế kỉ XVIII - trào lưu hiện thực nhân đạo. Chính vì vậy mà khi tìm hiểu
về ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm cũng không

thể tách rời khỏi quy luật vận hành chung của bộ phận văn học trung đại. Một
Một số cụm từ cố định của Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều cho thấy sự phá vỡ
cấu trúc truyền thống của ông: “nắng giữ mưa gìn” (câu 790), “bướm lả ong lơi” (câu 1229),
“bướm chán ong chường” (câu 1238), “tô lục chuốc hồng” (câu 1305), “gió thảm mưa sầu”
(câu 2569),... .
4


17

số công trình tiêu biểu có thể kể đến như: Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ
X - cuối thế kỉ XIX) (2009) của nhóm tác giả Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên),
Giáo trình: Văn học trung đại Việt Nam, tập 2 (2018) của nhóm tác giả Lã
Nhâm Thìn và Vũ Thanh (Đồng chủ biên), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn
văn hóa (2015) của tác giả Lê Nguyên Cẩn… . Những công trình khác, chúng
tôi đã tiến hành liệt kê cụ thể trong Thư mục tài liệu tham khảo (Phần cuối
cùng của bài tiểu luận này).
Từ việc khảo sát lịch sử nghiên cứu vấn đề thông qua các công trình trên,
chúng tôi nhận thấy rằng việc tìm hiểu dấu ấn cá nhân của tác giả Nguyễn Du
trong sáng tác Truyện Kiều xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật đã có những
nghiên cứu đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Nhìn chung, các công trình
này đều tập trung vào tính mới mẻ, tính sáng tạo, tính riêng biệt, đặc thù vốn
có trong nghệ thuật dùng từ của Nguyễn Du thông qua tác phẩm Truyện Kiều.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình này đều chưa đi sâu, đào xới tận gốc vấn đề
mà chủ yếu còn mang tính khái quá hoặc giới hạn trong một vấn đề nào đó của
ngôn ngữ Nguyễn Du. Từ việc kế thừa những thành tựu đã có của các bậc cao
minh đi trước, chúng tôi tiến hành lựa chọn và khảo sát đề tài “Dấu ấn cá nhân
trong sáng tác Truyện Kiều của Nguyễn Du xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ
thuật” nhằm góp thêm đôi chút cách hiểu mới về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài tiểu luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
như sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại:
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm thống kê những nét đặc
sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật mà Nguyễn Du đã sử dụng ở Truyện Kiều, tiến
hành phân loại chúng dựa theo những đặc điểm riêng biệt của từng loại hình
ngôn ngữ trên hai phương diện: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ thiên nhiên.
5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp:


18

Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm làm rõ những nét độc
đáo, mới mẻ, riêng biệt trong cách sử dụng từ ngữ, cách bố trí các biện pháp tu
từ nghệ thuật, cách vận dụng những thi liệu văn hóa Hán Việt và bình dân vào
trong tác phẩm Truyện Kiều. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành tổng hợp và
đưa ra những quan niệm, kết luận về dấu ấn cá nhân của tác giả Nguyễn Du
trong sáng tác Truyện Kiều xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật.
5.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu:
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm liên hệ, so sánh, đối
chiếu giữa Truyện Kiều với các sáng tác văn học trung đại khác trên hai bình
diện: lịch đại và đồng đại. Chúng tôi chủ yếu đi sâu vào tìm hiểu về mặt ngôn
ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm này. Từ đó, chúng tôi tạo nên những cơ sở
lập luận xác đáng để khẳng định tài năng văn chương xuất chúng của Nguyễn
Du.
5.4. Phương pháp nghiên cứu lịch sử:
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm làm rõ những yếu tố về
lịch sử, thời đại có tác động trực tiếp đến quá trình hình thành dấu ấn cá nhân
của Nguyễn Du trong sáng tác Truyện Kiều đồng thời đây cũng là cơ sở để
chúng tôi có thể lý giải phần nào về đời sống văn hóa tác phẩm trong quần

chúng nhân dân.
5.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng nhằm mở rộng các yếu tố góp
phần làm nên dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong sáng tác văn chương, cụ
thế: yếu tố văn hóa (văn hóa học), yếu tố xã hội (xã hội học), con người (nhân
học)… . Tuy nhiên, các phương pháp này chỉ được xem xét trong một chừng
mực nhất định và là phương pháp bổ trợ cho việc nghiên cứu đề tài này.
Trong tiểu luận này, chúng tôi xác định phương pháp nghiên cứu chủ yếu
là phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp phân tích - tổng hợp những


19

phương pháp còn lại được sử dụng trong một giới hạn nhất định và là phương
pháp bổ trợ cho phương pháp chính.
6. Đóng góp của tiểu luận
Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu đã đặt ra ở trên, tiểu luận chúng
tôi với đề tài “Dấu ấn cá nhân trong sáng tác Truyện Kiều của Nguyễn Du
xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật” có những đóng góp cơ bản như sau:
6.1. Về mặt lý luận khoa học
- Tiểu luận đã giới thiệu và bước đầu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu một số
vấn đề lý thuyết của phong cách nghệ thuật thông qua phương diện dấu ấn cá
nhân của tác giả thể hiện qua ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm văn học.
Mặt khác, chúng tôi cũng bước đầu tìm hiểu và giới thiệu những vấn đề liên
quan đến thi pháp học văn học mà cụ thể là thi pháp ngôn từ (5).
- Tiểu luận đã chỉ ra và làm sáng rõ những đóng góp mới mẻ, riêng biệt
của Nguyễn Du về mặt ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều thông
qua hai đối tượng cụ thể là: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ thiên nhiên. Từ đó,
chúng tôi cũng đi đến kiến giải những vấn đề về mặt nội dung và tư tưởng mà
tác giả đã thể hiện trong tác phẩm của mình một cách hợp lý, khoa học, xác

đáng.
- Bên cạnh đó, việc đặt tác phẩm Truyện Kiều trên phương diện đối sánh,
liên hệ với những tác phẩm văn học trung đại trước và sau nó cũng góp phần
thấy được tính thống nhất chung cũng như những quan điểm tiến bộ, mới mẻ,
vượt thời đại mà tác giả Nguyễn Du đã xây dựng trong tác phẩm Truyện Kiều.
Từ đó, chúng tôi đã đưa ra được những kết luận xác đáng về dấu ấn cá nhân
của tác giả thể hiện trong tác phẩm Truyện Kiều - quyển sách “một ngàn tâm
trạng” (chữ dùng của Phan Ngọc (6)), kiệt tác văn chương kinh điển của nhân
loại.
5
6

Dựa trên cách phân chia của tác giả Trần Đình Sử (Trần Đình Sử, 2017, tr.359).
Dẫn theo: Phan Ngọc, 2010, tr.183.


20

6.2. Về mặt thực tiễn giảng dạy Ngữ văn
- Tiểu luận cũng đóng góp một phần nhỏ tri thức khoa học, các nguồn tư
liệu tham khảo về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều ở góc độ ngôn ngữ nghệ
thuật vào quá trình dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài các phần Mở đầu (14 trang), kết luận (06 trang), thư mục tài
liệu tham khảo (03 trang), các phụ lục (19 trang), tiểu luận chúng tôi được
cấu trúc thành 03 chương chính như sau:
Chương 1 (18 trang). Những vấn đề chung
Trong chương này, chúng tôi tập trung giới thiệu một số vấn đề lý thuyết
làm nền tảng như các khái niệm có liên quan đến đề tài, một số yếu tố góp phần
tạo nên dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du nhằm phục vụ cho việc đi sâu, tìm hiểu

dấu ấn cá nhân của tác giả ở các chương sau.
Chương 2 (34 trang). Dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều dưới góc độ ngôn ngữ nhân vật
Trong chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát những đặc điểm riêng
biệt, mới mẻ và có tính bước ngoặt, đột phá trong cách sử dụng từ ngữ biểu đạt,
các biện pháp tu từ nghệ thuật... khi miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Qua đó,
chúng tôi góp phần làm nổi bật dấu ấn cá nhân mà tác giả đã để lại trên phương
diện này.
Chương 3 (37 trang). Dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều dưới góc độ ngôn ngữ thiên nhiên
Trong chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát những đặc điểm riêng
biệt về ngôn ngữ mà Nguyễn Du đã sử dụng khi miêu tả cảnh vật thiên nhiên.
Mặt khác, chúng tôi cũng tiến hành làm rõ mối quan hệ giữa hai thành tố chính
của tác phẩm là con người và thiên nhiên thông qua cầu nối là ngôn ngữ nghệ
thuật. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát tính chất hội họa trong


21

ngôn ngữ mà nhà thơ sử dụng để vẽ nên những tuyệt cảnh mang đậm phong vị
của làng quê Việt Nam xưa.


22

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vấn đề về dấu ấn cá nhân của tác giả trong sáng tác văn chương
1.1.1. Khái niệm “dấu ấn” và “dấu ấn cá nhân của tác giả”
Về thuật ngữ “dấu ấn” được nêu ra trong công trình Từ điển tiếng Việt
(2018) do nhóm tác giả Hoàng Phê (Chủ biên) như sau: “Dấu ấn là dấu vết để

lại do kết quả tác động về tư tưởng, tinh thần.” (Hoàng Phê (Chủ biên), 2018,
tr.315). Như vậy căn cứ vào định nghĩa vừa nêu trên, chúng ta có thể thấy thuật
ngữ “dấu ấn” không quá xa lạ gì đối với mọi người. Ta có thể bắt gặp được
thuật ngữ này trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chẳng hạn như “dấu ấn”
của người nhân viên trong mắt ban lãnh đạo, đồng nghiệp (kinh tế) ; “dấu ấn”
của một người học sinh trong mắt của thầy cô, bạn bè (giáo dục) ; “dấu ấn” của
một vị nguyên thủ quốc gia đối với quần chúng nhân dân (chính trị) ; “dấu ấn”
về tính cách con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế (văn hóa)... . Bên
cạnh việc ghi lại những “dấu ấn” tốt đẹp đôi khi ta cũng bắt gặp trong đời sống
những “dấu ấn” không tốt, “dấu ấn xấu”.
Về thuật ngữ “dấu ấn cá nhân của tác giả” trong sáng tác văn học, nhóm
tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa trong công trình Phong cách học
tiếng Việt (2013) định nghĩa “…là một thể thống nhất của cấu trúc tu từ học
kết cấu, một hệ thống tu từ học hoàn chỉnh được liên kết lại bởi hình tượng tác
giả, bởi ý định thẩm mĩ, bởi chủ đề tư tưởng tác phẩm.” (Đinh Trọng Lạc (Chủ
biên), 2013, tr.151). Theo các tác giả, dấu ấn cá nhân chỉ có thể tồn tại trong
các sáng tác của bộ phận văn học viết, hoàn toàn không có trong bộ phận văn
học dân gian truyền miệng. Dấu ấn phong cách của một tác giả trong ngôn ngữ
nghệ thuật chính là biểu hiện cụ thể cho tính cá thể hóa của chính tác giả ấy xét
dưới góc độ của phong cách học tiếng Việt.
Như vậy nhận định trên của nhóm tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn
Thái Hòa đã đề cập đến tính cấu trúc hệ thống, tính liên kết của ngôn ngữ trong
tác phẩm về mặt tu từ học dựa trên những chủ ý nghệ thuật của tác giả. Đây


23

chính là điểm mấu chốt góp phần tạo nên dấu ấn cá nhân riêng biệt giữa các tác
giả trong cùng một thời đại hoặc ở các thời đại khác nhau.
Tác giả Hữu Đạt trong công trình Phong cách học tiếng Việt hiện đại

(2001) đã nhấn mạnh đến chức năng biểu đạt của ngôn ngữ trong tác phẩm
nghệ thuật. Theo đó, tác giả cho rằng khi tham gia vào một tác phẩm nghệ thuật,
phần ý nghĩa thực tại thường thấy của nó trong đời sống đã bị giảm đi đáng kể
thay vào đó nhà văn sẽ kiến tạo nên cho nó một loại ý nghĩa mới khác hẳn với
ý nghĩa nội tại, vốn có của nó và tác giả gọi đó là “siêu tín hiệu” của ngôn ngữ
nghệ thuật: “Khi khai thác các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các
tham tố tạo nên hình tượng nghệ thuật, tự mình đã làm mờ nhạt đi tính bản thể
của tín hiệu ngôn ngữ để tạo nên một loại nghĩa mới ngoài bản thể, hay là “siêu
tín hiệu”.” (Hữu Đạt, 2001, tr.216). Chẳng hạn như trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du đã sử dụng chức năng “siêu tín hiệu” của ngôn ngữ nghệ thuật thông qua
việc sử dụng từ “xuân” trong câu thơ sau:
“Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng”
Nếu ta chỉ hiểu theo nét nghĩa vốn có của từ “xuân” như một mùa trong
năm, ngụ ý chỉ thời gian gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là đêm xuân thì
e hiểu như vậy chưa chính xác. Bởi lẽ trước đó Nguyễn Du đã khẳng định rằng
tiết xuân đã qua sắp hết và trời đang chuyển mình vào hạ thì thử hỏi làm gì có
mùa xuân nào nếu ta hiểu theo nét nghĩa nêu trên:
“Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng, rậm lục, đã chừng xuân qua”
Như vậy nét nghĩa của từ “xuân” trong câu thơ đã nêu chắc chắn là một
“siêu tín hiệu” của từ “xuân” mà Nguyễn Du đã sử dụng trong tác phẩm này.
Nó biểu đạt cho một loại ý nghĩa mới hoàn toàn mà chỉ có riêng ở Truyện Kiều
người đọc mới tìm thấy được. Đó chính là tấm lòng rạo rực, bồi hồi, xao xuyến
khi lần đầu chạm ngõ tình yêu của cả hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng, là


24

cảm giác viên mãn, hạnh phúc khi được ở cạnh tri âm, tri kỷ mà Nguyễn Du

gọi là “lòng xuân”, còn từ “xuân” trong “chén xuân” là trạng thái ngây ngất,
say đắm trong tình yêu của nhân vật và có thể hiểu nó là một chén xuân tình
mà Kiều và Kim Trọng dành cho nhau trong đêm gặp mặt để rồi càng về sau
càng trở nên mạnh mẽ, táo bạo, quyết liệt hơn:
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”
Việc sử dụng từ ngữ mang giá trị biểu đạt “siêu tín hiệu” này ở Nguyễn
Du đã buộc người đọc phải có tư duy trừu tượng để lý giải được lớp biểu tượng
ẩn sau lớp vỏ ngôn ngữ mà nhà thơ đã dùng: “Lý giải quá trình biểu tượng hóa
các tín hiệu này thông qua các thao tác tư duy trừu tượng” (Hữu Đạt, 2001,
tr.216).
Tác giả Phan Ngọc trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều (2010) đã đưa ra định nghĩa về phong cách học như là một
đối tượng mà thông qua đó người đọc có thể nhận ra được ngay những gì liên
quan đến tác giả, tác phẩm, thời đại mà tác phẩm đó ra đời. Tác giả cho rằng:
“Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu,
hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép
ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm, hay một tác giả.” (Phan
Ngọc, 2010, tr.137). “Các kiểu lựa chọn tiêu biểu” mà tác giả đề cập đến trong
định nghĩa trên chính là điều góp phần tạo dựng nên dấu ấn cá nhân của nhà
văn trong tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, định nghĩa trên của tác giả Phan
Ngọc cũng đã đề cập đến tính cá thể hóa - một trong những đặc trưng cơ bản
của phong cách học tiếng Việt mà bất kể nhà văn nào cũng cần phải có.
Như vậy tổng hợp những quan điểm nêu trên của các nhà nghiên cứu,
chúng tôi tiến hành đưa ra một định nghĩa về “dấu ấn cá nhân của tác giả”
trong sáng tác văn chương xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật như sau: Dấu ấn
cá nhân của tác giả trong văn chương xét từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật là



×