Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Ma quỷ trong văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC

TRẦN THỊ HỒNG OANH

MA QUỶ TRONG VĂN HĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 60.31.70

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS. TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm – ngƣời Thầy đã tận
tình hƣớng dẫn cho tơi xun suốt q trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến
thức cho tơi trong quá trình học tập tại trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh.
Tơi xin chân thành cảm ơn Cán bộ - Công nhân viên các phòng ban của nhà
trƣờng, đặc biệt là Khoa Văn hóa học đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q trình học
tập cũng nhƣ thực hiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các tác giả của các tƣ liệu, bài, ảnh chúng tôi xin phép
đƣợc sử dụng trong luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã ln hỗ trợ tơi trong suốt q


trình thực hiện luận văn.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 11 năm 2013
TRẦN THỊ HOÀNG OANH

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ 2
MỤC LỤC .................................................................................................................. 3
DẪN NHẬP ............................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 5
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 6
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................. 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu .............................................................. 7
6. Bố cục của Luận văn ............................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 9
1.1.1. Văn hoá tâm linh ....................................................................................... 9
1.1.2. Ma quỷ và các khái niệm liên quan ......................................................... 17
1.2. Ma quỷ trong tọa độ văn hóa Việt Nam .......................................................... 22
1.2.1. Ma quỷ nhìn từ chủ thể văn hóa .............................................................. 22
1.2.2. Ma quỷ nhìn từ khơng gian văn hóa ........................................................ 27
1.2.3. Ma quỷ nhìn từ thời gian văn hóa ............................................................ 29
CHƢƠNG 2: VĂN HĨA NHẬN THỨC VỀ MA QUỶ ........................................... 33
2.1. Nhận thức về linh hồn sau khi chết ................................................................ 33
2.2. Nhận thức về các loại ma quỷ ........................................................................ 37
2.3. Nhận thức về ma quỷ ..................................................................................... 45

CHƢƠNG 3: VĂN HÓA ĐỐI PHÓ VÀ TẬN DỤNG MA QUỶ ............................. 53
3.1. Văn hóa đối phó với ma quỷ .......................................................................... 53

3


3.1.1. Trong dịp lễ tết, lễ hội ............................................................................. 53
3.1.2. Trong ngày thường .................................................................................. 59
3.2. Văn hóa tận dụng ma quỷ ............................................................................... 66
CHƢƠNG 4: VĂN HÓA ÁM ẢNH BỞI MA QUỶ ................................................. 71
4.1. Ma quỷ trong văn học dân gian ...................................................................... 71
4.1.1. Truyện cổ tích, truyền thuyết, giai thoại .................................................. 71
4.1.2. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ ..................................................................... 77
4.1.3. Câu đối ................................................................................................... 82
4.2. Ma quỷ trong văn học viết.............................................................................. 84
4.2.1. Thơ ca ..................................................................................................... 84
4.2.2. Văn xuôi .................................................................................................. 90
4.3. Ma quỷ trong một số lĩnh vực đời sống ........................................................ 101
4.3.1. Hóa trang trong lễ hội........................................................................... 101
4.3.2. Phim ảnh ............................................................................................... 103
4.3.3. Họp chợ ................................................................................................ 105
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 111
DANH MỤC HÌNH................................................................................................ 118
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. 121
DANH MỤC SƠ ĐỒ .............................................................................................. 122

4



DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Cho đến nay, ma quỷ vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có rất nhiều những câu
chuyện về ma quỷ, nhƣng cũng không thể kết luận đƣợc có phải hƣ cấu hay khơng. Sự
bí ẩn của ma quỷ xuất phát từ giới hạn tri thức và hiểu biết của con ngƣời nói chung
và các nhà khoa học nói riêng. Hiện nay, khơng có cơ sở chính xác nào kết luận là có
ma quỷ một cách chắc chắn và khoa học. Nhƣng tùy vào từng ngƣời, lứa tuổi, tôn
giáo, chủng tộc mà họ tin là có ma hay khơng.
Bởi lẽ sức ngƣời có hạn, thiên nhiên quá mênh mông, đầy những điều kỳ thú bí
ẩn, họ phải nhờ vào các thế lực siêu nhiên để tiếp thêm sức mạnh, để lý giải những
chuyện không thể hiểu nổi đã và đang diễn ra trong cuộc sống. Họ lập những miếu thờ
Thần hay những ngôi chùa thờ Phật để gửi gắm tâm linh, niềm tin và hy vọng. Ngồi
ra, trong tâm tƣởng của họ cịn một thế lực siêu nhiên khác luôn quấy phá, hãm hại,
cản trở con ngƣời, đó là ma quỷ.
Chính vì sự huyền bí, khó lý giải của ma quỷ trong đời sống nên nó càng thơi
thúc con ngƣời khám phá, tìm hiểu. Đó chính là lý do chúng tơi chọn đề tài “Ma quỷ
trong văn hóa Việt Nam”.

2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề ma quỷ hiện nay chủ yếu đƣợc kể qua các câu chuyện về ma quỷ hay
những nhân vật dị thƣờng cùng các tình tiết ly kỳ đã đƣợc kể đến trong Nam hải dị
nhân của Phan Kế Bính, Truyện truyền kỳ Việt Nam của Nguyễn Huệ Chi, Tân truyền
kỳ Việt Nam của Toan Ánh, Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi,
Đêm bướm ma của Ngô Tự Lập, Lƣu Sơn Minh (tuyển chọn và giới thiệu)… Các câu
chuyện kể đƣợc trình bày dƣới dạng hồi ký của Blair T. Spalding (Nguyên Phong
dịch) về những trải nghiệm, tiếp xúc trực tiếp với ma quỷ của chính tác giả trong
Hành trình về phương Đơng. Những giai thoại về các nhân vật lịch sử trong Việt sử
giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần. Bên cạnh đó là khá nhiều tƣ liệu trên internet đề
cập đến hiện tƣợng ma quỷ với các câu chuyện kể chiếm đa số.
5



Hay gần đây có Trần Minh Thƣơng với các bài viết về Ma quỷ trong văn học
Việt Nam, Ma quỷ trong văn hóa dân gian miền Tây Nam Bộ…
Tuy nhiên, các tài liệu, tƣ liệu đƣợc đề cập ở trên chủ yếu chỉ trình bày các vấn
đề liên quan đến ma quỷ dƣới dạng các câu chuyện kể; hay ma quỷ đƣợc nghiên cứu
trong một phạm vi, một góc nhìn khá hẹp, khơng phải dƣới góc nhìn văn hóa học;
hoặc ma quỷ chỉ là đối tƣợng đƣợc lƣớt qua một cách rất sơ sài chứ hồn tồn khơng
phải là đối tƣợng chính đƣợc nghiên cứu.
Cịn trong luận văn này, ma quỷ là đối tƣợng chính đƣợc nghiên cứu xun suốt
tồn bộ đề tài. Dƣới góc nhìn văn hóa học, đối tƣợng ma quỷ đƣợc phân tích, lý giải
dƣới nhiều lĩnh vực: văn hóa nhận thức, văn hóa đối phó, văn hóa tận dụng và văn hóa
ám ảnh bởi ma quỷ.

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là ma quỷ trong nền văn hóa Việt Nam nhằm
xây dựng một cái nhìn hệ thống về vấn đề khá kỳ thú này dƣới góc nhìn văn hóa học.
Trong khn khổ một đề tài luận văn, chúng tôi muốn nghiên cứu vấn đề ma quỷ
từ khi đƣợc con ngƣời quan tâm đến, ghi chép lại, kể lại những câu chuyện về chúng
cho đến năm 1975. Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là ma quỷ trong văn hóa
Việt Nam. Trong đó, khơng gian nghiên cứu của luận văn là khơng gian văn hóa Việt
Nam, tập trung vào vùng trung du và miền núi phía Bắc (Tây Bắc, Việt Bắc), Tây
Nguyên và một số tỉnh của khu vực Nam bộ - những nơi đƣợc tin là có ma nhiều nhất.
Vì vấn đề đƣợc nghiên cứu trên phạm vi khá rộng nên chúng tôi chỉ xin đƣa ra một cái
nhìn khái quát và căn bản nhất về ma quỷ và những vấn đề xung quanh nó.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về khoa học, sau khi thực hiện đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn một góc khuất
trong văn hố tâm linh ngƣời Việt.
Về thực tiễn, đề tài sẽ là tập hợp phong phú đầu tiên có phân loại các tƣ liệu về

các hiện tƣợng ma quỷ trong văn hóa nhận thức, đối phó, tận dụng và ám ảnh bởi
chúng trong văn hóa Việt Nam.
6


5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
- Phƣơng pháp Dịch lý: ứng dụng triết lý âm dƣơng để nhìn nhận ma quỷ trong
cả khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực, mặt giá trị và phi giá trị.
- Phƣơng pháp Hệ thống: đƣợc sử dụng để sƣu tầm tƣ liệu đa ngành, định vị
đối tƣợng nghiên cứu, xây dựng đề cƣơng nghiên cứu và sắp xếp tƣ liệu nghiên cứu.
- Phƣơng pháp So sánh: chủ yếu là so sánh xuyên văn hóa (giữa ma quỷ trong
văn hóa Việt Nam với ma quỷ trong các nền văn hóa khác).
- Phƣơng pháp Điền dã: chủ yếu là tham gia, phỏng vấn những ngƣời đƣợc cho
là đã tiếp xúc với ma quỷ để giúp chúng tơi có những nhận xét, góc nhìn đa dạng và
phong phú hơn về đối tƣợng nghiên cứu của mình.
- Thao tác phân tích và tổng hợp: phân tích đối tƣợng nghiên cứu từ nhiều góc
độ khác nhau và tổng hợp những vấn đề đƣợc bàn luận đến trong luận văn dƣới dạng
các tiểu kết.
Nguồn tƣ liệu: gồm những tƣ liệu đã đƣợc văn bản hóa nhƣ kho tàng văn hóa
dân gian (ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, sân khấu dân gian…), các tác phẩm văn
chƣơng, nghê ̣ thuâ ̣t, các ghi chép điền dã, phỏng vấn…
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn dự kiến gồm bốn chƣơng nhƣ sau:
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. Ở chƣơng này, ngồi
việc trình này khái qt về văn hóa tâm linh, nghiên cứu cách hiểu khái niệm ma
quỷ và một số khái niệm liên quan, luận văn cũng trình bày tổng quan về ma quỷ
trong hệ tọa độ văn hóa: chủ thể văn hóa, khơng gian văn hóa và thời gian văn
hóa. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn này, luận văn tiếp tục đi vào tìm hiểu ma quỷ
trong văn hóa Việt Nam theo cấu trúc bốn thành phần: văn hóa nhận thức về ma
quỷ, văn hóa đối phó và tận dụng ma quỷ, văn hóa ám ảnh bởi ma quỷ thông qua

ba chƣơng kế tiếp của luận văn.
CHƢƠNG 2: VĂN HÓA NHẬN THỨC VỀ MA QUỶ. Ở chƣơng này,
luận văn đi sâu vào tìm hiểu văn hóa nhận thức của ngƣời Việt và một số tộc
7


ngƣời thiểu số về các loại ma quỷ trong so sánh với văn hóa Trung Hoa và một
số nƣớc phƣơng Tây để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
CHƢƠNG 3: VĂN HÓA ĐỐI PHÓ VÀ TẬN DỤNG MA QUỶ. Ở chƣơng
này, ngồi việc mơ tả, lý giải nhằm phát hiện ra những đặc điểm mang tính đặc
trƣng trong văn hóa đối phó với ma quỷ thể hiện qua một số phƣơng diện nhƣ
trong dịp lễ tết, lễ hội và trong ngày thƣờng, luận văn cịn khảo sát, tìm hiểu vai
trị và những ảnh hƣởng của ma quỷ trong văn hóa tận dụng ma quỷ thông qua
việc nghiên cứu các vấn đề nhƣ: dùng ma quỷ để hù dọa, điều tra tội phạm, thu
hút ngƣời hiếu kỳ (đọc giả, khán giả, thính giả, khách du lịch)…
CHƢƠNG 4: VĂN HĨA ÁM ẢNH BỞI MA QUỶ. Ở chƣơng này, luận
văn khảo sát đối tƣợng qua các phƣơng diện của đời sống tinh thần nhƣ tín
ngƣỡng, văn học dân gian, văn học viết và một số lĩnh vực khác của đời sống
nhằm thấy đƣợc ảnh hƣởng sâu rộng của đối tƣợng nghiên cứu.

8


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Văn hoá tâm linh
Tâm linh là linh cảm của con người về hiện tượng vơ hình qua trải nghiệm lâu
dài của một cộng đồng người [Nguyễn Duy Hinh 2008: 156]. Đó là linh cảm về Sống
và Chết. Khi con ngƣời chết đi, thể xác cịn đó, Hồn thì bay đi mất. Một số linh cảm
thành tín ngƣỡng hoặc thờ cúng nhƣ hồn tổ tiên, một số không đƣợc thờ mà vẫn cúng

nhƣ cô hồn… Trong tâm linh khơng phân biệt Thiện Ác, cịn trong tín ngƣỡng thì lại
có phân biệt Thiện Ác. Tâm linh rộng hơn tín ngƣỡng. Xét về lý luận tơn giáo học thì
có tâm linh tín ngƣỡng nhƣ vạn vật hữu linh và tâm linh tôn giáo nhƣ Phật giáo, Hồi
giáo, Thiên Chúa giáo… Tâm linh tín ngƣỡng là con ngƣời cảm nhận trực tiếp cái
Thiêng; tâm linh tôn giáo là tiếp nhận cái Thiêng từ Phật, thánh Ala, Thiên Chúa…
truyền dạy. Nhƣng dù vậy, mỗi cộng đồng ngƣời tiếp thu tâm linh Giáo chủ nào đó
đều ít nhiều thơng qua tâm linh tín ngƣỡng của mình.
Tâm linh là thể nghiệm của con ngƣời (Tâm) về cái Thiêng (linh) trong tự nhiên.
Tâm linh thuộc phạm trù ý thức, là cảm nhận về cái Thiêng trong tự nhiên và xã hội
(cộng đồng ngƣời) trong cuộc sống.
Liên quan tới tâm linh, tiếng Anh có một số thuật ngữ nhƣ spiritism1 hay
spiritualism2. Vì hai thuật ngữ này hàm nghĩa một số hiện tƣợng mang tính duy tâm,
mà các quan điểm duy tâm thì đã bị khoa học bác bỏ từ mấy trăm năm nay, nên hiện ở
phƣơng Tây tỏ ra ƣa thích thuật ngữ “psychis” [Nguyễn Duy Hinh 2008: 156-161].
“Psychis” thƣờng đƣợc định nghĩa là một số hiện tƣợng bất thƣờng liên quan tới con
ngƣời, bao gồm: ngoại cảm (nhận thông tin không bằng năm giác quan thông thƣờng,
gồm các hiện tƣợng kể trên); kinh nghiệm cận kề cái chết (thƣờng là cảm giác yên
tĩnh, xuất hồn, ánh sáng cuối đƣờng hầm…); xuất hồn, thoát xác (cảm giác thoát khỏi
cơ thể vật chất, nhƣ thấy “hồn” bay lên cao quan sát “xác”); luân hồi (niềm tin có

1

Thuyết thơng linh: giả định về một số hiện tƣợng có sự can thiệp của linh hồn ngƣời chết

2

Thuyết duy linh: niềm tin mang tính chất triết học – tơn giáo về sự tồn tại sau cái chết

9



nhiều tiền kiếp hay hậu kiếp); ma ám (hiện tƣợng xuất hiện ở một số địa điểm đặc
biệt, bao gồm sự hiện hình, âm thanh khơng rõ nguồn gốc, đồ vật chuyển động…); ma
quấy rối (các hiện tƣợng viễn di sinh học qui mô lớn, từng bị qui cho các linh hồn,
hiện đƣợc xem là kết quả của con ngƣời, thƣờng là thanh thiếu niên); giao tiếp với
người chết (nhƣ trong hiện tƣợng tìm mộ hay cầu hồn)…
Tâm linh khơng đồng nghĩa tâm lý hay tâm hồn. Từ nguyên Psi, Psic, Psyché hay
Nỏs3 khơng phải là tâm linh. Nhƣng tất cả các thuật ngữ đó đều chỉ cái phi vật thể
hợp cùng cái vật thể thành Con Ngƣời, nói đơn giản là Con Ngƣời có phần Hồn và
phần Xác.
Gần với tâm linh là Siêu linh (huyền bí, siêu tâm linh, hay paranormal) là một
thuật ngữ dùng để gọi tên cho những hiện tƣợng nằm ngoài phạm vi hiểu biết của con
ngƣời hoặc khoa học hiện tại khơng thể giải thích hay đo lƣờng đƣợc. Một trong
những niềm tin siêu linh đáng chú ý bao gồm những huyền bí liên quan đến ma quỷ.
Hay Tâm lý động học (Psychokinesis, viết tắt là PK): Một hình thức psi4 có ảnh
hƣởng rõ nét của tinh thần đối với thể xác thông qua các phƣơng tiện vơ hình. Con
ngƣời đã biết đến “tâm lý động học” từ thời cổ đại nhƣ hiện tƣợng thân xác bay bổng,
phép màu chữa bệnh, sự tỏa sáng, bùa chú, ma thuật, đồng cốt…
Ngồi ra cịn có Nhận thức ngoại cảm giác (Extrasensory perception, viết tắt là
ESP). Ở Việt Nam ESP đƣợc dịch thành “ngoại cảm”. Đây chính là “giác quan thứ 6”
trong đó thơng tin cảm nhận đƣợc nhận biết thơng qua các phƣơng tiện ngồi năm
giác quan thơng thƣờng (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác). Ngoại
cảm mang đến thông tin về hiện tại, quá khứ hoặc tƣơng lai. Ngoại cảm có thể chia
thành hai nhóm: thần giao cách cảm và khả năng thấu suốt, cả hai nhóm này đều có
thể định hƣớng trƣớc (nhận biết trƣớc) và lùi (hồi tƣởng).
Cho đến nay, có lẽ Mỹ là nơi nghiên cứu ngoại cảm và tâm lý động học là nhiều
nhất. Họ dùng nhiều lý luận, thiết bị khoa học tinh vi để cố tìm lời giải nhƣng vẫn
chƣa đi đến kết luận khoa học chính thức nào. Trên các tạp chí của Mỹ thƣờng dẫn ra
nhiều trƣờng hợp xuất hiện linh ảnh hay giấc mơ tiên tri có liên quan tới thực tiễn.
3


Các từ trong tiếng Hy Lạp

Psi thƣờng đƣợc sử dụng trong cận tâm lý học (parapsychology) bao gồm ESP và PK. Thuật ngữ
này sau đó đƣợc sử dụng phổ biến trong hầu hết các hiện tƣợng hay cảm giác siêu việt bất kỳ
4

10


Nhƣ trƣờng hợp của cô Lesley Castleton, 25 tuổi, ngụ ở Cleethorpes [Hồ Văn Khánh
2006: 21]. Cơ “nhìn thấy” một vụ nổ dữ dội xảy ra ở nhà máy hóa chất tại
Flixborough cách đấy hơn 30km đƣợc thông báo trên tivi vào sáng sớm, nhƣng thực tế
đến chiều hơm đó vụ nổ mới thực sự xảy ra. Cô kể lại rằng khi mình đang xem tivi
vào buổi sáng thì chƣơng trình bị tạm dừng để phát một bản tin về vụ nổ nhà máy tại
Flixborough. Nhƣng khi kiểm chứng lại thì đƣợc biết rằng khơng hề có đài truyền
hình nào tạm dừng chƣơng trình đang phát sóng để phát bản tin về vụ nổ cả, đó chính
là những hình ảnh mà cô Lesley Castleton đƣợc dự báo trƣớc mà thôi.
Nữ giới thƣờng trải qua những giấc mơ có điềm báo trƣớc nhiều hơn nam giới,
trƣờng hợp của cô Castleton nêu trên là một ví dụ. Nguyên nhân là do nữ giới sống
thiên về nội tâm hơn nam giới, tâm tính dịu dàng đến mức yếu đuối, tinh thần của họ
nhẹ nhàng và đa cảm, tâm hồn dễ rung động nên khiến cho họ gần với giấc mơ tiên tri
hơn. Còn nam giới thƣờng cứng rắn, nghiêm trang và duy lý nên tự tin vào sức lực
bản thân và thông thƣờng, ít cảm nhận đƣợc sự linh diệu của sự đa cảm nơi đáy lịng
mình.
Tâm linh và Tín ngƣỡng khơng đồng đẳng với ngoại cảm tuy có quan hệ nhất
định. Ngoại cảm cùng là hiện tƣợng nhận thức của con ngƣời nhƣng khơng phải của
Con Ngƣời bình thƣờng, mà của một số ngƣời đặc biệt có một cơ cấu thần kinh đặc
biệt do bẩm sinh hay bệnh tật dẫn đến. Những ngƣời có cơng năng đặc biệt đó thuộc
dạng “lệch pha tâm sinh lý” nghĩa là tâm sinh lý khơng bình thƣờng. Ngoại cảm gần

gũi với Tâm thần học – một loại bệnh thái. Các nhà nghiên cứu đã phân loại ngƣời có
khả năng ngoại cảm thành hai dạng: bẩm sinh và do bệnh tật. Có ngƣời sau khi đau
bệnh hay gặp tai nạn thập tử nhất sinh (nhƣ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở Hải
Dƣơng bị đau ruột thừa suýt chết, rồi lại bị nấm lao cóc, rồi ngã gãy tay; nhà ngoại
cảm Phan Thị Bích Hằng bị chó dại cắn mà khơng chết [Lê Mai Dung 2007: 43,57])
thì xuất hiện khả năng ngoại cảm. Đặc điểm chung của những nhà ngoại cảm là giúp
thân nhân tìm mộ thì một số trƣờng hợp đúng, còn đa số trƣờng hợp là sai. Trong hoạt
động gọi hồn tìm mộ này lẫn lộn cả ngoại cảm và lừa bịp. Mà đa số những nhà ngoại
cảm này là ngƣời khơng có học vấn cao thƣờng là nơng dân, đơi khi cũng có vài trí
thức. Hoạt động của họ đáp ứng nhu cầu tìm hài cốt liệt sĩ đang rộ lên trong nhân dân.
Nhiều trƣờng hợp đã chứng tỏ là lừa bịp. Tính chất ngoại cảm trong họ còn mơ hồ
11


mong manh5. Báo chí đã đề cập đến họ khơng ít và có thể giải thích nhƣ sau: Khi bị
tai nạn, ốm đau thập tử nhất sinh thi cơ thể con ngƣời có những biến đổi lớn lao về thể
chất, trải qua trạng thái chết lâm sang khá dài nên tinh thần của họ trở nên yếu đuối,
dễ rung động cộng hƣởng với những dải tần số khác nhau. Do đó, tâm hồn họ có thể
thâm nhập vào nhiều trạng thái u minh hoặc là phƣơng tiện cho nhiều trạng thái siêu
hình trao gửi và qua đó lực lƣợng siêu nhiên trao đổi với ngƣời sống (nhƣ hiện tƣợng
lên đồng). Tuy nhiên, sau một thời gian thu phát thì sự chính xác giảm dần do họ mất
đi tính siêu nhạy ban đầu, hay do mƣu lợi nên họ gài những toan tính cá nhân vào đó
làm cho khả năng tâm linh giảm càng nhanh và tính chất “bn thần bán thánh” hiện
rõ, tạo dƣ luận xấu về cái gọi là “mê tín dị đoan”.
Nghiên cứu ngoại cảm khơng phải đi đến tôn giáo coi Linh Hồn bất diệt mà đi
đến phát hiện tiềm năng con ngƣời, một tiềm năng năng lƣợng vật lý cổ điển. Tiềm
năng đó gắn bó với phần vật chất của con ngƣời. Nó đƣợc biểu hiện trƣớc hết trong
các giấc mơ, ngủ mộng, nhất là của những ngƣời có sứ mạng trọng đại, những trƣờng
hợp sinh tử, ốm đau, tai nạn…
Cịn văn hóa tâm linh là một thuật ngữ đƣợc dùng để chỉ một loại hình văn hóa

tinh thần đặc thù của ngƣời Việt. Đó là sự bày tỏ tình cảm, niềm tin linh thiêng, sự tri
ân của những ngƣời đang sống đối với những ngƣời thân đã mất, những vị anh hùng
dân tộc, các vị thần, các vị tổ sƣ, các danh nhân văn hóa… diễn ra trong một thời gian
và một không gian nhất định.
Văn hóa tâm linh là một bộ phận trong nền văn hóa dân tộc. Việc giữ gìn và phát
huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa tâm linh là nhiệm vụ của các cơ quan hoạt động
có liên quan đến văn hóa nói riêng cũng nhƣ các cơng dân Việt Nam nói chung.

5

Tuy nhiên, có một thời gian Phan Thị Bích Hằng liên quan đến hàng loạt tin đồn về “số phận” của cầu Bãi
Cháy, cầu Thăng Long rồi Long Biên, dự đốn sai vị trí của chiếc xe khách bị cuốn trôi ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh
trong đợt lũ lụt lịch sử năm 2010, tìm sai mộ liệt sĩ Lê Tiến Hệ, hay kết quả về cuộc “tìm kiếm hài cốt tƣớng
Phùng Chí Kiên bằng ngoại cảm” có sự tham gia của Phan Thị Bích Hằng lại chỉ là chiếc răng lợn. Nếu thực sự
nói chuyện đƣợc với ngƣời chết, vì sao bà Hằng (cũng nhƣ một loạt các nhà ngoại cảm khác) khơng thể giúp gia
đình tìm thi thể chị Huyền, nạn nhân bị bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tƣờng ném xác… Giữa lúc những lời thị phi về
khả năng tìm mộ của chị lên cao và hồ sơ nhờ tìm mộ cịn xếp đầy ở nhà, Phan Thị Bích Hằng lại đột ngột tuyên
bố giải nghệ và chuyển sang một lĩnh vực hoàn toàn khác là kinh doanh bất động sản. Từ vụ việc này, dƣ luận
lại dấy lên nghi ngờ: Phải chăng Phan Thị Bích Hằng đã mất khả năng? Thực hƣ của tin đồn này khó ai có thể
kiểm chứng nhƣng điều chắc chắn rằng, sau những sự cố trên, niềm tin của dƣ luận đối với nhà ngoại cảm đã có
phần bị lung lay. [Lan Châu 2011, Thuận Thiên 2013].

12


Và vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh đã đƣợc nhiều nhà khoa học, các nhà
tâm lý, các nhà văn hóa… quan tâm nghiên cứu. Nhiều ý kiến đã đƣợc đƣa ra, có
nhiều ngƣời tin nhƣng vẫn khơng ít ngƣời cịn hồi nghi. Nhƣng cần phải khẳng định
rằng: dù muốn dù khơng thì ma quỷ vẫn ln là vấn đề đƣợc rất nhiều ngƣời quan tâm
bàn luận.

Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã khẳng định: "Trong con
ngƣời có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tƣợng khó nắm bắt, nên ngƣời
xƣa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm "linh hồn", và linh hồn trở thành đầu mối
của tín ngƣỡng". Và "Chết tức là cơ thể chuyển từ trạng thái động trở thành tĩnh, cho
nên theo triết lý âm dƣơng thì hồn đi từ cõi Dƣơng (Dƣơng gian, Dƣơng thế) sang cõi
Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là nơi thuộc về "thế giới bên kia". Ngƣời Việt tin rằng "chết
là về với tổ tiên nơi chín suối (cửu tuyền), tin rằng tuy ở nơi chín suối nhƣng ơng bà tổ
tiên vẫn thƣờng xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu là cơ sở hình thành tín
ngƣỡng thờ cúng tổ tiên" [Trần Ngọc Thêm 2000: 136-138].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Anh cũng đã bàn đến vấn đề này trong ấn phẩm
Trong thẳm sâu của bí ẩn 1 – Các hiện tượng siêu linh và kỳ bí của nhân loại. Tác giả
cho rằng ở nhiều xã hội "các thế lực tâm linh vẫn đƣợc thừa nhận và đánh giá cao",
"những oan hồn vất vƣởng, những hồn ma quậy phá" vẫn khơng ngừng thu hút sự chú
ý của lồi ngƣời [Nguyễn Thị Kim Anh 2011: 12].
Tác giả Toan Ánh cũng đã khẳng định trong Nếp cũ – Làng xóm Việt Nam:
Ngƣời Việt Nam bên cạnh ngồi thờ phụng thổ tiên cịn “tin tƣởng ở quỷ thần. Đối
với ta ngƣời chết chỉ chết về thể xác nhƣng linh hồn vẫn còn, vẫn có tri giác nhƣ
ngƣời sống. Và dƣơng sao âm vậy, ngƣời sống có ăn uống, nhà ở, tại cõi âm ngƣời
chết cũng có “cuộc sống” tƣơng tự” [Toan Ánh 2005: 380].
Tác giả Mai Ngọc Chừ, trong Số phận & Tâm linh do nhà xuất bản Hồng Đức
phát hành năm 2013, đã khẳng định cịn có một thế giới khác đang tồn tại song song
với thế giới mà con ngƣời đang sống. Đó chính là thế giới của các linh hồn. “Với
phƣơng pháp tƣ duy c ủa một nhà khoa ho ̣c, tác giả đã xâu chu ỗi các sự kiện liên quan
đến thế giới vơ hình trong cu ộc đời của chính anh và của những ngƣời thân trong gia

13


6
đin

̀ h anh l ại thành một hê ̣ thố ng có l ớp lang…” qua các câu chuyện: Gọi hồn: Được

gia tiên mách bảo, Âm phần: Vị trí của các ngôi mộ và hậu quả của việc di dời…
Judika Illes đã nhấn mạnh trong Encyclopedia of Spirits: The Ultimate Guide to
the Magic of Fairies, Genies, Demons, Ghosts, Gods & Goddesses: “Tâm linh ngấm
vào văn hóa nhân loại”7. Các hiện tƣợng nhƣ chuyện thần linh, ma quỷ, yêu tinh… là
những vấn đề thuộc về tâm linh của con ngƣời. Mặc dù có nhiều ngƣời khăng khăng
phủ nhận sự tồn tại của những hiện tƣợng đó, nhƣng điều đáng ngạc nhiên là nó vẫn
thấm sâu vào nền văn hóa của cả thế giới và tồn tại cho đến ngày nay8.
H. Addington Bruce trong Historic Ghosts and Ghost Hunters cũng đã khẳng
định nhiều trƣờng hợp ma quỷ xuất hiện ở Loudun, Wresley, Prevorst… và những câu
chuyện săn đuổi ma quỷ của ngƣời Mỹ. Trên truyền hình nƣớc Mỹ có nhiều chƣơng
trình săn ma nổi tiếng nhƣ “Ghost Whisperer”, “Medium”, “Paranormal State” và
“Ghost Hunters”. Nhƣ Jame Willis, ngƣời sáng lập tổ chức “The Ghosts of Ohio”
thƣờng xuyên tổ chức theo dõi tìm các đồn tàu ma. Nhóm của Willis, vốn chỉ có 30
thành viên khi mới thành lập năm 1999, gồm cả những ngƣời tin và những ngƣời hồn
tồn khơng tin chuyện vào ma quỷ. Đến nay, tổ chức có trụ sở tại đảo Rhode và 80 cơ
sở ở 44 bang trên khắp nƣớc Mỹ cùng với khoảng 800 thành viên. Nhóm cịn tổ chức
tour tham quan đến các tòa nhà, các nghĩa trang và các khu vực mà nhiều ngƣời tin
rằng có ma ám.
Hồi ký "Life and Teaching of the Masters of the Far East" xuất bản năm 1935
của Blair T. Spalding (1857-1953). Một phần hồi ký đã đƣợc Nguyên Phong chuyển
ngữ với tựa đề "Hành trình về phương Đơng". Tác phẩm ghi nhận đầy đủ về cuộc
hành trình đầy gay go nhƣng lý thú và nhiều màu sắc huyền bí của một phái đoàn gồm
các giáo sƣ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu ngƣời Âu Mỹ tại Ấn Độ, Tây Tạng, Trung

6

Lời giới thiệu của GS. Trần Ngọc Thêm


7

“Spirits permeate human culture”

Fairies, demons, ghosts, elves: that’s just a few of the many kinds of spirit beings. Considering how
many people vociferously refute their very existence, the extent to which spirits permeate modern
human culture is astounding.
8

14


Hoa và Ba Tƣ; sự gặp gỡ giữa phái đoàn và những vị bậc thầy về tâm linh sống ở châu
Á và dãy Hy Mã Lạp Sơn. Một trong những cuộc gặp gỡ đó là phái đồn có dịp diện
kiến pháp sƣ Hamud – ngƣời có kiến thức rất rộng về cõi vơ hình. Ơng là ngƣời Ai
Cập, sống trong một căn nhà nhỏ, dựa vào vách núi. Khi phái đồn hỏi ơng tin rằng có
ma quỷ hay khơng thì vị pháp sƣ đã trả lời bằng một giọng chắc chắn và đầy quả
quyết: - “Đó là một sự thật khơng những ma quỷ hiện hữu mà chúng cịn là đối tượng
nghiên cứu của tôi”, “Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con
người thường sợ hãi cái gì mà họ khơng thể nhận thức bằng các giác quan thông
thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu
dệt các giai thoại rung rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma
quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ khơng cịn sợ hãi”. Ơng
cho rằng “sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết”. [Blair T.
Spalding 2010: 214-215]. Khi phái đồn u cầu một bằng chứng cụ thể thì vị pháp sƣ
mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phịng để xuống
đất. Sau khi trị chuyện xong thì thấy một chiếc áo len đã đƣợc đan xong bởi một con
ma là bạn của vị pháp sƣ, trên ngực chiếc áo có thêu tên giáo sƣ Mortimer – một thành
viên của phái đồn. Tại nơi hoang vu, khơng ai ngồi vị pháp sƣ và phái đồn thì sự
kiện này là một bằng chứng về sự tồn tại của ma quỷ. Và phái đoàn càng ngạc nhiên

khi biết pháp sƣ Hamud là tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp tại Đại học Oxford9.
Niềm tin cho rằng hồn ma là linh hồn của những gì đã chết gắn chặt với khái
niệm vạn vật hữu linh - một tín ngƣỡng cổ xƣa cho rằng linh hồn tồn tại ở vạn vật
trong tự nhiên. Nhƣ nhà nhân học ngƣời Anh James George Frazer (1854-1941) đã
giải thích trong tác phẩm kinh điển "Cành vàng" (The golden bought) của ơng, linh
hồn đƣợc mơ tả mang tính biểu tƣợng, một thực thể điều khiển sự sống của cơ thể.
Ở phƣơng Đơng có hai trƣờng phái chính nổi lên là: văn hóa tâm linh Trung Hoa
thiên về phục vụ con ngƣời xã hội, tạo dựng xã hội nhân sinh và văn hóa tâm linh Ấn
Độ thiên về dẫn dắt nhân tâm theo con đƣờng hƣớng về cái tâm, hóa ngƣời có tâm đạo
thành bậc Chí Tơn, đấng Tối Cao hịa đồng nhất thể với vũ trụ.

9

Phái đồn đã kiểm tra chi tiết này và hồ sơ Đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ ngƣời Ai Cập tên

là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ vật lý.

15


Cũng nhƣ ngƣời Ấn Độ cho mình là Tiểu Ngã Atman, ngƣời Trung Hoa nhận
thấy rằng bản thân mình là một Tiểu vũ trụ. Và nhiệm vụ của con ngƣời là phải hồn
thiện, bổ túc cái cá tính của mình sao cho hòa điệu với Trời Đất – Đại vũ trụ.Và từ
“Tâm linh” trong văn hóa Trung Hoa chỉ tƣ tƣởng tình cảm của con ngƣời, cũng có
nghĩa là chỉ cái phi vật thể trong con ngƣời.
Tâm linh Trung Hoa gắn liền với sự ra đời của Kinh Dịch (易经,Kinh luận về
sự Biến Dịch) – “Dịch có Thái cực, rồi sinh ra Lƣỡng nghi, Lƣỡng nghi sinh Tứ
tƣợng, Tứ tƣợng sinh Bát Quái”. Kinh Dịch đƣợc cho là có nguồn gốc từ huyền thoại
Phục Hy (伏羲), sau đó đƣợc phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Và
chính sự nhiệm màu của nó cũng hoang đƣờng, mang tính chất thần thoại nhƣ những

nhân vật khai sinh ra nó.
Trong “Lễ ký – chương Tế nghĩa” có một đoạn chép [Nguyễn Duy Hinh 2008:
26]: Một hôm, Tế ngã hỏi Khổng Tử: “Con nghe nói đến quỷ và thần, nhƣng khơng
biết chúng rốt cuộc là cái gì?” Khổng Tử đƣơng nhiên khơng thể bắt quỷ thần ra cho
học trị xem, chỉ có thể giải thích dƣới góc độ triết học, ơng nói: “ Cái gọi là “khí”, tức
là nơi thần ở; cịn “phách” thì là nơi quỷ ở”. Khổng Tử đã giải thích cụ thể cho học trị
về ý nghĩa của quỷ và thần.
Đạo giáo cũng cho rằng có ma quỷ tồn tại. Lão Tử từng nói: “Tích giả đắc nhất
giả, thiên đắc nhất dĩ ninh, địa đắc nhất dĩ thanh, thần đắc nhất dĩ linh. Cốc đắc nhất dĩ
doanh, hầu vƣơng đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh” (Ngƣời xƣa đƣợc thống nhất, trời
đƣợc yên tĩnh hợp nhất, đất đƣợc yên lặng hợp nhất, thần đƣợc linh thiêng hợp nhất.
Ngũ cốc đƣợc mùa đầy bồ, hầu vƣơng thống nhất, thiên hạ may mắn). Ở đây “nhất”
nghĩa là “thống nhất”, “thuần nhất”, “hợp”. Đó là “đạo” tồn tại trong trời đất vạn vật.
Nếu nhƣ tâm linh Khổng Mạnh Trung Hoa chủ yếu bay bổng với việc xây
dựng cuộc sống nhân sinh xã hội thì tâm linh Ấn Độ lại nồng nàn với việc hƣớng về
cội nguồn Himalaya hùng vĩ, cao siêu. Himalaya là nơi giao hòa giữa Trời Cha, Đất
Mẹ, nơi thu hút nguồn tinh anh của vũ trụ rồi tỏa xuống trái đất, đem lại nguồn sinh
lực cho cuộc sống thiên nhiên và dẫn dắt cho trí tuệ con ngƣời. Không phải ngẫu
nhiên mà đất nƣớc Ấn Độ luôn ln tự hào về truyền thống văn hóa tâm linh của
mình. Với quan niệm “vạn vật hữu thần” [Hồ Văn Khánh 2006: 134], ngƣời Ấn cho
rằng thần Prajpati đã tạo ra các sinh vật nhƣng chúng cứ trơ ra nhƣ đá, vô tri vô giác
16


nên Ngài đã tự phân mình ra để hịa nhập vào các sinh vật và tạo nên sự sống cho
chúng. Văn hóa tâm linh của ngƣời Ấn đƣợc thể hiện rõ qua các tơn giáo, bằng sự bác
ái, có phần khá bàng quan trƣớc thế sự của Phật giáo, bằng con đƣờng cực đoan của
đạo Jaina, hay tinh thần cung hòa của đạo Sikh…
Nhƣ vậy, vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng thế giới này khơng chỉ có con ngƣời
mà cịn có cả thần thánh hay ma quỷ. Thần hay ma đều có mối liên hệ nhất định với

con ngƣời. Chỉ có điều vì đặc tính tạo thành khác nhau, nên tồn tại sự khác biệt về tính
chất, hình ảnh… Nhƣng tóm lại, ngƣời sống thì làm chủ dƣơng gian, ngƣời chết thì
làm chủ âm gian, mỗi bên có một nơi riêng.
1.1.2. Ma quỷ và các khái niệm liên quan
Theo Từ điển tiếng Việt thơng dụng của Hồng Phê [Hồng Phê 2009: 469], Ma
có hai nghĩa là:
Thứ nhất, ma là ngƣời đã chết, đã thuộc
về cõi âm
Thứ hai, ma là sự hiện hình của ngƣời
chết, theo mê tín.
Theo Wikipedia, Ma là một khái niệm
trừu tƣợng, một phần phi vật chất của một
ngƣời đã chết (hay hiếm hơn là một động
vật/thực vật đã chết).
Thuật ngữ Ma đƣợc cho là do Phật giáo
Ấn Độ truyền sang. “Mara” dịch âm là Ma
la gọi tắt là Ma [Nguyễn Duy Hinh 2008:
478]. Mara là vị thần đã tấn cơng đức Phật
Hình 1.1: Một bức ảnh chụp đƣợc cho là có
xuất hiện bóng ma

10

khi đại giác. Mara đƣa con gái đẹp đến dụ
dỗ; bắn tên sát hại, làm mƣa to gió lớn tấn

cơng buộc đức Phật từ bỏ đại giác trả thế giới lại cho Mara.

10


Nguồn ảnh: />
17


Cũng theo Từ điển tiếng Việt thơng dụng
của Hồng Phê, Quỉ/Quỷ là con vật tƣởng tƣợng
ở dƣới âm phủ, hình thù kì dị và dữ tợn, hay
hiện lên quấy nhiễu và làm hại ngƣời, theo
truyền thuyết [Hoàng Phê 2009: 655].
Theo Wikipedia, Quỷ xuất phát từ tiếng
Hán Gwei(鬼), dùng để gọi linh thể của những
ngƣời đã chết. Theo quan điểm của ngƣời
phƣơng Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con
ngƣời sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác.
Nhƣng vì một lý do nào đó, linh hồn khơng thể
11

Hình 1.2: Một hình dung về Quỷ

đầu thai mà vẫn lƣu lại trên thế giới vật chất thì
đƣợc gọi là quỷ.

Quỷ thƣờng đƣợc hiểu là hồn kẻ hung ác hoặc ngƣời chết oan hiện ra với hình
thù kì dị và dữ tợn.
Nguồn

Khái niệm

Nhận xét


Hoàng Phê
2009

Ma là người đã chết, đã
thuộc về cõi âm.
Ma là sự hiện hình của
ngƣời chết, theo mê tín.

- Ƣu: dễ hiểu.
- Nhƣợc: Liệt kê chƣa đầy đủ. Bởi vì
ngồi người đã chết ra, ma có khi cịn
là một động vật, thực vật hay thậm
chí là một đồ vật nào đó. Hơn nữa, có
nhiều ngƣời khẳng định sự tồn tại của
ma quỷ qua việc học tận mắt chứng
kiến hay những bức ảnh chụp đƣợc
nên khơng thể khẳng định ma quỷ
hồn tồn chỉ thuộc về mê tín dị đoan.

Wikipedia12

Ma là một khái niệm trừu
tƣợng, một phần phi vật chất
của một người đã chết (hay
hiếm hơn là một động
vật/thực vật đã chết).

- Ƣu: Khái niệm của Wikipedia tƣơng
đối đầy đủ hơn Hoàng Phê.
- Nhƣợc: liệt kê vẫn còn thiếu một

trƣờng hợp là ma có khi xuất thân từ
một đồ vật nào đó.

11

Nguồn ảnh: />
12

Nguồn: />
18


Hoàng Phê
2009

Quỷ là con vật tưởng tượng
ở dưới âm phủ, hình thù kì
dị và dữ tợn, hay hiện lên
quấy nhiễu và làm hại
người, theo truyền thuyết.

- Ƣu: nêu đƣợc thuộc tính nổi bật của
quỷ - quấy nhiễu và làm hại người.
- Nhƣợc: quỷ khơng hẳn chỉ là con
vật, có khi quỷ là cây cối, đồ vật hay
người đã chết hóa thành; chi tiết thừa
hình thù kì dị và dữ tợn, vì quỷ là hiện
thân của cái ác, cái xấu xa nên thƣờng
thì chúng có hình thù xấu xí.


Wikipedia13

Quỷ xuất phát từ tiếng Hán
Gwei(鬼), dùng để gọi linh
thể của những người đã
chết. Theo quan điểm của
ngƣời phƣơng Đông, sau khi
chết đi, linh hồn của con
ngƣời sẽ đầu thai chuyển thế
vào kiếp khác. Nhƣng vì
một lý do nào đó, linh hồn
khơng thể đầu thai mà vẫn
lưu lại trên thế giới vật chất
thì đƣợc gọi là quỷ.

- Nhƣợc: dài dòng, trùng lặp với khái
niệm khác (ma – cũng đƣợc hiểu là
một dạng linh hồn không thể đầu thai
mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất)

Bảng 1.1: Phân tích các khái niệm đã có về ma quỷ
Tuy nhiên, khái niệm Ma và khái niệm Quỷ thƣờng đƣợc ghép lại để chung một
cách khái quát. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sẽ nghiên cứu khái niệm
“Ma quỉ/Ma quỷ” nhƣ một từ ghép.
Theo đặc trƣng giống, Ma quỷ là một hiện tƣợng thuộc về văn hóa tâm linh của
con ngƣời. Các khái niệm nêu trên đều chƣa nêu ra đƣợc ý quan trọng này.
Theo đặc trƣng loài, các tài liệu nêu ra 4 loại ma quỷ: người/động vật đã chết
[Hoàng Phê 2009], [Wikipedia], thực vật đã chết, linh hồn [Wikipedia].
Loại thứ 3 không chính xác. Bởi vì khi ma quỷ là một lồi thực vật nào đó (cây
liễu, cây gạo…) thì chúng khơng chết, mà sẽ biến thành tinh sau một thời gian dài tu

luyện hay tích tụ dƣơng khí lâu năm mà biến thành ma quỷ cũng tƣơng tự nhƣ trƣờng
hợp của các đồ vật (nhƣ con dao chẳng hạn) – đặc trƣng này cũng chƣa đƣợc nhắc đến
trong các khái niệm nêu trên.

13

Nguồn: />
19


Loại thứ 4 bị trùng lặp vì linh hồn cũng có thể đƣợc hiểu là người/động vật đã
chết.
Và thuộc tính của ma quỷ là hiện lên để quấy phá, làm hại con ngƣời. Ma quỷ
không giống nhƣ thần linh – thƣờng xuyên phù hộ, giúp đỡ con ngƣời, ma quỷ chỉ gây
hại là chính. Đó là thuộc tính chủ yếu, mang tính bản chất. Tất nhiên, thế giới thần
linh cũng có thần thiện, thần ác nhƣng hầu nhƣ thần chỉ ác khi ta khơng kính trọng
thần, khi ta có lỗi với thần. Thần hầu nhƣ luôn bao dung, rộng lƣợng với con ngƣời và
phù hộ, cứu giúp con ngƣời dù con ngƣời có cúng kiến, lễ bái chu đáo hay không.
Thần chỉ trừng trị con ngƣời khi con ngƣời phạm sai lầm nghiêm trọng và tội lỗi đó
khơng thể cứu vãn đƣợc nữa.
Tiêu chí phân biệt
Nguồn gốc

MA QUỶ
- Ngƣời, động vật đã chết
- Đồ vật, cây cối sống lâu
năm thành tinh

THẦN LINH
- Nguồn gốc tự nhiên: con

ngƣời gặp khó khăn trƣớc
việc giải thích thiên nhiên
và sáng tạo ra thần linh cho
mục đích này14
- Nguồn gốc xã hội: con
ngƣời tìm đến thần linh để
đƣợc bảo vệ, che chở15

Nơi trú ngụ

Bất định

Thiên đàng (Cơng giáo)
Cõi Niết bàn (Phật giáo)

Thuộc tính
Thái độ của con người

Làm hại

Phù hộ

E ngại

Tơn kính

Bảng 1.2: Phân biệt ma quỷ và thần linh
Cũng cần lƣu ý thêm trƣờng hợp khi ngƣời thân của ngƣời nào đó mất đi thì linh
hồn ngƣời chết lúc này không gọi là ma quỷ. Bởi vì linh hồn ấy chẳng những khơng


Tứ Pháp (Mây - Pháp Vân, Mƣa - Pháp Vũ, Sấm - Pháp Lôi, Chớp - Pháp Điện), Mẫu Thƣợng
ngàn, Mẫu Thoải…
14

15

Đối tƣợng đƣợc tôn thờ của các tôn giáo: Phật, thánh Allah…

20


quấy phá, làm hại ngƣời sống mà ngƣợc lại còn phù hộ, che chở cho ngƣời sống. Thế
nên, ngƣời Việt mới có tập tục thờ cúng ơng bà tổ tiên.
Gần với ma quỷ có yêu (yêu tinh hay yêu
quái): có thể là động vật hoặc cây cối sống lâu
năm biết hiện hình ngƣời để phá quấy thiên hạ;
hay chằn tinh: kẻ hung ác, có ngoại hình xấu xí,
chun đi ăn thịt ngƣời, đặc biệt là trẻ con. Chỗ
yêu tinh sống thƣờng là các cây cao, vì thế để trừ
họa cho dân, Ngọc Hồng sai Thiên Lơi đánh, u
tinh chạy, chuyền từ cây này sang cây khác, Thiên
Lôi phải dùng lƣỡi búa đánh ba bốn cái mới diệt
đƣợc! Câu chuyện này thƣờng đƣợc dân gian dùng
Hình 1.3: Hình dung về yêu tinh16

để giải thích hiện tƣợng sét đánh. Tuy nhiên, khái

niệm tinh nói chung thƣờng đƣợc miêu tả một cách kì quái hoặc giống thần lùn, chiều
cao giống nhƣ ngƣời lùn hay cũng có thể giống ngƣời. Điểm đặc nổi bật là chúng có
tính lì lợm và hay thích chọc phá con ngƣời.

Xét về mức độ quấy phá, làm hại con ngƣời thì quỷ thƣờng đƣợc biết đến với
mức độ quấy phá cao nhất và cũng là đối tƣợng mà con ngƣời e sợ nhất. Cịn ma nói
chung thì mức độ quấy phá thấp hơn quỷ nhƣng cũng gây nên sự e ngại nhất định. Và
cuối cùng là tinh – khái niệm chỉ mức độ quấy phá thấp nhất.

Tiêu chí phân biệt
Mức độ quấy phá,
làm hại
Sự e sợ
của con ngƣời

TINH

MA

QUỶ

Thấp nhất

Trung bình

Cao nhất

Thấp nhất

Trung bình

Cao nhất

Bảng 1.3: Phân biệt tinh, ma và quỷ


16

Nguồn ảnh: />
21


Nhƣ vậy, Ma quỷ là

Một hiện tượng văn hóa tâm linh

Người, động vật đã chết

Ngƣời, động vật chƣa chết

Đồ vật, cây cối sống lâu
năm thành tinh

Đồ vật, cây cối không sống
lâu năm

Quấy phá, làm hại

Không quấy phá, làm hại

Sơ đồ 1.1: Khái niệm ma quỷ
Với những phân tích nhƣ trên, trong cơng trình này, chúng tơi định nghĩa:
“Ma quỷ là một hiện tượng văn hóa tâm linh thể hiện ở sự hiện hình của người, động
vật đã chết hoặc đồ vật, cây cối sống lâu năm thành tinh nhằm quấy phá, làm hại con
người”.


1.2. Ma quỷ trong tọa độ văn hóa Việt Nam
1.2.1. Ma quỷ nhìn từ chủ thể văn hóa
Dân tộc Việt Nam với 54 tộc ngƣời chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi tộc
ngƣời có sắc thái văn hóa riêng biệt trong những giá trị văn hóa chung của cả dân tộc,
cho nên văn hóa Việt Nam là “nền văn hóa thống nhất trong đa dạng”. Đó là văn hóa
Việt – Mƣờng, Mèo – Dao, Mơn – Khmer, Tày – Thái, Chăm… Trong đó, văn hóa
Việt – Mƣờng mang tính tiêu biểu và ngƣời Việt là tộc ngƣời chủ thể. Trong q trình
“tƣơng tác với mơi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội” [Trần Ngọc Thêm 2000:
10], các tộc ngƣời có q trình trải nghiệm về tâm linh. Tâm linh là trí tuệ nhằm cải
tạo thiên nhiên và bản thân con ngƣời để phục vụ con ngƣời. Con ngƣời luôn luôn
22


muốn lý giải các sự vật, hiện tƣợng trong cuộc sống, con ngƣời quan tâm đến văn hóa
tâm linh, đặc biệt là vấn đề ma quỷ, linh hồn.
Mỗi tộc ngƣời qua trải nghiệm của mình đƣa ra những cách lý giải khác nhau.
Khơng những thế, từng nhóm tộc ngƣời cũng có cách lý giải khác nhau. Cách lý giải
có thể nhuộm màu ngoại lai nhƣng cốt lõi, bản sắc riêng từng tộc ngƣời vẫn đƣợc bảo
tồn. Ngay khi hội nhập với những nền văn minh lớn, những tâm linh tôn giáo có trình
độ phát triển cao hơn thì tâm linh dân tộc vẫn tồn tại. Không những tồn tại mà các tâm
linh dân tộc cịn “cải tạo” tâm linh tơn giáo của các tôn giáo lớn nhƣ Bà la môn giáo,
Phật giáo, Đạo giáo, Islam giáo thành những hình thái tơn giáo mang đặc điểm dân
tộc, khác ít nhiều với tơn giáo gốc. Chính vì vậy mới có Phật giáo Việt Nam, Đạo giáo
Việt Nam trong ngƣời Việt và các dạng tôn giáo pha lẫn Đạo giáo, Phật giáo trong
ngƣời Tày, Thái, Dao… và những hình thái tơn giáo Bà Ni, Phật giáo Khơme trong
các dân tộc Chăm và Khơme…
Tộc ngƣời nào cũng có tâm linh về ma quỷ, linh hồn - với tƣ cách là cái vơ hình
trong tâm hồn con ngƣời. Mỗi tộc ngƣời thể hiện một cách khác nhau hình thành tâm
linh của dân tộc đó. Dƣới đây dẫn một số tộc ngƣời:

Ngƣời Việt cho rằng đàn ơng có 3 hồn 7 vía, đàn bà có 3 hồn 9 vía. Về hồn thì
trong các tƣ liệu đã có đề cập đến hồn bạch, vong hồn, hƣơng hồn. Hồn bạch là dải lụa
trắng thắt hình ngƣời đặt trên thân ngƣời chết. Hƣơng hồn là thuật ngữ dùng khi cúng
tế ngƣời chết. Còn linh hồn hay hồn là thuật ngữ chỉ chung cho cái phi vật thể, cái
Thiêng hợp với xác thành con ngƣời. Khi ngƣời vừa chết thì có tục gọi hồn.
Trong Phong tục tập quán người Việt có nói đến khi ngƣời sắp chết, ngƣời nhà
lấy áo ngƣời chết treo lên nóc nhà, phía trƣớc hƣớng về phía Bắc, rồi gọi tên tục ngƣời
chết 3 lần. Sau đó trèo xuống theo lối nóc nhà phía sau, đem tấm áo ấy đắp lên bụng
ngƣời chết. Làm thế này với hy vọng hồn ngƣời chết trở về sống lại.
Ngƣời ta dùng 7 thƣớc ta lụa trắng phủ lên ngực ngƣời chết trƣớc khi tắt thở. Khi
ngƣời bệnh chết hẳn, đem tấm lụa này kết thành hình dạng ngƣời, có đầu mình chân
tay. Kết xong đặt lên mình ngƣời chết cho hồn nhập vào. Lúc nhập quan thì hồn bạch
đƣợc đặt trong linh sàng, linh tọa để tƣợng trƣng cho ngƣời đã mất... Linh tọa là bàn
23


thờ vong hồn ngƣời chết, bao giờ cũng đặt trƣớc linh cữu... Linh xa đi trƣớc linh cữu
trong đặt hồn bạch với bát hoa, bình hoa, đèn nến... Khi đắp mộ xong rƣớc hồn về.
Trƣớc Cách mạng tháng 8 năm 1945, có ngƣời dỡ nóc nhà gọi hồn ngƣời sắp mất, dỡ
nóc để có chỗ hồn về! [Vũ Mai Thùy 2004: 37-48].
Ngƣời Kháng quan niệm con ngƣời sống bởi 5 hồn (Man). Hồn chính ở trên
đầu, cịn hồn khác ở tứ chi. Khi ngƣời chết 5 hồn thành ma (ma ngặt). Xung quanh
ngƣời ta cịn có thế giới ảo các lồi ma. Ma rừng (ma ngặt klơ), ma nguồn nƣớc (ma
ngặt ngã), ma đống mối (ma ngặt pom núm), ma bản (ma ngặt bán)...
Ngƣời La Ha cho rằng mỗi ngƣời có 8 linh hồn. Hồn chủ ở trên đầu, các hồn
khác ở mồm, mũi, cằm và tứ chi. Ngoài ra, ngƣời La Ha cho rằng trên mặt đất có một
thế giới của các loài ma: ma rừng (kdạ pá), ma nƣớc (kdạ ủng)...
Ngƣời Pu Péo cũng giống nhƣ nhiều dân tộc khác tin vào sự tồn tại của linh hồn
(n’nguôn). Họ cho rằng con ngƣời nam cũng nhƣ nữ đều có 8 hồn (mrư vân ngóa) và
9 vía (m’xịa vân au). Họ tin rằng hồn mạnh hay yếu ảnh hƣởng tới sức khỏe của con

ngƣời. Vì thế, mỗi khi cho trẻ em đi chơi xa, đi đêm hoặc đi vào lúc giữa trƣa ngƣời ta
phải làm dấu chữ Thập bằng nhọ nồi qua đăng (hoa trán) ở trên trán đứa trẻ dƣới 13
tuổi để ngăn ma.
Ngƣời Hà Nhì tin vào sự tồn tại của linh hồn (hia). Mỗi ngƣời có 12 hồn. Trƣớc
kia có tục gọi hồn cho tất cả mọi ngƣời trong gia đình và gia súc. Ngƣời ta ln ln
chú ý giữ gìn bảo vệ linh hồn của mình. Đối với trẻ em, việc giữ gìn linh hồn càng cần
đƣợc coi trọng vì hồn đƣợc cho là cịn yếu, chƣa cứng cáp. Vì thế mỗi khi đi đâu xa,
bất kể ngày hay đêm bố mẹ phải để vào trong đỉnh mũ của con củ gừng, quả ớt, lá ổ
mé (loại dong diềng) là những vật đƣợc coi là kỵ ma. Cũng với quan niệm tƣơng tự,
ngƣời Hà Nhì thƣờng đính trên đỉnh mũ trẻ em một mẫu xƣơng chó, hay da hoặc lơng
con “hù là” (một loại sóc). Mỗi khi có sấm sét bố mẹ phải làm dấu nhọ nồi trên trán
trẻ nhỏ để hồn khỏi sợ mà bỏ đi.
Ngƣời Co tin rằng mỗi ngƣời đàn ơng có 18 phol 18 phươk, đàn bà có 19 phol
19 phươk. Phol và phươk cũng tƣơng tự hồn, vía ở ngƣời Việt. Khái niệm kamuych
(ma) dùng để chỉ siêu linh tàng ẩn ở cây đa cổ thụ (kamuych dri), ở vƣờn quế
24


(kamuych qué)... và đặc biệt gắn liền với con ngƣời sau cái chết. Họ quan niệm ngƣời
chết bình thƣờng (chết già, chết vì ốm đau) sẽ hóa thành kamuych kađđah (ma lành);
cịn chết “ bất đắc kỳ tử ” (vì cọp bắt, ngã cây, đâm chém, sét đánh, chết đuối, chết lúc
mang thai hay khi đẻ) thì biến thành kamuych xấu (ma dữ). Con vật cũng có hồn nhƣ
con ngƣời.
Ngƣời Giarai cho rằng, khi sống, mỗi ngƣời đều có hồn (m’ngắt). Quan niệm về
cái chết cũng nhƣ thế giới ngƣời chết của ngƣời Giarai có nhiều nét giống quan niệm
của ngƣời Ê Đê. Ngƣời Ê Đê quan niệm con ngƣời có hồn và khái niệm hồn đƣợc mở
rộng cùng tín ngƣỡng vật linh: Mngăt, Yun, Yang17 [Ngô Đức Thịnh 1992: 229]..
Một, Mngăt là hồn vốn có, liền với xác đã đƣợc xác định hồn nào xác ấy. Khi
ngƣời ta ốm là do hồn bỏ xác “ đi chơi ” hoặc “ bị lạc ” đâu đó, phải làm lễ rƣớc hồn
(Lui mngăt) đón hồn về với xác. Hồn về với xác thì ngƣời hết ốm. Hồn nhập vào cơ

thể ở thóp (đung). Hồn ở trong đầu. Đƣờng của mạch máu chuyển động là đƣờng hồn
vận động trong ngƣời. Hồn theo mạch tay lên bàn tay và cứ thế, hồn lìa khỏi xác ở đầu
ngón tay.
Hai, Yun là hồn từ bên ngoài nhập vào xác trẻ sơ sinh trong lễ đặt tên, với lễ ma
yun (nhập hồn).
Ba, Yang là thần cũng nghĩa là hồn của một số vật nhƣ hồn chiêng, hồn ché, hồn
cây đa...
Cũng nhƣ ngƣời Giarai, ngƣời Ba Na tin rằng mỗi ngƣời có 3 hồn (mugol hay
bugol) và chúng chi phối cuộc sống hiện hữu của bản thân ngƣời đó. Hồn chính ở
chỏm tóc (bugol xốc choai). Hồn phụ ở trƣớc trán (bugol kpal) và ở thân thể (bugol
hadong). Qua mộng mị ngƣời ta còn cảm nhận đƣợc linh hồn đã kết thân với một thần
linh nào đó, nhận vị đó là cha hoặc anh em của mình để có thêm sức mạnh bản thân.
Hồn ở mỗi ngƣời, mỗi lứa tuổi mạnh yếu khác nhau. Những hồn yếu dễ bị lạc, dễ
bị ma quỷ bắt đi, nên những ngƣời có hồn yếu thƣờng hay bị ốm đau hơn những ngƣời

17

Có tƣ liệu khác cho rằng ngƣời Ê Đê có 3 linh hồn: m’gát, m’ngát, tleng hea

25


×