ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
PHAN NGUYỄN QUỲNH ANH
LỄ HỘI CHÙA BÀ BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 60.31.70
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN TRI NGUYÊN
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2013
1
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn, tôi đã gặp những trở ngại tưởng như
không thể vượt qua nhưng sự hỗ trợ của gia đình, thầy cơ và bạn bè đã giúp tơi hồn
thành luận văn này.
Xin gửi đến PGS.TS Nguyễn Tri Ngun lịng kính trọng và lời cảm ơn sâu
sắc. Từ khi nhận đề tài tôi đã nhiều lần làm Thầy lo lắng nhưng Thầy vẫn luôn tận
tụy chỉ dẫn, sửa chữa từng lỗi nhỏ. Thầy còn là một tấm gương để tôi noi theo về
tinh thần lao động khoa học nghiêm túc, không mệt mỏi.
Xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cơ trong khoa Văn hóa học đã tận tình giảng
dạy, truyền thụ kiến thức, giúp tơi có một nền tảng vững chắc trong q trình lao
động khoa học của mình.
Xin cảm ơn những người bạn lớp Cao học Văn hóa học K9. Bất cứ khi nào
cần lời khuyên và sự hỗ trợ, các anh chị đều sẵn sàng giúp đỡ và động viên tôi đi
đến cùng con đường mình lựa chọn.
Xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn và niềm hãnh diện về những người thân u
trong gia đình đã ln bên cạnh, ủng hộ vô điều kiện để tôi an tâm học tập, nghiên
cứu và hồn thành luận văn.
Dù vẫn cịn nhiều thiếu sót nhưng luận văn này chính là thành quả khơng chỉ
của sự nỗ lực bản thân mà cịn từ tình u thương của mọi người dành cho tơi. Tận
đáy lịng, xin gửi đến mọi người lời cảm ơn chân thành nhất.
Phan Nguyễn Quỳnh Anh
2
MỘT SỐ QUY ƯỚC
1/. Chùa Bà là tên gọi phố biến của người Việt để gọi các cung, miếu thờ
Thiên Hậu Thánh Mẫu tại Nam bộ. Do đó, nếu khơng có chú thích riêng thì cách
gọi này áp dụng cho tồn luận văn để nói đến các miếu, cung thờ Thiên Hậu Thánh
Mẫu.
2/. Tại Bình Dương, có đến 3 nơi cùng tổ chức lễ rước kiệu Bà du xuân vào
ngày 15/1 ÂL là chùa Bà Thủ Dầu Một, chùa Bà Lái Thiêu và chùa Bà Bưng Cầu.
Ngồi ra cịn có chùa Bà Dầu Tiếng cũng rước Bà du xuân vào ngày 11/1 ÂL. Do
đó, khi nói đến chùa Bà Bình Dương – đối tượng nghiên cứu, chúng tơi muốn nói
đến chùa Bà Thủ Dầu Một, tọa lạc tại địa chỉ Số 4 đường Nguyễn Du, phường Phú
Cường, Tp.Thủ Dầu Một.
3/. Ngồi những hình ảnh sưu tầm trên internet được ghi nguồn cụ thể, những
hình ảnh do chúng tơi tự thực hiện sẽ khơng dẫn nguồn.
4/. Nội dung trích dẫn trong luận văn sẽ được trình bày theo 02 cách:
- Trích dẫn tồn văn: đoạn trích dẫn được đặt trong dấu ngoặc kép, ghi
nguồn ngay sau đoạn trích dẫn.
- Trích dẫn ý: nguồn được ghi dưới hình thức footnote.
5/. Phần Phụ lục hình ảnh được chia thành 4 nhóm, trong đó:
- Nhóm 1 (từ ảnh 1 đến ảnh 9): khảo tả khơng gian chùa Bà
- Nhóm 2 (từ ảnh 10 đến ảnh 14): hoạt động lễ bái trong lễ hội chùa Bà
- Nhóm 3 (từ ảnh 15 đến ảnh 28): rước cộ Bà
- Nhóm 4 (ảnh 29, 30): các ảnh khác
3
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ........................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 7
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 8
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ........................................................................ 12
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ...................................................... 12
7. Bố cục luận văn .............................................................................................. 13
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 14
1.1. Khái niệm lễ hội .......................................................................................... 14
1.2. Ký ức văn hóa, mối quan hệ giữa ký ức văn hóa và lễ hội ........................... 18
1.2.1. Khái niệm Ký ức văn hóa ...................................................................... 18
1.2.2. Mối quan hệ giữa lễ hội và ký ức văn hóa ............................................. 19
1.3. Lễ hội chùa Bà Bình Dương trong hệ tọa độ văn hóa................................... 21
1.3.1. Chủ thể.................................................................................................. 21
1.3.2. Thời gian ............................................................................................... 26
1.3.3. Không gian............................................................................................ 29
Tiểu kết Chương 1.............................................................................................. 34
CHƯƠNG 2. LỄ HỘI CHÙA BÀ – CÁC LỚP KÝ ỨC VĂN HÓA...................... 36
2.1. Ký ức huyền thoại về Thiên Hậu Thánh Mẫu qua truyền khẩu và văn bản ........... 36
2.1.1. Huyền thoại về Thiên Hậu Thánh Mẫu tương truyền ở Trung Hoa .......... 36
2.1.2. Huyền thoại về Thiên Hậu Thánh Mẫu lưu truyền ở Việt Nam............... 45
4
2.1.3. Huyền thoại về Thiên Hậu Thánh Mẫu lưu truyền tại Bình Dương ........... 48
2.2. Ký ức tín ngưỡng......................................................................................... 50
2.2.1. Ý niệm về Thiên Hậu Thánh Mẫu .......................................................... 50
2.2.2. Hoạt động thờ cúng Thiên Hậu Thánh Mẫu .......................................... 54
2.3. Ký ức không gian ........................................................................................ 56
2.3.1. Không gian chùa ................................................................................... 56
2.3.2. Không gian cộng đồng .......................................................................... 61
2.4. Ký ức lễ nghi ............................................................................................... 63
2.4.1. Thời gian thiêng và không gian thiêng .................................................. 64
2.4.2. Nghi lễ thiêng ........................................................................................ 68
Tiểu kết Chương 2.............................................................................................. 80
CHƯƠNG 3. LỄ HỘI CHÙA BÀ – SỰ TÁI HIỆN MỘT KÝ ỨC VĂN HÓA
TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG.............................................. 82
3.1. Giá trị của lễ hội chùa Bà Bình Dương ........................................................ 82
3.1.1. Giá trị tinh thần .................................................................................... 82
3.1.2. Giá trị vật chất ...................................................................................... 84
3.2. Sự tái hiện ký ức văn hóa trong nhận thức của cư dân Bình Dương về lễ hội
chùa Bà ....................................................................................................... 86
3.3. Sự tái hiện ký ức văn hóa trong ứng xử của cư dân Bình Dương về lễ hội
chùa Bà ....................................................................................................... 90
3.3.1. Ứng xử của chính quyền ........................................................................ 91
3.3.2. Ứng xử của các đoàn thể, doanh nghiệp ................................................ 93
3.3.3. Ứng xử của người dân ........................................................................... 94
Tiểu kết Chương 3.............................................................................................. 95
5
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 99
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 107
Phụ lục 1: Bảng liệt kê các cơ sở thờ tự Thiên Hậu Thánh Mẫu tại Bình Dương ... 107
Phụ lục 2: Mẫu bảng hỏi và kết quả xử lý ......................................................... 108
Phụ lục 3: 18 truyền thuyết về sự hiển linh của Bà sau khi thăng thiên ............. 114
Phụ lục 4: Một số hình ảnh minh họa ............................................................... 120
6
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu khi nhắc đến Bình Dương người ta sẽ nghĩ ngay đến địa danh có lễ
hội đặc sắc vào bậc nhất vùng Nam bộ: lễ hội chùa Bà. Ngày nay, dù vị thế của
Bình Dương đang dần được khẳng định trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là kinh tế
nhưng lễ hội chùa Bà vẫn mang trong mình giá trị riêng để nhắc nhớ về nét văn hóa
độc đáo của mảnh đất này.
Lễ hội chùa Bà là một hoạt động trọng tâm của tín ngưỡng thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm và đã trải qua lịch sử gần một thế kỷ. Trong quá
trình hội nhập với đời sống cộng cư nơi vùng đất mới, người Hoa đã ra sức giữ gìn
tín ngưỡng dân tộc cùng với sự dung hợp, hiếu hòa của cư dân các tộc người khác
để đưa lễ hội chùa Bà “thăng hoa và trở thành một bộ phận đặc sắc của văn hóa
Bình Dương” [Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương 2010: Tập 4, tr.108]. Do đó,
nghiên cứu về lễ hội chùa Bà không chỉ để biết về một trong những tín ngưỡng quan
trọng nhất của cộng đồng người Hoa mà còn hiểu được nhận thức và ứng xử của cư
dân Bình Dương trong quá trình tiếp nhận và dung hịa các lớp văn hóa khác nhau.
Thêm nữa, dù là một lễ hội bắt nguồn từ tín ngưỡng của tộc người nhập cư,
nhưng trong quá trình du nhập vào văn hóa địa phương, lễ hội chùa Bà Bình Dương
đã trở thành một trong những lễ hội lớn nhất Nam bộ và có tầm ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống cư dân trong vùng. Vì vậy, khi nghiên cứu về lễ hội chùa Bà, chúng
tơi cũng muốn tìm ra được những quy luật giao lưu tiếp biến làm cho một lễ hội
mang đậm bản sắc của một tộc người lại có thể phát triển thành một lễ hội văn hóa
cộng đồng rộng lớn.
Đó cũng chính là những lý do chúng tôi quyết định chọn thực hiện đề tài: Lễ
hội chùa Bà Bình Dương.
7
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của cơng trình là tìm hiểu về lễ hội chùa Bà Bình Dương thơng qua
các lớp ký ức văn hóa, để nhận diện ý niệm và biểu tượng trung tâm của lễ hội là
Thiên Hậu Thánh Mẫu.
Lý giải các lớp văn hóa ẩn chứa trong q trình giao lưu tiếp biến giữa tín
ngưỡng tộc người Hoa và tín ngưỡng cư dân địa phương.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bước đầu tìm hiểu những tài liệu có liên quan đến đề tài, chúng tơi đã tìm được
hệ thống tài liệu khá đa dạng, có thể chia làm 03 nhóm sau:
3.1. Nhóm tài liệu viết vềngười Hoa ở Việt Nam
Tài liệu viết về người Hoa ở Việt Nam, đặc biệt là về người Hoa ở Nam bộ
rất phong phú, được thể hiện dưới nhiều dạng nghiên cứu khác nhau, có thể kể ra
một số cơng trình như:
Trước năm 1975: Lịch sử người Hoa kiều tại Việt Nam (Tân Việt Điểu), Họ
Mạc và chúa Nguyễn tại Hà Tiên (Cheng Chinh Ho), Chính sách đối với dân Trung
Hoa di cư của các triều đại Việt Nam (Furuwara Riichirô), Thế lực khách trú và vấn
đề di dân vào Nam Kỳ (Đào Trinh Nhất). Tuy nhiên, theo tác giả Trần Hồng Liên
thì những tác phẩm trong thời kỳ này đều tiếp cận đối tượng của mình như là những
người Hoa kiều, một phần những đánh giá đó cịn xuất phát từ cái nhìn của chính
quyền đương thời cũng như những chính sách của từng triều đại tác động đến hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội... của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1975.1
Sau năm 1975, số lượng công trình nghiên cứu về người Hoa tăng lên đáng
kể và được tiếp cận theo nhiều chuyên ngành nghiên cứu khác nhau, có thể kể ra
những cơng trình: Người Hoa ở Nam Bộ (Phan An), Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ
- Tín ngưỡng và tơn giáo (Trần Hồng Liên), Chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
1
Xem [Trần Hồng Liên 2005: 249 – 250]
8
(tập thể tác giả Phan An, Phan Thị Yến Tuyết, Trần Hồng Liên, Phan Ngọc Nghĩa
biên soạn), Xã hội người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1975: tiềm năng và
phát triển (Mạc Đường chủ biên), Tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở Nam Bộ
(Luận án Tiến sĩ Lịch sử năm 2004 Võ Thanh Bằng), Tín ngưỡng của người Hoa ở
quận 5, Tp.Hồ Chí Minh (Luận văn Thạc sĩ của Trần Đăng Kim Trang),...
Viết về người Hoa ở Bình Dương có cơng trình nghiên cứu khoa học của
Huỳnh Ngọc Đáng với đề tài Người Hoa ở Bình Dương – Lịch sử và hiện trạng, dài
693 trang. Công trình đã thể hiện tồn diện về lịch sử hình thành, đặc điểm kinh tế,
văn hóa, xã hội của cộng đồng người Hoa trên đất Bình Dương. Những tư liệu của
cơng trình đã hỗ trợ rất nhiều cho chúng tơi khi thực hiện luận văn này.
Có thể nói, số lượng cơng trình nghiên cứu về người Hoa nhiều nhưng phần
lớn các cơng trình tiếp cận từ góc nhìn dân tộc học hoặc sử học. Riêng luận văn
Thạc sĩ của Trần Đăng Kim Trang Tín ngưỡng của người Hoa ở quận 5, Tp.Hồ Chí
Minh là cơng trình thuộc chun ngành Văn hóa học nhưng chỉ nói về cộng đồng
người Hoa ở Quận 5.
3.2. Nhóm tài liệu viết về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu
Đi trực tiếp vào giới thiệu và phân tích về tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam bộ
có bài viết Văn hóa tâm linh và phát triển: Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Nam bộ Việt
Nam của Nguyễn Ngọc Thơ (từng được đăng trên tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội
Đà Nẵng tháng 6/2012). Trong bài viết dài 18 trang này, Nguyễn Ngọc Thơ đã khái
quát lịch sử du nhập của tín ngưỡng thờ Thiên Hậu vào Việt Nam, hiện trạng và
những đặc trưng của tín ngưỡng này tại Nam bộ. Những tác phẩm khác không
nghiên cứu chuyên biệt về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu mà lồng ghép
trong các tác phẩm về nữ thần, tín ngưỡng thờ mẫu tại Việt Nam hay những cơng
trình khái quát về người Hoa. Cụ thể, tác phẩm Thần nữ danh tiếng trong văn hóa
Việt Nam của tác giả Nguyễn Minh San đã dành 10 trang (trên tổng số 400 trang) để
nói về Thiên Hậu Thánh Mẫu. Trong tác phẩm này, tác giả khái quát quá trình di
dân và định cư của người Hoa, đồng thời giới thiệu sơ nét về sự tích bà Thiên Hậu
9
và cách thức người Hoa thờ tự Bà trên đất Việt (thờ trong ngôi đền riêng, phối thờ
trong các ngôi chùa Hoa hay phối thờ trong các đình).
Tác phẩm Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ - Tín ngưỡng và tơn giáo của tác
giả Trần Hồng Liên có dành 04 trang (từ trang 61 – 64) để giới thiệu về miếu Thiên
Hậu ở thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương dưới hình thức miêu tả khái quát về kiến
trúc miếu và lễ hội chùa Bà.
Năm 2001, tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Các hình thái tín ngưỡng,
tơn giáo Việt Nam đã liệt kê sự đa dạng của các nữ thần ở Nam bộ, trong đó có nhắc
đến bà Thiên Hậu cùng với các nữ thần khác như Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Ngũ
Hành Nương Nương, Bà Thủy, Bà Hỏa, Mẹ Thai sinh, Mẫu Liễu Hạnh, Bà Chúa
Xứ, Bà Đen, Linh Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu,...
Ngồi ra, biểu tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu cũng được dùng để phân tích tín
ngưỡng thờmẫu của người Việt trong q trình giao lưu tiếp biến văn hóa bản địa và
văn hóa nhập cư trong tác phẩm Nghi lễ thờ mẫu – Văn hóa và tập tục (Ngơ Bạch,
Thích Minh Nghiêm dịch). Gần đây nhất là cơng trình Đạo mẫu Việt Nam của Ngơ
Đức Thịnh xuất bản năm 2012. Trong cơng trình này, tác giả đã dành 14 trang (từ
trang 353 đến trang 367) giới thiệu về Thiên Hậu Thánh Mẫu như là một trong
những đại diện đặc trưng của tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Nam, đồng thời cũng phân
tích những tác động qua lại của tín ngưỡng bản địa với những tín ngưỡng du nhập
từ các tộc người khác.
3.3. Nhóm tài liệu viết về văn hóa tỉnh Bình Dương
Đa số các tác phẩm được viết dưới dạng sử ký như Thủ Dầu Một xưa qua
Địa chí 1910 và bưu ảnh; Bình Dương danh lam cổ tự (Nhiều tác giả), Thủ Dầu
Một – Bình Dương đất lành chim đậu (Vũ Đức Thành chủ biên), Một số nét sơ lược
về lịch sử địa lý, dân cư và ngành nghề truyền thống của tỉnh Sơng Bé (Nguyễn
Đình Đầu).
Cơng trình gần đây nhất và cũng là một cơng trình có mức độ đầu tư cao và
giá trị toàn diện về hầu hết các lĩnh vực của tỉnh Bình Dương là Địa chí Bình
10
Dương xuất bản năm 2010 với 4 tập: Tập 1 viết về Tự nhiên – Nhân văn trong đó
dành khoảng 10 trang (từ trang 164 – 173) giới thiệu về cộng đồng người Hoa ở
Bình Dương; Tập 2 viết về Kinh tế; Tập 3 viết về Lịch sử truyền thống trình bày rất
chi tiết về quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Bình Dương từ thưở sơ
khai cho đến nay; Tập 4 viết về Văn hóa – Xã hội, dành tồn bộ chương 3 giới thiệu
về tín ngưỡng – tơn giáo của người dân Bình Dương (khoảng 45 trang, từ trang 60
đến trang 108), trong nội dung này cũng có nhắc đến lễ hội chùa Bà Thiên Hậu
Thánh Mẫu tuy nhiên chỉ giới thiệu một cách sơ nét (02 trang, từ trang 107 đến
trang 108).
Có thể nói, tài liệu về lễ hội chùa Bà, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu
khá phong phú và hỗ trợ rất nhiều cho chúng tơi trong q trình thực hiện luận văn.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu của chúng tơi thì đến thời điểm này vẫn chưa có cơng trình
nào nghiên cứu lễ hội chùa Bà như một đối tượng chuyên biệt mặc dù lịch sử tồn tại
của nó đã gần 100 năm và giá trị văn hóa đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một lễ hội
mang bản sắc tộc người. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu lễ hội chùa Bà từ cách tiếp
cận Ký hiệu học văn hóa (với biểu tượng trung tâm là Thiên Hậu Thánh Mẫu) cho
đến hiện tại vẫn chưa có ai thực hiện. Do đó, với những định hướng nghiên cứu
trong luận văn, chúng tôi hi vọng sẽ góp cái nhìn tồn diện về lễ hội chùa Bà Bình
Dương dưới góc nhìn Văn hóa học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lễ hội chùa Bà Bình Dương qua các lớp
ký ức văn hóa, qua ý niệm và biểu tượng trung tâm của lễ hội là Thiên Hậu Thánh
Mẫu trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong hệ tọa độ sau:
- Về chủ thể: chủ yếu là người Hoa và người Việt ở Bình Dương.
- Về khơng gian: tỉnh Bình Dương và một số tỉnh, thành lân cận.
- Về thời gian: từ đầu thế kỷ XX đến nay (2013).
11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về phương diện khoa học, chúng tơi mong muốn góp phần nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu – một trong những tín ngưỡng quan trọng và có
tầm ảnh hưởng mạnh nhất trong văn hóa tâm linh của người Hoa ở Bình Dương.
Qua đó, những nét văn hóa đặc trưng tộc người và sự cộng hưởng trong quá trình
giao lưu tiếp biến giữa hai nền văn hóa Hoa – Việt sẽ được thể hiện rõ nét. Ngoài ra,
nghiên cứu lễ hội chùa Bà dưới góc nhìn Ký hiệu học văn hóa là một cách tiếp cận
khoa học mới mà chúng tôi muốn đóng góp cho hoạt động nghiên cứu về các lễ hội
văn hóa.
Về phương diện thực tiễn, những nghiên cứu của luận văn có thể đem đến
cho các cơ quan chức năng tỉnh Bình Dương cái nhìn tồn diện hơn về giá trị của
một lễ hội đặc trưng tộc người nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống nhân
dân tồn tỉnh. Qua đó, có những chính sách hiệu quả để lưu giữ các tư liệu về lễ hội,
phát triển lễ hội chùa Bà thành một thương hiệu du lịch văn hóa độc đáo của tỉnh
Bình Dương.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Luận văn thuộc chuyên ngànhVăn hóa học, nên chúng tơi áp dụng những
phương pháp nghiên cứu trong Văn hóa học là chính, cụ thể một số phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: nghiên cứu lễ hội chùa Bà một cách toàn
diện, qua đó nhận diện các lớp nghĩa biểu tượng của lễ hội trong hệ thống tín
ngưỡng của người Hoa. Áp dụng cấu trúc các lớp ký ức văn hóa để phân tích lễ hội.
- Phương pháp so sánh: so sánh sự tương đồng và khác biệt về ý nghĩa biểu
tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu, về cách thức tổ chức lễ hội chùa Bà của người Hoa ở
Bình Dương và người Hoa ở các địa phương khác.
- Phương pháp lịch sử: tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của lễ hội
chùa Bà ở Bình Dương, quá trình tiếp nhận và thích nghi của văn hóa bản địa với
tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu.
12
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: áp dụng kiến thức của các chuyên
ngành Sử học, Nhân học, Dân tộc học,...
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp điền dã, phỏng vấn sâu, phỏng
vấn bảng hỏi nhằm thu thập tư liệu cho đề tài.
Nguồn tư liệu được sử dụng cho đề tài bao gồm: (1) Các tư liệu thành văn:
sách được xuất bản trong và ngoài nước; (2) Các tư liệu trên internet: sách, văn bản,
hình ảnh, video, audio,... từ Google Book, các website của các trường đại học, các
trung tâm nghiên cứu, các tổ chức văn hóa, xã hội có uy tín; (3) Các cuộc trao đổi,
phỏng vấn với đại diện các bang người Hoa và người Hoa đang sinh sống tại Bình
Dương; (4) Số liệu thu thập được từ 300 phiếu phỏng vấn bảng hỏi.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn được triển khai thành 03 chương
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Lễ hội chùa Bà Bình Dương – Các lớp ký ức văn hóa
Chương 3. Lễ hội chùa Bà Bình Dương – Sự tái hiện một ký ức văn hóa
trong đời sống cộng đồng
13
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là khái niệm đã được các nhà nghiên cứu văn hóa đưa ra với nhiều
cách biểu đạt khác nhau. Trước tiên là định nghĩa theo cách chiết tự, tách khái niệm
lễ và khái niệm hội. Có nhà nghiên cứu đã đưa ra cách định nghĩa theo câu thơ
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Theo đó ta có
thể hiểu nhiều lớp nghĩa: lễ là việc thiêng, ứng xử với quá khứ và cõi âm, hội là lo
việc trần tục, ứng xử với hiện tại và cõi dương.
Với tư cách là một thuật ngữ, khái niệm lễ có nhiều ý nghĩa và một lịch sử
hình thành khá phức tạp. Từ nguyên sơ, lễ là “hình thức phép tắc để phân biệt trên
dưới, sang hèn, thứ bậc lớn nhỏ, thân sơ trong xã hội khi đã phân hóa thành đẳng
cấp” [Đồn Văn Chúc 1997: 127]. Khi xã hội càng phát triển thì ý nghĩa của lễ càng
được mở rộng như: lễ thành hoàng, lễ gia tiên, lễ khao vọng, lễ cầu an, lễ cầu
mưa,... Trong các sự kiện này, lễ là từ dùng để chỉ “những cách thờ thần, sự cúng tế
thuộc các nghi thức tôn giáo mà sau này được suy rộng ra trên nhiều phương diện
của đời sống như quan, hôn, tang, tế,… Những lễ này trở thành hệ thống những nghi
thức có tính chất phổ biến, được quy định một cách nghiêm ngặt” [Thu Linh - Đặng
Văn Lung 1984: 60]. Hay trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, lễ được hiểu là
“những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý
nghĩa nào đó” [Hồng Phê 2009: 720]. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa bao hàm
được chủ thể thi hành lễ và đối tượng mà chủ thể hướng đến để thực hành lễ.
Theo Đoàn Văn Chúc, lễ được cắt nghĩa là “sự bày tỏ kính ý đối với một sự
kiện xã hội hay tự nhiên, hư tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại, được thực hành
theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ, nhằm biểu hiện giá trị của
đối tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ của cơng chúng hành lễ” [Đồn Văn Chúc
1997: 132]. Tán đồng quan niệm này, Hoàng Lương khi nghiên cứu về Lễ hội
truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc cịn cho rằng lễ ra đời để
đáp ứng những nhu cầu tâm linh của con người, là phương thức đáp ứng những câu
14
hỏi khơng dễ gì giải đáp. Các nghi thức của lễ tốt lên sự cầu mong phù hộ, độ trì
của các thần và giúp người tìm ra những giải pháp tâm lý mặc dù phảng phất chất
linh thiêng huyền bí…2
Như vậy, có thể xem lễ là sự bày tỏ lịng tơn kính của con người đối với các
hiện tượng tự nhiên, hay xã hội thể hiện bằng những hành vi, thái độ trang nghiêm,
khuôn mẫu, thẩm mỹ, nhằm biểu dương những giá trị của đối tượng được cử lễ.
Về khái niệm hội, theo Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt, hội là “cuộc vui
tổ chức chung cho đông đảo người tham dự, theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt”
[Hoàng Phê 2009: 592]. Cịn hội theo Đồn Văn Chúc phải gồm đủ ba yếu tố: được
tổ chức nhân dịp kỉ niệm một sự kiện quan trọng nào đó và liên quan đến cộng
đồng; Cuộc vui đó nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên trong cộng
đồng, mang tính cộng đồng về tư cách tổ chức lẫn mục đích; Cuộc vui đó phải có
nhiều trị đủ để người tham gia cảm nhận được “vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi
xem hội”. Hội là “cuộc vui chơi bằng vơ số hoạt động giải trí cơng cộng, diễn ra tại
một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên,
nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của cơng chúng dự lễ” [Đoàn Văn Chúc 1997:
132]. Thu Linh và Đặng Văn Lung khi nghiên cứu lễ hội đã tập trung nhấn mạnh
vai trò của hội, xem “hội là một đối tượng khoa học thực sự có ích,… đóng vai trị
quan trọng trong đời sống tinh thần, đã ăn nhập vào ký ức thẩm sâu của dân tộc”
[Thu Linh - Đặng Văn Lung 1984: 59]. Hai tác giả này xác định khái niệm hội trong
mối tương quan giữa các khái niệm: Lễ - Tết - Hội - Đình đám.
Khác với cách định nghĩa chiết tự trên đây, theo một hướng khác, lễ hội được
xem là những hoạt động được tập thể người tham gia, diễn ra tại một địa điểm nhất
định và có mối quan hệ gắn bó khơng thể tách rời. Trần Ngọc Thêm nghiên cứu lễ
hội trong mối tương quan với lễ tết. Lễ hội cũng gồm hai phần: phần lễ và phần hội.
Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình cịn
2
Xem [Hồng Lương 2002: 12]
15
phần hội thì bao gồm các trị vui chơi giải trí hết sức phong phú. Lễ hội chính là sự
tổng hợp uyển chuyển của cái linh thiêng (lễ) và cái trần thế (hội) [Trần Ngọc Thêm
1999: 154]. Hồ Hoàng Hoa khi nói về lễ hội cũng khẳng định: “Lễ và hội là một thể
thống nhất không thể chia tách trong hoạt động tín ngưỡng và tơn giáo của con
người. Lễ là phần “đạo”, phần tín ngưỡng, phần thế giới tâm linh sâu lắng của con
người. Còn hội là tập hợp các trị diễn có tính lễ thức, các cuộc vui chơi, giải trí tại
một điểm nhất định, thường trong khn viên các cơng trình tơn giáo,có đơng người
tham gia, là đời sống văn hóa thường nhật và một phần đời của một cá nhân và cả
cộng đồng nhân kỉ niệm một sự kiện quan trọng đối với một cộng đồng xã hội” [Hồ
Hoàng Hoa 1998: 29]. Hoàng Lương cũng quan niệm “mối quan hệ giữa lễ và hội là
quan hệ không thể tách rời, ranh giới giữa các yếu tố tạo nên lễ hội cũng khơng thể
phân biệt rạch rịi, máy móc” [Hồng Lương 2002: 14].
Trong tác phẩm kinh điển Sáng tác của F.Rabelais và nền văn hóa dân gian
trung cổ và phục hưng, M.M.Bakhtin đã mô tả “thực chất lễ hội là cuộc sống được
tái hiện dưới hình thức tế lễ và trị diễn, đó là cuộc sống lao động, chiến đấu của
cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội được
nếu như chính nó khơng được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của
tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vượt lên trên thế giới của phương tiện và điều
kiện tất yếu; đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại, đạt tới
hiện thực ý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao
cả”. Nói ngắn gọn, theo Bakhtin, lễ hội là hình thức “thiêng hóa” cuộc sống đời
thực.
Theo từ điển Văn hóa dân gian, “lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội
của một tập thể, một tổ chức thuộc giới, nghề, ngành, hoặc tôn giáo trong phạm vi
một địa phương hoặc trong cả nước” [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn
Vũ 2002: 298]. Cũng xem lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa nhưng có cách diễn
đạt khác là khái niệm được đưa ra trong tác phẩm Tơn giáo trong mối quan hệ văn
hóa và phát triển ở Việt Nam: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa của cộng
16
đồng người, thơng qua những nghi lễ và hình thức diễn xướng nhằm biểu đạt lịng
sùng kính và những cầu xin đối với thần linh” [Nguyễn Hồng Dương 2004: 297]
Dù có diễn đạt theo cách này hay cách khác, hầu hết các nhà nghiên cứu đều
cho rằng cấu trúc của một lễ hội thường có hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ
mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin các vị thần linh, gắn liền với hệ thống các nghi thức
được quy định chặt chẽ và có tính ổn định. Phần hội gắn liền với các hoạt động vui
chơi, giải trí của cộng đồng. Kết thúc lễ là hội. Nếu lễ nhằm tạo ra mối dây liên kết
giữa con người với thần linh (cái linh thiêng) thì phần hội tạo ra mối dây liên kết
giữa con người với con người (cái trần tục). Nói cách khác, lễ hội ln bao gồm cả
cái thiêng và cái tục vì mọi thứ diễn ra cuối cùng đều hướng đến phục vụ cuộc sống
thực tại của con người. Có thể nói, lễ hội là một hoạt động văn hóa có thể kết nối
được những truyền thống văn hóa tâm linh và sinh hoạt hiện tại của một cộng
đồng.
Tùy theo tiêu chí phân chia mà lễ hội được xếp thành nhiều loại. Đơn giản và
có tính khái qt là cách chia của tác giả Trần Ngọc Thêm, theo đó lễ hội được phân
làm 03 loại gồm: lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường
tự nhiên (lễ hội nghề nghiệp), lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với
môi trường xã hội (lễ hội kỷ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước), lễ hội liên
quan đến đời sống cộng đồng (lễ hội tôn giáo và văn hóa, tín ngưỡng dân gian)3.
Trong các dạng thức lễ hội kể trên thì lễ hội tín ngưỡng dân gian là dạng lễ
hội quan trọng và phổ biến trong tất cả các tộc người ở Việt Nam. Muốn tìm hiểu về
tộc người nào thì cách dễ dàng nhất là tham dự vào lễ hội của họ. Khi đó, những giá
trị cốt lõi, những ẩn ức văn hóa vốn khó nhìn thấy trong đời thường sẽ phát lộ rất rõ
ràng. Do đó, “lễ hội tín ngưỡng dân gian khơng chỉ có giá trị đối với những ai có
nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, nó khơng chỉ là một hình thái văn hóa phi vật thể có
tính trội, mà nó cịn là một hình thái sinh hoạt cộng đồng có tính tự nguyện cao
3
Xem [Trần Ngọc Thêm 2006: 274 - 275]
17
mang lại sự cân bằng tâm lý và sinh thái cho nhân dân…” [Nguyễn Tri Nguyên
2010: 130].
1.2. Ký ức văn hóa, mối quan hệ giữa ký ức văn hóa và lễ hội
1.2.1. Khái niệm Ký ức văn hóa
Nhà Nhân học Iu.M.Lốtman đã từng nhận xét: “Văn hóa là ký ức… Khi
chúng ta nói đến nền văn hóa của chúng ra, nền văn hóa hiện đại của chúng ta, thì
có lẽ chính chúng ta cũng khơng ngờ rằng chúng ta cũng đang nói tới con đường lớn
lao mà nền văn hóa đó đã trải qua” [Nguyễn Tri Nguyên 2010: 124]. Do đó, ký ức
văn hóa khơng thể hiểu theo nghĩa đơn thuần là những giá trị văn hóa tồn tại trong
quá khứ, mà đặc trưng quan trọng của nó phải là tính liên tục của những giá trị được
lưu giữ và truyền tụng từ thế hệ sang thế hệ khác. Ký ức văn hóa khơng mang tính
cá nhân, càng khơng mang tính cố định. Một mặt, nó kiến tạo, ni dưỡng và định
hình bản sắc văn hóa của một cộng đồng, mặt khác nó thường xuyên được tái cấu
trúc trong một quá trình chọc lọc liên tục gắn với từng đối tượng không gian, chủ
thể và thời gian nhất định.
Nhà nghiên cứu Ai Cập học người Đức Jan Assmann đã xem ký ức văn hóa
là một “khái niệm tổng hợp đối với tất cả tri thức, nó điều khiển hành động và trải
nghiệm trong khuôn khổ liên hành động đặc thù của một xã hội và chuyển giao từ
thế hệ này sang thế hệ khác để luyện tập và chỉ dẫn, lặp đi lặp lại”4. Ký ức văn hóa
được cấu thành từ những hành động được nghi thức hóa và từ các ký hiệu. Các ký
hiệu này có thể khác loại, song phải đảm bảo hai điều kiện: sống được với thời gian
và phải sở hữu một loại hình chiếm giữ mang tính đồng nhất hóa trong cộng đồng.
Do đó, có thể xem ký ức văn hóa là sản phẩm cuối cùng của ký hiệu văn hóa – một
chuyên ngành nghiên cứu về văn hóa đã được ứng dụng rộng rãi trên thế giới.
4
Assmann, Jan, Kollektives Gedaechtnis und kulturelle Identiaet(Ký ức cộng đồng và bản sắc văn hóa), in:
ders./Tonio Hửlscher, hg., Kultur und Gadaechtnis, Frankfurt, 1988, tr.9-19; trích trong [Nguyễn Tri Nguyên
2010: Tập bài giảng Chuyên đề Ký hiệu học văn hóa, tháng 3/2010]
18
Khi nói đến chức năng của ký ức văn hóa, tác giả Nguyễn Tri Ngun trong
cơng trình Văn hóa học – những phương diện liên ngành và ứng dụng đã xem nó
giống như trầm tích chứa đựng nguồn năng lượng và tài nguyên vô giá của nhân
loại, ở chừng mực nào đó nó có giá trị tựa như giá trị vật chất đối với sự sống của
con người; giống như gien di truyền khi chứa đựng hàm lượng thông tin của quá
khứ qua các truyền thống văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc và sự đa dạng văn hóa;
giống như chứng nhân lịch sử khi nó là bức tranh tự họa của mỗi dân tộc, cung cấp
cấp cho đời sau nhiều kinh nghiệm và truyền lại những thông điệp để cho quá khứ,
hiện tại và tương lai thành dòng chảy liên tục. Nói tóm lại, chức năng của ký ức văn
hóa là sự sáng tạo và củng cố một “chân dung tự họa” mà chân dung ở đây chính là
bản sắc văn hóa của dân tộc mình 5.
1.2.2. Mối quan hệ giữa lễ hội và ký ức văn hóa
Khi ký ức văn hóa tuần hồn theo hình thức hồi ức thì việc đầu tiên của cộng
đồng là tái dựng lại văn hóa của chính mình thơng qua việc tổ chức lễ hội. Ở một
khía cạnh nào đó, lễ hội chính là sợi dây liên kết chặt chẽ nhất trong việc gìn giữ
các giá trị văn hóa truyền thống, khi từng cá nhân tìm thấy sự cộng cảm giữa mình
với những cá nhân khác thông qua hệ thống biểu tượng được tái hiện như là một
chuẩn mực chung. Chính vì vậy, Jan Assmann đã xem lễ hội như là hình thức hàng
đầu của ký ức văn hóa6. Một mặt, lễ hội là sự thể hiện, sự phát lộ của ký ức văn hóa
dân tộc. Mặt khác, nó là một bộ phận làm phong phú những ký ức đó và góp phần
tái cấu trúc cũng như sáng tạo những giá trị mới cho ký ức văn hóa của cộng đồng.
Do đó, lễ hội là một bộ phận không thể tách rời của ký ức văn hóa. Thơng
qua lễ hội, những giá trị truyền thống của cộng đồng được tích lũy trong quá khứ sẽ
phát lộ ở thời điểm hiện tại. Qua những mốc lịch sử khác nhau, lễ hội chắt lọc và
truyền tải những giá trị cốt lõi, đồng thời tiếp thu những hình thức biểu hiện mới, lại
chắt lọc, lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Cứ như thế, lễ hội dù không phải là
5
Xem [Nguyễn Tri Nguyên 2010: 124-125]
Xem [Nguyễn Tri Nguyên 2010: 135]
6
19
hình thức duy nhất nhưng là hình thức quan trọng và phong phú nhất trong việc lưu
giữ ký ức văn hóa của cộng đồng.
Jan Assmann khi đưa ra quan niệm có tính biện chứng xem lễ hội như là hình
thức hàng đầu của văn hóa thì ơng cũng xây dựng một cấu trúc nhận diện giúp khai
thác triệt để các tầng nghĩa văn hóa được phát lộ qua lễ hội. Cấu trúc ấy được biểu
diễn bằng 05 lớp ký ức. Khởi đầu là ký ức huyền thoại – gốc rễ của mọi đức tin,
xuất hiện ở những buổi đầu sơ khai làm nền tảng lý giải cho nhận thức và hoạt động
sùng bái của con người, từ đó dẫn đến lớp ký ức tiếp theo là ký ức tín ngưỡng. Ký
ức tín ngưỡng làm nhiệm vụ hệ thống lại các giá trị của biểu tượng hay hệ biểu
tượng trung tâm thông qua nhận thức và ứng xử của con người đối với biểu tượng
hay hệ biểu tượng đó. Ký ức không gian và ký ức văn bản cho chúng ta cái nhìn
tồn diện về cách con người triển khai và lưu giữ tín ngưỡng của mình trong đời
sống cá nhân và đời sống cộng đồng. Ở một khía cạnh nào đó, ký ức khơng gian và
ký ức văn bản cũng phản ánh mức độ “lưu luyến” của con người đối với biểu tượng
trung tâm khi bằng cách này hay cách khác lồng ghép nó vào đời sống thực tại của
mình. Cuối cùng là ký ức lễ nghi – nơi tập trung và phát lộ gần như hoàn toàn bốn
lớp ký ức trên. Đây là lớp ký ức quan trọng nhất được thể hiện đầy đủ trong lễ hội,
hay nói cách khác đó chính là phần nổi giúp ký ức văn hóa được tái hiện lại một
cách sống động trong đời sống thực tại, giúp cho lễ hội thực hiện được chức năng
đặc biệt của mình là cố kết cộng đồng.
Từ mơ hình nghiên cứu Lễ hội Thánh Gióng mà tác giả Nguyễn Tri Ngun
đã giới thiệu trong cơng trình Văn hóa học – những phương diện liên ngành và ứng
dụng7, chúng tơi khái qt hóa lên thành mơ hình chung cho việc nghiên cứu lễ hội
thông qua 5 lớp ký ức văn hóa như sau:
7
Xem [Nguyễn Tri Nguyên 2010: 137]
20
1.3. Lễ hội chùa Bà Bình Dương trong hệ tọa độ văn hóa
1.3.1. Chủ thể
Dù chủ thể trực tiếp sản sinh ra lễ hội chùa Bà Bình Dương là người Hoa
nhưng chính sự dung dưỡng của tồn thể cư dân nơi đây (bao gồm tất cả các tộc
người sinh sống trên mảnh đất này) đã biến lễ hội chùa Bà từ một sinh hoạt mang
đậm tín ngưỡng tộc người thành lễ hội dân gian độc đáo của toàn thể cư dân vùng
Nam bộ. Do đó, khi nói đến chủ thể của lễ hội, nếu chỉ nói đến người Hoa sẽ là một
thiếu sót lớn khi đặt trong bối cảnh chung của hệ tọa độ văn hóa gắn với khơng
gian, thời gian. Vì vậy, chúng tơi xác định, chủ thể của lễ hội chùa Bà chính là cộng
đồng cư dân sinh sống tại Bình Dương, bao gồm ba thành phần chính: cư dân bản
địa, di dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung vào, người Hoa.
1.3.1.1. Cư dân bản địa
Căn cứ trên các di chỉ khảo cổ khai quật được tại Vườn Dũ (nằm bên bờ phải
sông Đồng Nai, thuộc xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên), Gò Đá (thuộc địa phận thôn
21
Mỹ Lộc và Tân Mỹ, huyện Tân Uyên), Cù Lao Rùa, Dốc Chùa (thuộc địa phận xã
Tân Mỹ, huyện Tân Uyên), các nhà khảo cổ đã phát hiện từ cách đây hàng ngàn
năm, con người nguyên thủy đã sinh sống và phát triển trên địa bàn Bình Dương.
Theo đó, “người Vườn Dũ” được cho là “lớp cư dân đầu tiên khai phá vùng đất
Đơng Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói riêng” [Phan Xn Biên 1998], cịn
người Dốc Chùa sống vào thời đại kim khí cách nay 2500 – 3000 năm đã có hoạt
động xuất nhập khẩu để phục vụ cho nghề thủ công đúc đồng nổi tiếng nhất thời
bấy giờ. Tóm lại, cư dân tiền sử Bình Dương chính là một bộ phận hình thành nên
một trong ba nền văn hóa kim khí của nước ta là văn hóa Đồng Nai (cùng văn hóa
Đơng Sơn và Sa Huỳnh).
Về chủng tộc, vùng đất Bình Dương ngày nay từng là địa bàn sinh sống của
người Anhđônêđiêng cổ đại – tổ tiên của người Stiêng, Châu Ro, Châu Mạ, Mơ
Nông. Từ đó, các nhóm tộc người bản địa Stiêng, Mơ Nơng, Châu Ro, Châu Mạ...
dần dần được hình thành, khai phá đất đai và sinh sống ở đây. Ngày nay, chỉ cịn
một số ít cư dân của các tộc người này sinh sống trên địa bàn tỉnh Bình Dương
(phần lớn cư trú ở Bình Phước và một số tỉnh lân cận như Đồng Nai, Lâm Đồng)
nhưng có thể xác định, họ chính là cư dân bản địa có nguồn gốc lâu đời còn tồn tại
đến ngày nay.
1.3.1.2. Di dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung
Đến đầu thế kỷ XVII, vùng đất này xuất hiện thêm những lớp cư dân mới.
Đó là những di dân người Việt thuộc tầng lớp nơng dân và thợ thủ cơng nghèo từ
các tỉnh phía Bắc khơng chịu nổi sự áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến hà khắc
đã di dân vào đây tìm đường sinh sống. Ngồi tầng lớp nơng dân, cịn có những
người “nghịch mạng với triều đình” bị lưu đày đến đây, hay những sĩ phu bất mãn,
những người trốn tránh quân dịch, binh lính đào ngũ... cũng lần lượt vào đây sinh
sống. Đặc biệt, trong giai đoạn Trịnh – Nguyễn phân tranh, mâu thuẫn giữa địa chủ
và nông dân ngày càng trở nên gay gắt thì tiến trình di cư của người Việt vào
phương Nam, trong đó có vùng đất Bình Dương, diễn ra thường xuyên với số lượng
ngày càng đông.
22
Tiến trình nhập cư của người Việt diễn ra liên tục suốt thế kỷ XVII. Để ổn
định dân cư và hành chính, mùa xuân năm Mậu Dần (1698), Chưởng cơ Lễ Thành
Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất phương nam, xác lập cương thổ,
xây dựng thiết chế hành chính, lập nên phủ Gia Định gồm 2 huyện: huyện Phước
Long với dinh Trấn Biên (gồm tồn bộ miền Đơng Nam Bộ ngày nay) và huyện
Tân Bình với dinh Phiên Trấn (gồm Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang,
Long An,... ngày nay). Đây là đơn vị hành chính được xác lập đầu tiên trên vùng đất
mới khẩn hoang của người Việt ở phương nam. Trên đất Bình Dương thời đó,
những tên đất, tên làng đã sớm xuất hiện với dáng vóc riêng biệt. Những cái tên Lái
Thiêu, chợ Búng, chợ Phú Cường, chợ TânBa(Đồng Ván), chợ Tân Uyên (Đồng
Sứ), chợ Thị Tính, chợ Dầu Giếng (Dầu Tiếng)... vẫn còn tồn tại đến ngày nay là
biểu hiện cho sức sống mạnh mẽ và sinh động trong quá trình sinh sống và lập
nghiệp của cư dân Việt trên vùng đất mới Bình Dương.
Sau khi Quang Trung mất, triều Tây Sơn tan rã, một bộ phận quân Tây Sơn
lánh đến vùng đất thuộc địa bàn Bình Dương hiện nay cùng cộng đồng dân cư tại
chỗ làm ăn, sinh sống. Cũng từ đó, tinh thần chiến đấu bất khuất và anh dũng của
Nguyễn Huệ cùng nghĩa quân Tây Sơn đã gieo mầm và sinh sôi nảy nở trên mảnh
đất này. Võ Tây Sơn cùng nhờ đó mà được truyền bá rộng rãi trong vùng.
Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, họ đẩy mạnh khai thác thuộc địa,
nhất là khai thác vùng đất màu mỡ ở miền Đông Nam Bộ để trồng cao su. Tư bản
Pháp đã dụ dỗ nông dân các tỉnh miền Bắc, miền Trung ký hợp đồng dài hạn làm cu
ly cho các chủ đồn điền trên vùng đất này. Dần dần những làng người Việt hình
thành ngày càng nhiều và ngày càng đơng đúc. Tình cảm gắn bó, tương thân tương
ái giữa những người xa xứ ngày càng được thắt chặt và hình thành nên những tính
cách rất đặc trưng của người Nam Bộ nói chung và người Bình Dương nói riêng.
Ngồi những đợt thực dân Pháp tuyển mộ dân từ miền Bắc vào làm công tra
(contrat) trong các đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một, năm 1954 lại có thêm dịng
23
người do chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm lường gạt cưỡng bức từ Bắc vào
Nam, làm cho cộng đồng cư dân gốc Bắc ngày càng đông đảo.
1.3.1.3. Người Hoa
Trong q trình di dân vào Đàng Trong, ngồi người Việt cịn có người Hoa.
Người Hoa di cư theo nhiều đợt và thường do những biến động lịch sử gây ra. Đáng
chú ý nhất là giai đoạn từ năm 1678 – 1685, khi phong trào “Kháng Thanh phục
Minh” ở Đài Loan tan rã (1683) thì các di thần nhà Minh kéo nhau vào Đàng Trong
định cư lâu dài với số lượng khoảng 3.000 binh lính của Trần Thượng Xuyên và
Dương Ngạn Địch. Được sự cho phép của chúa Nguyễn, đoàn người của Trần
Thượng Xuyên tiến vào cửa biển Cần Giờ, chọn đất Cù Lao Phố thuộc vùng Đồng
Nai – Gia Định để lập nghiệp. Dương Ngạn Địch thống lĩnh đoàn người còn lại tiến
vào cửa Đại, cửa Tiểu chọn đất Mỹ Tho để sinh sống. Sự kiện này được ghi chép
trong sử liệu cũ của nhà Nguyễn rằng: “Năm Kỷ Mùi thứ 32 đời Thái Tông, bọn
trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm nước Minh cũ xin phụ thuộc, lấy đất Giản Phố cho
họ ở, bọn họ mở đất, lập phố, đất ấy ngày một đơng đúc có phong tục như Trung
Hoa” [Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương 2010: Tập 1, tr.165].
Từ năm 1685 trở đi, khi cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn chấm
dứt, tình hình chính trị xã hội giữa ĐàngTrong, Đàng Ngoài đã tương đối ổn định
thì nền ngoại thương cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển. Cả một vùng lãnh
thổ trải dài từ Thuận – Quảng đến Cà Mau rất cần nguồn lao động. Cũng trong giai
đoạn này, người Hoa đã vượt biển đến các nước để bn bán. Vì vậy, đơng đảo
người Hoa đã đến Đàng Trong để giao thương và định cư tại đây. Điều đáng lưu ý
là thành phần di dân của người Hoa giai đoạn này gồm cả thương gia, trí thức nho
giáo, các nhà sư,... Vì đa số họ đến Đàng Trong bằng đường biển nên có thể lý giải
rằng họ là cư dân vùng duyên hải phía nam Trung Quốc, am tường biển cả, giỏi về
giao thương trên biển, về kỹ thuật đóng thuyền, có kinh nghiệm trong giao lưu tiếp
xúc. Những điều này tạo thành tiền đề quan trọng để người Hoa tạo dựng một cuộc
sống mới trên vùng đất phương Nam.
24
Một đợt di dân quan trọng khác của người Hoa vào miền Nam và Thủ Dầu
Một đã diễn ra sau khi hoà ước Thiên Tân (1885) được ký kết giữa Pháp và triều
đình Mãn Thanh. Theo đó, thực dân Pháp cho triều đình Mãn Thanh hưởng một số
quyền lợi về nhượng địa, tô giới và cho phép thần dân của triều đình Mãn Thanh
được di cư đến các thuộc địa của Pháp theo chế độ kiều dân 8. Hiện nay, đông đảo
người Hoa đang sinh sống tại Thủ Dầu Một là con cháu của những người di dân
trong đợt này. Tác giả Phan Xuân Biên cũng nhận định: “Sau thế kỷ XIX, cư dân
Bình Dương đã phát triển nhanh hơn. Đặc biệt trong thời kỳ này, cộng đồng người
Hoa di dân đến Bình Dương ngày một đơng. Họ đến đây từ Cù Lao Phố - Biên Hòa
và từ Bến Nghé – Gia Định” [Phan Xuân Biên 1998]. Do đó, có thể nói, đa số người
Hoa đến lập nghiệp tại Bình Dương là vào nửa sau thế kỷ XIX.
Ngày nay, người Hoa tại Bình Dương được chia thành 4 nhóm chính dựa
trên đặc trưng về ngôn ngữ địa phương nơi bổn qn, đó là: nhóm ngơn ngữ Quảng
Đơng (thuộc vùng tây bắc tỉnh Quảng Đơng), nhóm ngơn ngữ Triều Châu (thuộc
vùng Swatow tỉnh Quảng Đơng), nhóm ngơn ngữ Áo Mơn, Hokkie (thuộc miền
nam tỉnh Phúc Kiến), nhóm ngơn ngữ Hẹ (thuộc bắc tỉnh Quảng Đông, nam tỉnh Hồ
Nam và tỉnh Quảng Tây). Bốn nhóm ngơn ngữ này cũng tương ứng với bốn bang
người Hoa lớn nhất tại Bình Dương là bang Quảng Đông, bang Phúc Kiến, bang
Triều Châu (Tiều), bang Hẹ (Sùng Chính).
Chính trong q trình cộng cư lâu dài, hịa nhập với cư dân bản xứ, những
người Hoa di cư đã dần dần chuyển đổi từ di dân trở thành những thần dân, cơng
dân của các vương triều và chính quyền sở tại.9
Hiện nay, dân số Bình Dương là 1.550.000 người (số liệu thống kê năm 2010
trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX,
tháng 9/2010). Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 15 dân tộc sinh sống, cư dân chiếm
đa số là người Kinh, kế đến là người Hoa, người Khơme,... Có thể nói, dân cư ở
8
Xem [Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương 2010: Tập 1 , tr.166]
9
Xem [Huỳnh Ngọc Đáng 2010: 20]
25