Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Lời nói đầu
Hiện nay Đảng và Nhà nớc ta đang triển khai thực hiện sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ
kỹ thuật vừa có trình độ lý luận chính trị, vừa có tay nghề vững vàng trực tiếp
tham gia lao động sản xuất là một nhu cầu cấp bách và đây cũng là mục đích,
phơng châm đào tạo của Trờng trung cấp nghề kinh tế kỹ thuật Miền Tây Nghệ
An.
Sau thời gian học tập lý thuyết ở trờng thì giai đoạn thực tập tốt nghiệp cuối
khoá là một bớc ngoặt lớn đối với mỗi học sinh. Giai đoạn này học sinh sẽ đợc
trực tiếp với thực tế sản xuất, làm quen với những tình huống nảy sinh từ cuộc
sống mà trong sách vở không có, mổ xẻ đi sâu hơn nữa những vấn đề đã có. Bắt
buộc mỗi học sinh phải vận dụng sáng tạo những kiến thức của mình đã học vào
thực tế.
Bản thân em với những kiến thức đã học đợc từ thầy cô Khoa Chăn nuôi -
Thú y Trờng trung cấp nghề kinh tế kỹ thuật Miền Tây, thì đợt thực tập tốt nghiệp
này có ý nghĩa rất to lớn trong bớc đờng lập nghiệp sắp tới, giúp em làm quen và
giải quyết những tình huống xẩy ra trong thực tế đối với nghề nghiệp cũng nh các
lĩnh vực liên quan. Từ đó đúc rút kinh nghiệm cho bản thân để dần trở thành cán
bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, vững vàng đáp ứng nh cầu
của xã hội nói chung và ngành chăn nuôi thú y nói riêng.
Nói đến ngành chăn nuôi, trớc hết phải kể đến ngành chăn nuôi lợn bởi tầm
quan trọng, phạm vi chăn nuôi, ý nghĩa thiết thực của thịt lợn rất to lớn.
Trong đó có chăn nuôi lợn nái sinh sản có một ý nghĩa hết sức quan trọng,
nhng trong thời kỳ nuôi con trên địa bàn thờng xẩy ra bệnh lợn con ỉa phân trắng.
Để góp phần hạn chế tác hại của bệnh lợn con ỉa phân trắng, đồng thời tìm
ra đợc phơng thuốc hay có giá trị kinh tế giúp bà con nông dân chủ động với công
tác chữa bệnh.
Trong đợt thực tập này em tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm đề tài: ''So
sánh hiệu quả điều trị giữa Streptomycin - thuốc nam đối với bệnh lợn con ỉa
phân trắng''
Trớc tiên em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo ở khoa Chăn nuôi - thú
y (đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị Thúy) đã nhiệt tình hớng dẫn giảng dạy, giúp
đỡ em hoàn thành đợc đề tài này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhng đây là lần đầu tiên em đợc trực tiếp nghiên
cứu một vấn đề mang tính khoa học chính xác nên không thể tránh khỏi những
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
sai phạm thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự thông cảm, chia sẻ và chỉ giáo của
các thầy cô.
Học sinh: Dơng Thị Huế
Phần I
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Công tác phục vụ sản xuất:
A. Điều tra về tình hình cơ bản:
I. Điều tra về điều kiện tự nhiên:
1. Vị trí địa lý:
Qua liên hệ và đợc sự tiếp nhận của xã Nghĩa Thắng, sau khi nhận đợc
Quyết định đi thực tập của nhà trờng em đã về thực tập tốt nghiệp tại xã Nghĩa
Thắng.
Xã Nghĩa Thắng là một trong 24 xã thuộc huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ
An. Sở dĩ em chọn nơi đây là điểm thực tập là vì đây dân c rất đa dạng có cả dân
tộc Thổ và ngời Kinh, và nơi có phong trào chăn nuôi lợn nái sinh sản. Hơn nữa
em muốn về xâm nhập thực tế để biết thêm về tình hình chăn nuôi, dịch bệnh...
tìm ra những thuận lợi và khó khăn trên địa bàn. Hy vọng sẽ ít nhiều giúp ích cho
bà con nhằm tăng trởng phát triển về ngành chăn nuôi nói riêng và kinh tế nói
chung để đa xã nhà đi lên phát triển cùng đất nớc.
Là một xã miền núi, có địa giới tơng đối phức tạp, phía Bắc giáp dòng sông
Hiếu uốn lợn chảy hiền hoà quanh năm, phía Tây giáp với xã Nghĩa Tân. Phía
Đông giáp với Phờng Quang Tiến Thị xã Thái Hòa, Phía Nam giáp xã Nghĩa
Tiến. có nhiều đồi núi khe suối, có dòng sông Hiếu chảy qua hàng năm đã bồi
đắp một lợng phùa sa lợi cho đất đai thêm phì nhiêu.
Bên cạnh địa hình thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng cho nhân dân trong xã
Nghĩa Thắng vẫn còn gặp không ít khó khăn.
Dòng sông Hiếu vừa là nguồn nớc tới tiêu vừa có nguồn lợi về thuỷ lợi
đồng thời theo dòng chảy dòng sông sẽ đa xác chết động vật, sản phẩm động
vật... mang mầm bệnh từ nơi khác đến đe phát sinh lây lan thành dịch bệnh.
2. Thời tiết khí hậu
Là một xã miền núi nhng Nghĩa Thắng cũng không nằm ngoài đặc điểm
chung với thời tiết khí hậu trên địa bàn Nghệ An, hoàn toàn nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa.
Cụ thể các mùa nh sau: (Khí hậu chung hàng năm)
- Mùa đông: Có gió mùa Đông Bắc (Từ tháng 11 năm trớc đến tháng 3
năm sau). Đây là mùa ít ma, lợng ma trung bình dới 100mm, nhiệt độ trung bình
ở các tháng 12 - tháng 2 dới 20
0c
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
- Mùa hè: Trùng với gió mùa Tây nam (gió Lào) từ tháng 5 đến tháng 9.
Đây là mùa nắng nóng, ma nhiều, lợng ma bình quân đạt trên 100mm, nhiệt độ
trung bình trên 32
0
C.
Nh vậy ta thấy ở đều thể hiện sự tơng phản rõ rệt giữa hai mùa gió Đông
Bắc và Tây Nam.
- Mùa Thu trời nắng nóng ma nhiều (tuy nắng có phần dịu đi nhiều so với
mùa hè nhng đây lại là cao điểm của mùa ma, đồng thời đã bắt đầu xuất hiện
những đợt gió mùa Đông Bắc mang không khí lạnh tràn về. Nắng - Ma nhiều, độ
ẩm không khí cao nên đây cũng là mùa có dịch bệnh.
- Mùa Xuân:Mùa chuyển tiếp sang lạnh, thờng có ma phùn... Độ ẩm trung
bình hàng năm trên 80%, thấp nhất không dới 70%; cao nhất từ 90 - 92%.
Với đặc điểm thời tiết, khí hậu ma nắng thất thờng nh trên đã làm cho
mầm bệnh có điều kiện tồn tại phát triển, gây bệnh và lây lan dịch bệnh.
3. Ruộng đất:
Nghĩa Thắng có tổng diện tích dất là 21km
2
, chủ yếu là đất đó Bazan và đất
bồi ven sông Hiếu, trong đó:
- Diện tích dất canh tác chiếm 570 ha.
- Đất nông nghiệp 300 ha
- Đất thổ canh thổ c chiếm 350 ha.
- Đất chuyên dụng 120 ha.
Còn lại là đồi núi hầu nh đã đợc giao khoán cho từng hộ gia đình trồng
rừng và canh giữ. Vì vậy nên đất chăn nuôi, chăn thả gia súc gần nh không có, trừ
những hộ có rừng đồi thì chăn thả thoải mái, còn lại phần đã đều nhốt gia súc ở
trong chuồng rồi kiếm rau, cỏ cho ăn, hoặc chăn thả ở hai bên vệ đờng lớn - nhỏ,
dọc các bờ sông suối. Đây cũng là cơ hội để mầm bệnh có cơ hội tiếp xúc lây lan
nhanh làm ảnh hởng không nhỏ đến sức khoẻ của đàn gia súc cũng nh thiệt hại về
kinh tế của bà con trong xã.
II. Điều tra về tình hình sản xuất:
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
1. Tình hình sản xuất chung:
Trong những năm gần đây Nhà nớc có chủ trơng giao khoán đất rừng cho
ngời lao động. Nghĩa Thắng chủ yếu là sản xuất cây nông nghiệp . Một năm với 2
vụ lúa nớc chính là Đông Xuân và Hè thu. Ngoài ra cây hoa màu nh ngô, lạc,
đậu, khoai... cũng đợc bà con ở đây trồng đại trà.
Mấy năm lại đây đã có nhà máy đờng liên doanh NAT&L cách địa bàn xã
không xa nên bà con tập trung đẩy mạnh sản xuất và trồng cây mía cho năng suất
bình quân từ 60 - 70 tấn/ha.
Các tuyến đờng giao thông chính ở xã gần nh 100% đã đợc bê tông hoá.
Xã có 1 Bu điện văn hoá xã do Nhà nớc hỗ trợ các xã miền núi; Có 01 trạm y tế
đợc xây dựng khang trang với 01 Bác sỹ và 5 y tá có chuyên môn nghiệp vụ tốt
hoạt động nhiệt tình với tinh thần ''Lơng y nh từ mẫu''.
Toàn xã có 01 trờng Mầm non, 01 trờng cấp 1 và 01 trờng cấp 2, với đội
ngũ giáo viên có trình độ, nhiệt tình giảng dạy.
Nghĩa Thắng có tổng số hộ là 1250 hộ với 6.5000 nhân khẩu, trong đó có
hơn 3000 lao động chính tham gia sản xuất lao động trong nhiều ngành nghề
khác nhau, làm ra của cải vật chất nhằm xây dựng , ổn định đời sống vật chất của
từng hộ nói riêng và phát triển kinh tế xã nhà nói chung.
2. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt:
Là một xã miền núi nên cây trồng ở đây khá đa dạng. Diện tích lúa nớc
không nhiều, vì vậy cây hoa màu và cây công nghiệp ở đây cũng đợc bà con chú
trọng sản xuất. Một năm có 2 vụ lúa nớc chính là vụ Đông xuân và vụ Hè thu.
Phần vì phong tục tập quán từ xa nhng nguyên nhân chính có lẽ là do thời tiết khí
hậu, năm thì nắng nóng, hạn hán kéo dài nên thiếu nớc sản xuất. Năm thì ma
nhiều lũ lụt nớc ngập úng hết ruộng đất và cây hoa màu. Cây lơng thực nh ngô,
khoai, đậu, lạc... chủ yếu đợc trồng ở dải đất bãi hai bên bờ sông. Còn cây công
nghiệp cũng đợc bà con trồng nhiều nhng không tập trung đồng loạt mà chủ yếu
là trồng lẻ tẻ theo từng nơi, từng hộ gia đình (cam, quýt, cà phê) nên hiệu quả
kinh tế cũng cha đợc cao lắm do giá bán của đầu ra một phần.
Ngoài trồng trọt nhân dân trong xã còn chịu khó tận dụng thời gian lao
động d thừa vào sản xuất chăn nuôi nhằm tận dụng tối đa sản phẩm phụ của
ngành trồng trọt và các điều kiện sẵn có nâng cao đời sống năng suất lao động.
3. Tình hình sản xuất chăn nuôi:
Nhận định đợc tầm quan trọng của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp,
ngoài việc cung cấp thực phẩm cho nhân dân, ngành chăn nuôi còn cung cấp sức
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
cày kéo, phân bón cho ngành trồng trọt, tận dụng đợc các phụ phẩm của ngành
trồng trọt để không lãng phí nên bà con ở đây đã không ngừng phát triển chăn
nuôi.
3.1. Tình hình chăn nuôi lợn:
Qua điều tra đàn lợn ở địa phơng trong 3 năm qua tôi thu đợc kết quả nh
sau (2007 - 2008 - 2009).
Năm Tổng đàn
Cơ cấu đàn
Lợn nái Lợn đực giống Lợn thịt
Số con % Số con % Số con %
2007 1800 400 22 5 0,3 1395 77,5
2008 2000 540 27 3 0,15 1457 72,8
2009 2200 750 34,1 2 0,1 1448 65,8
Bảng 1: Kết quả điều tra về đàn lợn qua 3 năm (2007 - 2009)
Qua điều tra ở bảng trên ta thấy số lợn nái sinh sản hàng năm có tăng lên
đáng kể. Có lẽ là do ngời dân thấy đợc lợi ích của việc chăn nuoi lợn nái. Tuy bớc
đầu giá lợn giống có thể đắt hơn lợn thịt nhng sau đó lợn sẽ chu cấp giống cho bà
con đem lại nguồn lợi nhuần kinh tế khá cao (mấy năm gần đây giá lợn con giống
( lợn thịt F
1
ở
Nghĩa Đàn khá cao từ 26 - 28000 đồng/kg hơi ) so với chăn nhuôi
lợn thịt thì chăn nuôi lợn nái đem lại cho bà con một nguồn thu ổn định đáng kể.
Mặt khác thấy đợc sự thuận tiện của việc thụ tinh nhân tạo kịp thời (vì nhiều ngời
có thể làm đợc sau khi đã có tinh) không đợc phụ thuộc hoàn toàn vào đực giống,
trọng lợng sơ sinh F
1
ổn định, tránh lây lan đợc các bệnh truyền nhiễm do nhảy
trực tiếp nên số lợng đực giống quá nhiều (5 con) trên địa bàn là không cần thiết.
Vì thế đã để cung và cầu cân bằng thì số lợng đực giống đã giảm dần trong nhân
dân theo từng năm.
Đàn lợn thịt tăng dần qua 3 năm, tuy nhiên số lợng cha phải là lớn, cha
đáp ứng đợc nhu cầu thực phẩm trong nhân dân. Sở dĩ số lợng tăng không đáng
kể là do chăn nuôi ở địa bàn những nhà có kinh nghiệm chú trọng chăn nuôi ngời
ta nuôi lợn nái không tính đến còn những hộ còn lại đa số chỉ mang tính chất tận
dụng với quy mô sản xuất nhỏ (hộ gia đình) mặt khác giá cả thị trờng đối với lợn
thịt lại thờng biến động, giảm sút thờng lên xuống thất thờng . Trong khi đó lợn
con giống thì đắt, thức ăn trên thị trờng giá cao, nếu tính chi ly sau khi xuất 01
con lợn nuôi theo kiểu tận dụng thì ngời chăn nuôi không có lãi, thậm chí còn lỗ.
Từ đó gây tâm lý hoang mang chán nản trong bà con.
Vì các lý do đã phân tích ở trên nên ngành chăn nuôi lợn cha đợc chú trọng
đầu t và quan tâm đúng mức trên địa bàn xã Nghĩa Thắng.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
3.2. Tình hình chăn nuôi trâu bò:
Ngoài việc chăn nuôi lợn ngời dân trên địa bàn còn không ngừng phát
triển chăn nuôi trâu bò. Chăn nuôi trâu bò ngoài việc cung cấp sức cày kéo, phân
bón còn phải góp một phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của bà con.
Sau đây là kết quả điều tra về chăn nuôi trâu bò ở địa phơng từ năm 2007 -
2009:
Năm Tổng đàn
Cơ cấu đàn
Trâu Bò
Con đực Con cái Con đực Con cái
Con % Con % Con % Con %
2007 1000 130 13 220 22 250 25 400 40
2008 1200 170 14,2 250 20,8 300 25 480 40
2009 1600 165 10,3 283 17,8 260 16,3 890 55,6
Bảng 2: Kết quả điều tra đàn trâu - bò qua 3 năm từ 2007 - 2009.
Nhìn vào bảng kết quả điều tra đàn trâu,bò toàn xã trong 3 năm gần đây ta
thấy tổng đàn trâu, bò ngày càng đợc phát triển và tăng lên về số lợng. Nhng nhìn
chung ta cũng thấy số lợng con cái nhiều hơn con đực và số bò đợc nuôi và phát
triển mạnh hơn trâu.
Nguyên nhân thứ nhất là do nhu cầu về sức cày kéo ngày càng giảm dần, vì
diện tích đất canh tác không thay đổi. Mặt khác hiện nay cùng với cả nớc, HTX
đang đi dần vào cơ khí hoá nông nghiệp, máy móc đang dần đợc đa vào áp dụng
trong đời sống thay thế cho sức cày kéo của trâu bò. Vì vậy việc căhn nuôi nhiều
con đực là d thừa không cần thiết nên số lợng trâu bò đực ngày càng đợc bà con
giảm dần trong chăn nuôi, thay thế vào đó bà con đã chuyển sang chăn nuôi trâu
bò cái sinh sản, đặc biệt là số lợng đàn bò cái tăng lên rõ rệt, nhằm cải tạo đàn bò
vàng Việt Nam theo chủ trơngc ủa Nhà nớc ''Sind hoá đàn bò''. Mặt khác việc áp
dụng kỹ thuật thụ tinh nhận tạo tốt đã đem lại kết quả nh mong muốn, đã cải tạo
đợc đàn bò đáp ứng đợc nhu cầu về con giống cho bà con (việc mà đối với con
trâu cái không thể làm đợc, thụ tinh nhân tạo và sinh sản theo ý muốn) đem lại lợi
ích kinh tế thiết thực. Ngoài ra Nghĩa Đàn còn là trọng điểm của tỉnh Nghệ An về
chăn nuôi bò sữa. Đàn bò sữa ngoại đang không ngừng tăng lên ở huyện Nghĩa
Đàn do Công ty cổ phần thực phẩm sữa TH làm chủ đầu t.
3.3. Tình hình chăn nuôi giai cầm:
Ngoài việc chăn nuôi trâu bò, lợn phải kể đến ngành chăn nuôi gia cầm.
Mấy năm gần đây ngành chăn nuôi giai cầm trong xã khá phát triển, chủ yếu là
chăn nuôi gà, bởi hiện nay nhu cầu tiêu dùng của ngời dân có xu hớng tăng về
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
mặt chất lợng thực phẩm mà thịt gà là một loại thực phẩm giàu chất dinh dỡng.
Hơn nữa việc chăn nuôi gà đem lại cho ngời dân hiệu quả kinh tế khá cao với số
vốn đầu t ít, kỹ thuật nuôi lại đợc phổ biến rộng rãi với các loại thức ăn tận dụng
giàu chất dinh dỡng, nhng chủ yếu bà con chăn nuôi gà vẫn chăn nuôi theo từng
hộ gia đình .
Việc tiêm phòng dịch bệnh cho đàn gia cầm cha triệt để nên cũng gây
không ít thiệt hại cho ngời chăn nuôi (cũng có một số hộ đã đi vào chăn nuôi gia
cầm theo quy mô lớn ở trên địa bàn nhng không đáng kể).
4. Điều tra về công tác thú y
4.1. Về tổ chức mạng lới thú y
Mạng lới thú y ở xã gồm có: 1 Ban thú y chăn nuôi gồm có 01 Trởng Ban
và 03 cán bộ Thú y có Trình độ trung cấp phụ trách trong toàn xã.
Hàng năm Ban thú y xã đi nhận vacxin từ trạm thú y huyện về tiêm phòng
cho đàn gia súc, gia cầm.
Lịch tiêm phòng hàng năm nh sau:
- Vụ xuân từ ngày 15/3 đến hết ngày 30/4
- Vụ thu từ ngày 20/8 đến hết ngày 30/9
Vacxin tiêm phòng chủ yếu là tụ huyết trùng lợn, tụ huyết trùng trâu bò,
dịch tả lợn. Gia cầm tiêm phòng vắc xin H5N1và một số loại vắc xin khác nh Nu
cát xơn, Tụ huyết trùng gia cầm..
Ngoài ra Ban thú y xã còn hoạt động tích cực tham gia vào các công tác
nh chữa trị bệnh, phối giống, tẩy giun sán... cho đàn gia súc, gia cầm của bà con
trong xã.
4.2. Công tác phòng chống dịch
Kết quả tiêm phòng cho đàn lợn từ năm 2007-2009:
Năm
Tổng đàn
Loại vác xin
Tụ huyết trùng Dịch tả
Con % Con %
2007 1800 1080 60 1080 60
2008 2000 1300 65 1300 65
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
2009 2200 1584 72 1584 72
Bảng 3: kết quả tiêm phòng đàn lợn qua 3 năm 2007 - 2009
Qua bảng trên ta thấy: số gia súc đợc tiêm phòng hàng năm tăng lên không
đáng kể. Năm 2007 tiêm phòng dịch tả và tụ huyết trùng tăng 200 con tăng 5%
với năm 2006, năm 2009 tăng 284 con so với năm 2008 sở dĩ có đợc sự tham gia
đó là do sự vận động tích cực của các đồng chí trong mạng lới thú y, hơn nữa
trình độ dân trí ngày càng đợc nâng cao, bà con đã nhận thức đợc việc vệ sinh
phòng bệnh là rất cần thiết. Việc tiêm phòng sẽ hạn chế đợc dịch bệnh xảy ra,
giảm thiệt hại về của cải kinh tế do dịch bệnh gây ra vì thế tỷ lệ tiêm phòng ngày
một cao hơn so với các năm trớc.
Song song với việc tiêm phòng cho đàn lợn thì đàn trâu bò cũng đợc tiến
hành tiêm. Sau đây là kết quả tiêm phòng cho đàn trâu bò ở địa bàn xã Nghĩa
Quang từ năm 2007 - 2009:
Năm
Tổng đàn
Loại vac xin
Tụ huyết trùng Lở mồm long móng
Con % Con %
2007 1000 620 62 620 62
2008 1200 804 67 804 67
2009 1600 1168 73 1168 73
Bảng 4: Kết quả tiêm phòng cho đàn trâu bò qua 3 năm 2007 - 2009
Cũng nh việc tiêm phòng cho đàn lợn, việc tiêm vac xin cho đàn trâu bò
cho toàn xã mỗi năm một tăng lên tính theo tổng đàn và số lợng % thì không
đáng kể, tuy nhiên đây vẫn là dấu hiệu đáng mừng. Bởi các năm trớc mùa tiêm
phòng có xóm chỉ tiêm đợc 7-12 con chiếm một tỷ lệ phần trăm rất thấp nhng vừa
qua em tham gia cùng ban thú y đi tiêm phòng cũng chính xóm đó đã tiêm đạt
94% tổng đàn trâu bò của xóm. Nguyên nhân dẫn đến kết quả này là do ban thú
y tích cực đi từng hộ gía đình, mặc dù dân ở xa rải rác nhng ban thú y xã đã
không quản khó khăn đi từng hộ vừa tiêm vừa làm công tác tuyên truyền vận
động bà con nên kết quả thu đợc đã khá cao.
Mặc dù vậy nhng việc tiêm phòng trong toàn xã vẫn cha đợc cao lắm, bởi
một số hộ cha nhận thức đợc tầm quan trọng của việc phòng bệnh nhất là các hộ
dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân tộc Thổ). Không phải là bà con không muốn
tiêm mà nhiều nhà 5-6 con trâu (bò) nuôi theo kiểu tận dụng mà giá tiêm phòng
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
mỗi mũi là 2000đ nên nhièu bà con không tiêm vì không có tiền mặt.... đó cũng
là một lý do làm ảnh hởng đến kết quả việc tiêm phòng.
4.3. Tình hình dịch bệnh:
Mỗi năm xã vẫn triển khai 2 đợt tiêm phòng cho đàn gia súc. Nhng qua
điều tra và thống kê số liệu cho thấy việc tiêm phòng không đồng loạt, triệt để,
chỉ tiêm đợc một vài loại vác xin trong rất nhiều loại bệnh không đợc tiêm phòng
nên tình hình dịch bệnh vẫn xẩy ra đã gây thiệt hại lớn về kinh tế của bà con, ảnh
hởng không nhỏ đến công tác chính trị xã hội trong xã.
Tình hình dịch bệnh của đàn lợn từ năm 2007 - 2009:
Năm
Tổng
đàn
Tụ huyết trùng Phó thơng hàn Đóng dấu Lepto
ốm
Chết
ốm
Chết
ốm
Chết
ốm
Chết
Con % Con % Con % Con % Con % Con % Con % Con %
2007 1800 540 30 18 3,3 4 0,2 4 100 130 7,22 28 21,5 63 3,5 37 58,7
2008 2000 500 25 14 2,8 0 0 0 0 153 7,65 46 30,06 52 2,6 18 34,6
2009 2200 418 19 9 2,1 0 0 0 0 97 4,4 32 32,9 29 1,32 3 10,34
Bảng 5: Tình hình dịch bệnh ở đàn lợn qua 3 năm (2007 - 2009)
Nhìn vào bàng điều tra ta thấy số lợn mắc bệnh so với tổng đàn ở xã Nghĩa
Thắng là khá cao, đặc biệt là bệnh tụ huyết trùng và bệnh xoắn khuẩn Lepto.
Đối với bệnh tụ huyết trùng tỷ lệ mắc bệnh cao là do phần lớn lợn mắc
bệnh đều rơi vào những con lợn của những hộ không tiêm phòng. Tuy nhiên tỷ lệ
chết lại không đáng kế, đó là do bệnh đợc phát hiện và điều trị kịp thời (so với
bệnh Lepto thì bệnh tụ huyết trùng sẵn thuốc, dễ điều trị và giá thành điều trị
cũng thấp hơn nhiều). Còn bệnh phó thơng hàn thì năm 2007 tỷ lệ mắc bệnh là rất
thấp, chỉ có 4 con, chiếm 0,2%, sang 2 năm 2008 và 2009 thì đã không phát hiện
thấy một trờng hợp nào mắc bệnh này trên toàn xã.
Đối với 2 bệnh đóng dấu và Lepto thì không đợc tiêm phòng nên tỷ lệ mắc
bệnh (nhất là đối với bệnh xoắn khuẩn Lepto). Bởi vì bệnh này cũng mang tính
lây lan mạnh mà trên thị trờng hiện có nhiều loại thuốc điều trị nhng hiệu quả
điều trị không cao mà giá thành điều trị lại lớn. Nếu điều trị khỏi bệnh đối với
những con bệnh nhỏ thì có khi tiền điều trị bằng thậm chí hơn cả tiền lợn.
Tuy nhiên so với 2 loại bệnh đã phát động tiêm phòng (tụ huyết trùng và
dịch tả) thì tỷ lệ tiêm phòng đạt khá cao, tỷ lệ chết là thấp. Cũng qua đây em xin
đợc đề nghị các quý cấp trên trong ban ngành hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến
việc vệ sinh phòng bệnh, phát động tiêm vác cin thêm các loại bệnh nh: Đóng
dấu, Lepto, phó thơng hàn để đàn lợn trên địa bàn không bị bệnh hoành hành nh
hiện nay.