Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tìm hiểu thể loại phim ngắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 158 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGƠN NGỮ

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2012

TÌM HIỂU THỂ LOẠI PHIM NGẮN

Sinh viên thực hiện:

Chủ nhiệm: Nguyễn Tiến Phát, ngành Văn học, khoá 2011 – 2015
Thành viên: Bùi Thiên Huân, ngành Văn học, khoá 2011 – 2015

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Hồ Khánh Vân
Chuyên ngành Lí luận Văn học
Khoa Văn học và Ngơn ngữ
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012


MỤC LỤC

TĨM TẮT CƠNG TRÌNH ............................................................................. 1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: KHÁI NIEM VÀ LỊCH SỬ PHIM NGẮN ............................. 9
1.1. Khái niệm phim ngắn ................................................................................. 9
1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của phim ngắn .............................................. 22
1.3. Phân loại phim ngắn ................................................................................ 31
CHƯƠNG 2 : ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT CỦA PHIM NGẮN ......... 75


2.1. Tính tối giản ............................................................................................ 75
2.2. Tính bất ngờ ............................................................................................ 91
2.3. Tính mở ................................................................................................. 108
CHƯƠNG 3: MỘT VÀI PHÁC THẢO VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHIM
NGẮN .......................................................................................................... 116
3.1. Trên thế giới .......................................................................................... 117
3.2. Tại Việt Nam .......................................................................................... 135
KẾT LUẬN ................................................................................................. 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 149


1

TĨM TẮT CƠNG TRÌNH
Tìm hiểu thể loại phim ngắn là một cơng trình nghiên cứu nhằm giới thiệu và góp
phần định hình thể loại này trong nền điện ảnh thế giới. Đề tài cung cấp một cái nhìn bao
quát về phim ngắn qua nhiều thời kỳ và sự liên đới của nó đối với các thể loại khác cùng
như những ảnh hưởng của thể loại này với xã hội. Sau đó, cơng trình đề xuất một số cách
nhìn và nhận định đối với bản thân thể loại này bằng cách thử phân chia, định danh một
số tính chất của phim ngắn. Và cuối cùng là mở ra một cái nhìn sơ lược về toàn cảnh của
phim ngắn hiện đại, với những hoạt động gắn liền với nó như sản xuất, trình chiếu và
phát hành. Nói chung, Tìm hiểu thể loại phim ngắn sẽ bước đầu khơi mở những hướng
tiếp cận khả dĩ đối với một thể loại vốn đã tồn tại từ rất lâu trong nền điện ảnh thế giới
nhưng còn khá mới mẻ đối với cả các nhà làm phim lẫn khán giả Việt Nam này.


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Điện ảnh là một loại hình nghệ thuật hết sức đặc biệt. Mơn nghệ thuật thứ bảy này
được gọi môn nghệ thuật tổng hợp vì trong bản thân một tác phẩm điện ảnh sử dụng hầu
hết những chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác trước nó: thanh âm của âm nhạc,
màu sắc của hội họa, hình khối của kiến trúc, đường nét của điêu khắc, hình thể, diễn
xuất của sân khấu và những nét đẹp phi vật thể của thi ca. Tuy nhiên, điện ảnh vẫn tự
phát triển cho mình một hướng đi riêng, tạo nên những giá trị riêng trong thế giới thẩm
mĩ của con người, và như bao loại hình nghệ thuật khác, điện ảnh cũng có cách thức của
riêng mình để phải phản ánh và tái tạo cuộc sống.
Phim ngắn, một trong những thể loại của điện ảnh, cũng mang đầy đủ những đặc
trưng của bộ môn nghệ thuật này. Cùng với sự phát triển về tư duy nghệ thuật, thị hiếu
thẩm mĩ, và với nhu cầu thưởng thức ngày càng cao, phim ngắn cũng đang dần hoàn
thiện mình, trở thành một thể loại nghệ thuật thực sự, mang những đặc tính riêng biệt và
tìm kiếm một lối kể riêng về thế giới.
Khái niệm phim ngắn tuy đã xuất hiện từ lâu, chúng ta nghe đã quen tai, nhưng vấn
đề tiếp xúc với thể loại này từ góc nhìn lý luận chun mơn ở Việt Nam vẫn cịn mơ hồ
và mờ nhạt. Chính vì thế, chúng tơi chọn đề tài “Tìm hiểu về thể loại phim ngắn” như
một cách thức để nghiên cứu về phim ngắn dưới góc nhìn lý luận và khoa học hơn, bóc
tách dần những bản chất và những đặc trưng riêng biệt của phim ngắn nhằm định hình thể
loại này giữa rất nhiều những thể loại điện ảnh khác.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trước sự phát triển của các loại hình nghệ thuật nghe–nhìn, trong đó, nổi
bật nhất là điện ảnh, việc nghiên cứu cụ thể các thể loại riêng biệt là rất cần thiết. Tuy
nhiên, cả trong và ngồi nước, các cơng trình nghiên cứu, xuất bản, đa số chỉ nghiên cứu
điện ảnh nói chung. Riêng về thể loại phim ngắn, phần lớn chỉ dừng lại ở phương diện kỹ
thuật làm phim.Ở Việt Nam, trước tình hình bùng nổ của các dự án điện ảnh, đã có nhiều
cuộc thi phim ngắn được tổ chức, khơi dậy phong trào làm phim ngắn trong nước. Tuy

vậy lượng tài liệu hỗ trợ cịn khá ít ỏi. Nếu nói riêng về mảng nghiên cứu thì vẫn chưa có
nhiều những cơng trình chun mơn đi sâu tìm tịi loại hình nghệ thuật này. Chính vì thế
nên sau đây, chỉ xin giới thiệu một số tài liệu tiếng anh mà chúng tôi đã thu thập được.
Thật ra, hiện nay trên thế giới cũng có rất ít tài liệu nghiên cứu về thể loại phim
ngắn. Khơng cịn nhiều tài liệu tập trung nghiên cứu thể loại này nữa. Trong từ điển điện
ảnh The Film Encyclopedia của Ephraim Katz, đã sớm có định nghĩa về phim ngắn với
nhiều đặc tính khác nhau, chẳng hạn như đó có thể là nơi thử nghiệm các tài năng nghệ
thuật mới hay những kỹ thuật điện ảnh đặc biệt, hay đó cũng chính là nơi biểu lộ những
nét đẹp nghệ thuật hay điểm nhìn xã hội. Tiếp theo đó, chúng tơi cịn tìm thấy một số bài
báo bàn về những vấn đề xoay quanh phim ngắn dưới góc nhìn thể loại, chẳng hạn như
Rebecca Davies trong bài viết “The long history of short films” đăng trên tờ The
Telegraph, Reinhard W. Wolf với bài“What is cinema – what is short film” được phổ
biến trên website Das Kurfilmmagazin, Robert P. Simon với“What is a short film?”trên
trang Info Guru (Catalogs.com) hay Suchandrika Chakrabarti cùng bài luận “Short films:
An art form in themselves” trên Spiked-online. Mỗi bài viết lần lượt đem đến cho chúng
tơi những góc nhìn khác nhau về thể loại này, dần mở ra một hình dung cụ thể về tình
hình nghiên cứu phim ngắn trên thế giới.


4

Tiếp theo, trong phạm vi khảo sát tài liệu, chúng tơi có tham khảo được quyển In
short: A Guide to Short Film-making in Digital Age của Eileen Elsey and Andrew Kelly
được phát hành bởi Viện phim Anh (British Film Institude), in lần đầu năm 2002 và tái
bản vào 2005 và 2010 tại London. Đây được xem là một trong những tài liệu đầu tiên
nghiên cứu phim ngắn dưới cái nhìn học thuật, xem đây như một thể loại điện ảnh độc
lập, cần nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở việc giới thiệu vị trí của phim
ngắn trong lĩnh vực điện ảnh nói chung rồi sau đó tập trung khai thác những cuộc phỏng
vần đối với các nhà làm phim. Trong những bài phỏng vấn đó, tác giả có định hướng để
các đạo diễn đưa ra những luận giải về bản thân thể loại này. Cuối cùng, quyển sách đi

đến những lí giải và phân tích về mối quan hệ giữa nhà làm phim trong bối cảnh hiện với
những nguồn tài trợ và các kênh thông tin, quảng bá, phát hành. Nhìn chung, đây là tài
liệu sâu sát nhất về quá trình sản xuất phim ngắn. Bên cạnh quyển này chính là cuốn
Producing and Diredting the Short film and Video của Peter W. Dea và David K. Irving
được xuất bản bởi Focal Press, cũng viết khá tốt về q trình này. Ngồi ra là hang loạt
những sách chỉ đơn thuần hướng dẫn một cách tổng quát cách làm phim ngắn dành cho
những nhà làm phim lần đầu tiên muốn thử sức sản xuất một bổ phim ngắn như Making
Short Films: The Complete Guide from Script to Screen của Clifford Thurlow được in
bởi Berg Publishers năm 2008 hay How Not to Make a Short Film- Secrets from a
Sundance Programmer của Roberta Marie Munroe.
Về cách nghiên cứu phim ngắn dưới góc nhìn kỹ thuật xây dựng kịch, chúng tơi có
tiếp cận một trong những tài liệu tiêu biểu nhất. Đó là quyển sách cảu hai tác giả Pat
Cooper Ken Dancyger mang tên Writing the short film và tài liệu của UNESCO với tên
gọi Script writing for short films–Reports and Papers on Mass Communication của James
A. Beveridge, được viết vào năm 1969.
Cuối cùng là những cơng trình nghiên cứu dưới dạng thống kê vào khảo sát từ
lượng phim được sản xuất cho tới những nguồn quỹ tài trợ cho hoạt động sản xuất của


5

thể loại này. Tài liệu sớm nhất mà chúng tôi được tiếp cận chính là một tiểu luận của Paul
Léglise viết cho UNESCO vào năm 1960 với tựa đề: Methods of Encouraging the
Production and Distribution of Short Films for Theatrical Use (Documentes and Films
on art, science and Culture for Commercial Exhibition). Trong những năm gần đây thì có
một số các cơng trình như củaEmma Blomkamp với Framming Short Film: Cultural
Nationalism and Economic Rationalismin New Zealand Film Policy hay Jason Beaudry,
Jennifer Chen và Shane Smith với Short Film Research Study.
Vốn là một thể loại có bề dày lịch sử, phim ngắn ít nhiều đã được quan tâm khảo sát
như một trong những đối tượng quan trọng của nghệ thuật điện ảnh. Trong phạm vi đề tài

này, chúng tơi sẽ rà sốt lại lịch sử thể loại, đồng thời thử phân loại phim ngắn dựa trên
một số tiêu chí nhất định. Bên cạnh đó, chúng tơi sẽ đưa ra một vài kiến giải về đặc trưng
của thể loại, xác định những thủ pháp nghệ thuật của phim ngắn. Cuối cùng, cơng trình sẽ
có vài nét phác họa đối với diện mạo và q trình sản xuất của phim ngắn trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu cụ thể phim ngắn dưới góc nhìn thể loại, với đầy đủ các đặc trưng
của một loại hình nghệ thuật độc lập, để từ đó cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng
qt về thể loại phim ngắn vẫn cịn khá mới mẻ này, đồng thời làm rõ những đặc điểm
của phim ngắn, đặc biệt là ở phương diện kịch bản, trong mối tương quan với thể loại
truyện ngắn của văn học.


6

3.2. Nhiệm vụ
-

Làm rõ được khái niệm phim ngắn và phân biệt thể loại phim ngắn với các thể loại
có nét tương đồng khác.

-

Nghiên cứu được những đặc trưng và tính chất của thể loại phim ngắn về mặt nội
dung lẫn mặt hình thức.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

-


Phương pháp loại hình: nghiên cứu phim ngắn dưới góc nhìn thể loại với những
đặc điểm riêng biệt.

-

Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: vận dụng lý thuyết thi pháp học nhằm làm
rõ các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong các tác phẩm phim ngắn.

-

Phương pháp so sánh: đặt kịch bản phim ngắn trong mối tương quan với các thể
loại khác của điện ảnh như phim truyện dài và thể loại truyện ngắn của văn học.

-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đặt phim ngắn của điện ảnh trong mốt liên hệ
với các bộ môn nghệ thuật khác như văn học, kịch nghệ, qua đó, thử vận dụng
những lý thuyết trong các ngành nghệ thuật ấy vào quá trình nghiên cứu thể loại
này.
5. Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu thể loại phim ngắn trong những giai đoạn đầu tiên của

lịch sử phim ngắn cho đến giai đoạn hiện nay, vận dụng những kiến thức căn bản về điện
ảnh để phân tích phim ngắn dưới góc nhìn nghệ thuật.


7

6. Đóng góp của đề tài
-


Hỗ trợ các nhà làm phim có thêm cơ sở lý luận vững chắc để tự tin hơn khi thử sức
với thể loại phim ngắn.

-

Giúp giới phê bình cũng như các tầng lớp đối tượng tiếp nhận có thêm tri thức để
thẩm thấu thể loại phim ngắn một cách tinh tế và sâu sắc hơn.

-

Giới thiệu một số tác phẩm phim ngắn có giá trị của nền điện ảnh Việt Nam và thế
giới.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Là một cơng trình nghiên cứu mang tính tổng quan về một thể loại trước đây chưa

được tìm hiểu kỹ lưỡng và sâu sát tại Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
-

Giúp giải đáp một số thắc mắc về chuyên môn của những người có quan tâm đến
phim ngắn và có nhu cầu thưởng thức cũng như sản xuất phim ngắn.

-

Giúp tháo gỡ một vài hiểu lầm trong vấn đề về khái niệm, về tên gọi… định hình
và khơi phục ngun mẫu một số hiểu biết chính thống về điện ảnh.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần dẫn nhập, đề tài cịn có 3 phần sau:


-

Chương 1: Khái niệm và lịch sử phim ngắn
Chương này gồm 69 trang, từ trang 13đến trang 81.


8

-

Chương 2:Đặc trưng nghệ thuật của phim ngắn
Chương này gồm 43 trang, từ trang 82 đến trang 124.

-

Chương 3: Một vài nét phác thảo về tình hình phát triển của phim ngắn
Chương này gồm 32 trang, từ trang 125 đến trang 156.


9

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ PHIM NGẮN
1.1. Khái niệm phim ngắn
1.1.1. Định nghĩa phim ngắn
Phim ngắn (short films) vốn có một lịch sử phát triển dài và nhiều thăng trầm. Thậm
chí đến ngày nay, thể loại này vẫn chưa có được bất kỳ một định nghĩa nào rõ ràng và
thống nhất. Được đặt trong mối tương quan với phim truyện (feature films), người xem
thường hình dung phim ngắn một cách hết sức chung chung. Nếu như một phim truyện
thơng thường có độ dài tối thiểu nằm trong khoảng một giờ đồng hồ thì thời lượng của

một phim ngắn thường được cho là sẽ phải thấp hơn độ dài đó, nghĩa là từ 60 phút đổ
xuống. Nhưng rất ít người chấp nhận quy chuẩn này bởi nó hết sức mơ hồ, thiếu rạch ròi.
Nếu phân chia một cách cứng nhắc như vậy thì chỉ cần hơn kém vài phút, một phim ngắn
có thể trở thành phim truyện và ngược lại.Chính vì thế, việc xác định chính xác thời
lượng cho hai thể loại này là khá phức tạp. Tuy nhiên, các nhà làm phim lại có một giải
pháp hết sức đơn giản, đó chính là khi xác định sẽ sản xuất một bộ phim ngắn hay phim
truyện, họ thường lựa chọn những “khung” thời lượng phổ biến của từng thể loại để tránh
sự nhập nhằng trong công tác quảng bá và trình chiếu. Nếu như thời lượng phổ biến ấy
trong phim truyện là khoảng 90 phút thì trong phim ngắn thường được cắt giảm từ dưới
60 phút xuống còn khoảng 45 phút, nghĩa là bằng một phần hai phim truyện, một khoảng
cách lí tưởng đủ để khu biệt hai thể loại này. Hiện nay, trong các ấn phẩm nghiên cứu,
xuất bản về phim ngắn, chúng ta dễ thấy xuất hiện rất nhiều cách phân định dung lượng
của thể loại này, nhưng tập trung thành 3 xu hướng chính. Thứ nhất, định nghĩa phim
ngắn như một thể loại có độ dài từ 15 phút trở xuống, nghĩa là bằng với những phim ngắn
thời kỳ đầu, vốn không thể dài quá một cuộn (cũng xấp xỉ khoảng 14 phút), theo như từ
điển thuật ngữ điện ảnh trên website của trường Điện ảnh và Truyền hình Quốc tế Eicar
(The International Film and Television School). Thứ hai, thời lượng của phim ngắn được


10

giới hạn trong vòng 30 phút trở xuống. Quan niệm này khá phổ biến, xuất hiện trong
quyển In short: A Guide to Short Film–making in the Digital Age của Eileen Elsey và
Andrew Kelly, trong bách khoa toàn thư điện ảnh, The Film Encyclopediacủa Ephraim
Katz và rất nhiều những bài báo khác[33]. Và cuối cùng là cách được công nhận nhiều
nhất bởi các liên hoan phim và giải thưởng danh tiếng trên thế giới, định nghĩa phim ngắn
như một thể loại có độ dài tối đa lên đến 40–45 phút. Cụ thể là đã có rất nhiều hội đồng
chun mơn hay cơ sở dữ liệu điện ảnh đã cùng chia sẽ quan điểm này này với nhiều
tương đồng và khác biệt.
Trước tiên, ta cần đề cập đến một trong những giải thưởng điện ảnh lớn nhất hành

tinh được trao tặng bởi hội đồng chuyên môn đến từ nền công nghiệp điện ảnh phát triển
mạnh mẽ nhất hiện nay. Đó chính là Giải thưởng Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật
Điện ảnh Hoa Kì (thường được gọi tắt là Academy Awards hay Oscar). Hội đồng xét
duyệt của giải thưởng này đã đưa ra những quy định sau dành cho những phim ngắn dự
giải: “Phim ngắn được định nghĩa là những tác phẩm điện ảnh hoàn chỉnh với độ dài từ
40 phút trở xuống, bao gồm cả phần thông tin giới thiệu phim.” (“A short film is defined
as an original motion picture that has a running time of 40 minutes or less, including all
credits.”)[17]. Định nghĩa này cũng tương tự như quy định của Giải thưởng Viện Hàn lâm
Điện ảnh và Truyền hình Anh (British Academy of Film and Television Arts Awards),
thường được gọi tắt là BAFTA. Trong khi đó, Liên hoan phim Cannes (Festival de
Cannes) được tổ chức thường niên tại Cannes (Pháp) lại chỉ chấp nhận thời lượng tối đa
cho một phim ngắn tham dự là 35 phút. Ngoài ra, tại trang IMDb (Internet Movie
Database), một trong những cơ sở dữ liệu điện ảnh lớn nhất hiện nay trên Internet, đã dựa
trên tiêu chí sau để khu biệt phim ngắn: “Phim ngắn bao gồm tất cả các phim chiếu rạp
hay các tựa phim chép đĩa với thời lượng ít hơn 45 phút, nghĩa là từ 44 phút trở xuống,
hay các series truyền hình, phim truyền hình với độ dài ít hơn 22 phút, nghĩa là từ 21 phút
trở xuống. Một chương trình truyền-hình-nửa-giờ sẽ khơng được xem như một phim


11

ngắn.” (“Short films are any theatrical film or made-for-video title with a running time of
less than 45 minutes, i.e., 44 minutes or less, or any TV series or TV movie with a
running time of less than 22 minutes, i.e. 21 minutes or less. A “half-hour” television
program should not be listed as a Short.”)[38]. Chúng ta có thể thấy rằng, với mục tiêu xây
dựng một kho lưu trữ thông tin đồ sộ về tất cả các phim được sản xuất từ cổ chí kim,
IMDb đã có sự phân định rạch rịi về thời lượng của các phim ngắn. Ngoài ra, ở kênh
thơng tin này cịn có sự phân chia các thành phần thuộc bản thân thể loại phim ngắn. Nói
cách khác, IMDb đã có sự phân biệt giữa phim ngắn được chiếu trên truyền hình, phim
ngắn chiếu rạp, phim ngắn được chép đĩa, các dạng chương trình truyền hình với khung

thời gian nửa giờ. Điều này làm nảy sinh một vấn đề khác nằm ngồi dung lượng. Đó
chính là nội hàm cụ thể của khái niệm “phim ngắn” có thể bao gồm những gì? Phim
truyền hình, series truyền hình, phim tài liệu, phim giáo dục, video ca nhạc (music
videos)…có được xem là phim ngắn hay khơng?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau trong việc khác định nội hàm của khái niệm
phim ngắn. Trong quyển In Short: A Guide to Short Film-making in Digital Age của
Eileen Elsey và Andrew Kelly, các tác giả tuyên bố chỉ khảo sát phim tự sự ngắn, video
ca nhạc và các clip quảng cáo, thương mại, bỏ qua các dạng phim ngắn giáo dục trẻ em,
phim ngắn trừu tượng của trào lưu avant-garde (một trào lưu nghệ thuật của Châu Âu mà
chúng tôi sẽ đề cập ở những phần sau), và phim tài liệu ngắn. Ngay cả tại các giải thưởng
cũng có sự khác nhau trong việc xác định phạm vi của thể loại này. Nếu như Oscar chia
phim ngắn thành ba dạng: phim tài liệu ngắn, phim hoạt hình ngắn và phim ngắn quay
thực (tạm dịch khái niệm “live-action short films”) với ghi chú rõ ràng rằng: “Phim tài
liệu ngắn sẽ không được chấp nhận trong hạng mục phim ngắn quay thực” (“Document
short subjects will not be accepted in the live action category”). Tương tự, trong quy chế
tham dự giải BAFTA, ở hạng mục phim ngắn cũng có lưu ý như sau: “Những phim này
phải là hư cấu.” (“The film must be fiction”) nhưng lại có dịng chú tiếp theo sau đó


12

nhằm nới lỏng quy định trên, phịng trường hợp có những ngoại lệ nhất định: “Hội đồng
xét duyệt có thể sử dụng quyền hạn của mình để chấp nhận những nội dung có kịch bản
căn cứ trên sự thực.” (“However, the jury may use its discretion to accept dramatised
factual subjects.”). Điều đó cho thấy rằng, tùy theo tiêu chí của mình, người khảo sát có
thể xác định nhiều nội hàm khác nhau cho khái niệm “phim ngắn”. Riêng trong phạm vi
đề tài này, với định hướng quan sát phim ngắn như một thể loại độc lập với những tiêu
chí nghệ thuật nhất định, chúng tơi cũng đưa ra cho mình một phạm vi cụ thể cho khái
niệm “phim ngắn”. Theo đó, để đảm bảo tính vơ vị lợi của một loại hình nghệ thuật,
chúng tơi khơng khảo sát những loại video clip ngắn được sản xuất vì những mục đích

phi nghệ thuật. Theo đó, những dạng video ca nhạc, quảng cáo, tuyên truyền, giáo
dục…đều được đặt ngoài phạm vi khảo sát.
Nói tóm lại, từ đây cho đến hết đề tài, khi nhắc đến khái niệm phim ngắn, chúng tôi
xin thống nhất đó là những phim có độ dài từ 45 phút trở xuống, bao gồm phim tự sự
ngắn, phim tài liệu ngắn và các loại phim thể nghiệm nghệ thuật. Cụ thể các dạng phim
ngắn được sản xuất để trình chiếu trên màn ảnh rộng (chiếu kèm phim truyện hay chiếu
theo tập hợp nhiều phim ngắn), trên truyền hình (các dạng series nhiều tập với từng tập
có nội dung tương đối độc lập, thường được gọi là “sitcom” hay “soap opera”) hay trên
mạng Internet (đa phần là các phim nghiệp dư, do những người yêu thích điện ảnh, sinh
viên chuyên ngành tự sản xuất).Ngồi ra, chúng tơi khơng xét đến bất kỳ dạng video clip
ngắn nào nằm ngoài ngoại diên đã xác định.
1.1.2. Phim ngắn trong tương quan với video ngắn
Chúng ta thường nghe đến khái niệm “video ngắn”(hay video clip, gọi tắt là clip)
thường được nhắc đến nhiều trong đời sống hằng ngày, ví dụ như “clip ca nhạc”, “clip
phóng sự”, “clip phỏng vấn”, “clip quảng cáo”… Từ điển Longman định nghĩa về khái
niệm này như sau: “một (trích) đoạn ngắn của một bộ phim hay một chương trình truyền


13

hình, được thể hiện một cách độc lập, điển hình là những mẫu quảng cáo” (“a short part
of a film or television programme that is shown by itself, especially as an
advertisement”). Qua đó, ta có thể thấy rằng một “clip” sẽ có hai tính chất, thứ nhất là
tính ngắn, thứ hai là tính độc lập. Vậy, với những tính chất tương tự, liệu phim ngắn có gì
khác so với một video clip?
Trước hết, về tiêu chí “ngắn”, chúng tơi sẽ xét cả hai thể loại này trên hai phương
diện: thời lượng và nội dung thể hiện. Nhìn chung,giữa phim ngắn và các dạng video
ngắn khơng có nhiều sai biệt về mặt thời lượng, chủ yếu đều từ vài phút đến khoảng 40
phút. Tuy vậy, do hầu hết video ngắn đều mang tính chất thời sự, giới thiệu, quảng cáo,
đậm tính minh họa và ít chú trọng đến giá trị nghệ thuật nên chúng thường rất ngắn, chỉ

tầm vài phút, đôi khi chỉ vài chục giây, thường thấy ở các video quảng cáo. Phim ngắn thì
ngược lại, chỉ có những phim dạng thể nghiệm, có kết cấu đặc biệt, mới được sản xuất
với thời lượng cực ngắn để tạo hiệu ứng nghệ thuật (thường được gọi là phim cực ngắn).
Còn đa phần phim ngắn, do mang tính tự sự nên thời lượng phải vừa đủ để kể, truyền tải
thông điệp và ý tưởng cốt truyện,nghĩa là phải ở tầm 10 phút trở lên.
Về mặt nội dung thể hiện, tính “ngắn” giữa video clip và phim ngắn có một sự khác
biệt rõ rệt. Chúng ta thường hay gọi các đoạn ghi hình phóng sự, phỏng vấn, ca nhạc,
quảng cáo sản phẩm hay giới thiệu phim ảnh(còn được gọi là trailer hay teaser) là clip,
chứ không ai gọi chúng là phim ngắn cả. Và ngược lại, ta cũng không thể gọi một phim
ngắn là clip được. Như vậy, tuy rằng phim ngắn và video clip tương tự nhau về mặt thời
lượng, nhưng ranh giới về mặt nội dung vẫn tách chúng thành hai thể loại biệt lập.Nội
dung của video clip thường mang tính xã hội và tính đại chúng cao. Chúng xoay quanh
những vấn đề thời sự, đời thường, dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng khác nhau. Vì
cứu cánh của video ngắn là quảng cáo sản phẩm, cung cấp thông tin, phổ cập tri thức…
nên nội dung của các clip luôn có phần đơn giản, dễ tiếp thu, dễ phân tích, thẩm thấu.
Tính ngắn của video clip là ngắn theo nghĩa đen, bởi chúng là những mẫu tin nhỏ, những


14

mẫu quảng cáo nhỏ vốn không thể được làm một cách dài dòng và rối rắm. Chúng cần sự
ngắn gọn, nhanh chóng, bộc trực; cần được cắt gọt sao cho vừa vặn để thông tin được
truyền tải một cách đầy đủ nhất nhưng khơng dư thừa, nhàm chán. Và vì thế nên chúng
ngắn. Cái ngắn của video clip là cái ngắn đơn thuần bởi yêu cầu thực tế, bởi mục đích
thương mại. Trong trường hợp của các video ca nhạc, độ dài của ca khúc cũng chính là
yếu tố quyết định tính ngắn của video clip.Ngược lại, phim ngắn, với tư cách là một thể
loại thuộc nghệ thuật điện ảnh, hẳn nhiên nội dung của chúng không được xây dựngđơn
giản, khơng mang tính phổ biến nhiều như các video clip. Phim ngắn phải có một kết cấu
hồn chỉnh, hay đơn giản là một kịch bản mang tính hình tượng cao,giàu tính sáng tạo.
Đối tượng thưởng thức phim ngắn khơng đại trà, đó là một lớp cơng chúng có thị hiếu

thẩm mĩ ở một mức độ nhất định, vừa đủ để có thể tiếp nhận được những tín hiệu nghệ
thuật từ các hình tượng điện ảnh trong phim ngắn. Phim ngắn cũng khơng mang nặng
tính quảng cáo, quảng bá, khơng bị quy định bởi thị trường thương mại. Thay vào đó,việc
chuyển tải nội dung nghệ thuật được đặtlên hàng đầu. Đối lập với video clip, yếu tố
“ngắn” ở phim ảnh được tạo nên bởi sự ẩn dụ cô đọng trong các hình tượng nghệ thuật.
Chúng ta cần hiểu rằng,dung lượng ngắnở đây không chỉ đơn thuần được đánh giá dựa
vào tư duy đo lường, không chỉ là về vấn đề thời lượng, khơng bó hẹp trong tương quan
của những độ dài khác nhau, mà đó chính là đặc trưng cho sức nén mạnh mẽ tiềm tàng
mà thể loại đặc biệt này có được. Phim ngắn tạo cho người xem cảm giác ngắn, khơng
phải vì chúng ngắn thực, mà là vì chúng cịn nói rất nhiều điều thơng qua vỏn vẹn mấy
mươi phút ấy. Chính cái lực nén cơ đúc kia đã làm nên giá trị nghệ thuật đặc thù cho
phim ngắn, khiến chúng trở thành một thể loại riêng biệt giữa nhiều thể loại nghệ thuật
khác.
Với những đặc tính về nội dung khác biệt nhau, phim ngắn và video clip cũng có
những cách thức riêng, những lối kể riêng, những kỹ thuật riêng để phục vụ cho việc
truyền đạt ý tưởng của mình. Ở video ngắn, tiêu chí đầu tiên đối với kỹ thuật điện ảnh là


15

phải làm sao để nội dung cần truyền tải đến được mắt và tai của người xem một cách
nhanh gọn nhất, trực tiếp nhất. Lời thoại cũng dễ hiểu, các nhân vật mang tính cách đơn
giản, tâm lý khơng phức tạp. Ngơn ngữ của một video ngắn thiên về tính thơng tin, tính
minh họa. Riêng vớiclip ca nhạc, chúng ta có thể thấy hình ảnh là một sự minh họa trực
tiếp cho lời bài hát, làm sao để người xem thêm cảm xúc về bài hát ấy. Chính yếu tố cảm
xúc này đã khiến các video ca nhạc phần nào có khí chất nghệ thuật. Do đó, chúng cũng
được xem như một thể loại riêng, ngày càng được đầu tư khá kỹ lưỡng về mặt kịch bản,
tuy vậy chúng ta vẫn khơng thể gọi đó là phim ngắn, bởi ngơn ngữ chủ đạo của các music
video vẫn là âm nhạc, là ca từ, là giai điệu thay vì lời thoại và diễn biến tâm lí, tình huống
như trong điện ảnh chính thống. Và quan trọng hơn hết, mục tiêu cuối cùng của video ca

nhạc vẫn là quảng bá cho bài hát, cho ca sĩ, một dụng ý mang đậm tính thương mại, phụ
thuộc rất nhiều vào thị trường. Còn ở phim ngắn, đó là một đẳng cấp khác biệt về việc
quay phim, cắt dựng… Bởi đòi hỏi của phim ngắn khác hẳn với video clip. Yêu cầu cao
hơn về giá trị nghệ thuật buộc người làm phim phải nghiêm túc trăn trở, khám phá và
sáng tạo nhiều hơn. Bất kỳ một khung hình nào cũng đều chứa đựng ý đồ của đạo diễn.
Tất cả những sự sắp đặt, biên tập đềucó dụng ý. Một động thái chỉnh tiêu cự, phóng to
hay thu nhỏ của máy quay, một khung hình đặc tả, một chi tiết lấy sáng… mỗi thứ đều
mang tính gợi mở về cả hình thức lẫn nội dung nghệ thuật. Chúng là những yếu tố vô
cùng cần thiết và quan trọng trong điện ảnh, và đối với phim ngắn, chúng lại càng phải
được đầu tư một cách công phu, tỉ mỉ để đảm bảo được tính cơ đọng, sức dồn nén cho
phim.
Thứ hai, khi xét đến tính độc lập,ta dễ thấyđây cũng là tính chất của một phim ngắn,
video ngắn hay bất kỳ một thể loại điện ảnh nào khác. Nghĩa là một clip, dù có được trích
ra, cắt ra từ một thực thể mẹ lớn hơn, thì khi đem ra trình chiếu nó vẫn có đủ sức để đứng
một mình, người xem vẫn có thể hiểu chúng đang nói gì và mục đích của chúng đang
hướng tới điều gì. Tiêu biểu là các trailer hay các đoạn teaser, chúng là sự cắt ghép các


16

cảnh quay từ một sản phẩm sân khấu điện ảnh hồn chỉnh, được tung ra trước khi sản
phẩm được cơng chiếu/công diễn, nhằm quảng bá, giới thiệu và tăng sức hấp dẫn, tăng sự
tò mò của khán giả về bộ phim hay một sản phẩm sân khấu sắp được ra mắt. Tuy vậy,
chúng vẫn có tính độc lập của riêng mình, người xem vẫn hiểu và háo hức muốn thưởng
thức đầy đủ sản phẩm sân khấu điện ảnh đó. Chính vì khả năng độc lập tự thân này, mà
chúng ta thường gặp phải trường hợp khi xem trailer thì cảm thấy phim rất hay, nhưng
khi đi xem phim đầy đủ rồi mới hụt hẫng vì phim quá tồi. Hoặc ngược lại, trailer phim
khơng có gì ấn tượng nhưng phim lại là một hiện tượng điện ảnh sau này. Những trường
hợp trên cho thấy, bản thân các trailer nói riêng và video ngắn nói chung có một sức
mạnh riêng biệt. Chúng tạo ra một hấp lực riêng và nếu không hiểu điều này, không khéo

nhà sản xuất sẽ khiến các trailer trở nên sai lệch với những gì mà bộ phim nói tới.Cịn đối
với các thể loại khác trong điện ảnh chính thống, bao gồm cả phim ngắn thì khơng cần
phải bàn cãi, chúng là những sản phẩm hoàn chỉnh và độc lập, là những cơng trình sáng
tạo và là những đứa con tinh thần của đạo diễn. Chúng có đời sống riêng và một sức hút
riêng.
Nếu không hiểu rõ về tính độc lập, tự thân này, rất nhiều người có thể sẽ lầm lẫn, và
thực tếđã chứng minh điều đó. Các tình trạng hiểu sai tiêu biểu như: bất cứ đoạn băng
nào độc lập ta cũng gọi là clip, hoặc bất cứ một đoạn băng nào miễn ngắn thì đều được
gọi là clip, khơng cần biết chúng có độc lập hay không. Trong đời sống hằng ngày ta vẫn
nghe những câu nói dạng như: “Bạn có thể chép mấy cái clip phim vào USB cho mình
khơng?” Nghĩa là, nội hàm của khái niệm clip trong ngôn ngữ hiện nay đã trở nên bao
quát và mở rộng hơn. Bất cứ cái gì, dù thể loại nào, miễn chúng là băng ghi hình, thì ta
gọi là clip. Clip trở thành một danh từ chung chỉ tất cả các thể loại điện ảnh lẫn phi điện
ảnh, và đó là một sự nhầm lẫn khơng đáng có. Trở lại với nghĩa gốc của chữ “clip”, ta sẽ
hiểu được bản thân “clip” cũng có những giá trị riêng và không thể bị gán ghép bừa bãi
và gọi tên một cách tùy tiện được.


17

Tóm lại, giữa video clip và phim ngắn có sự tương đồng về thời lượng, và sự khác
biệt về nội dung chứa đựng và hình thức biểu hiện. Đây là hai tiêu chí cốt lõi và quan
trọng nhất giúp khu biệt chúng thành hai thể loại riêng, phục vụ cho những mục đích và
những đối tượng khác nhau. Nhìn từ mối tương quan giữa hai thể loại, ta thấy rõ một điều
rằng, cả video ngắn và phim ngắn đều có những nhiệm vụ riêng của nó. Chúng đều cùng
đáp ứng cho một số u cầu nhất định, chính vì vậy chúng có thể giao thoa, nhưng khơng
bao giờ là một. Bởi thế, một video ngắn vẫn sẽ giữ nguyên giá trị về mặt đại chúng, trong
khi phim ngắn sẽ vẫn tồn tại như là một chỉnh thể nghệ thuật, đem lại những cảm xúc
khác, ý nghĩa khác cho công chúng thưởng ngoạn.
1.1.3. Phim cực ngắn như một dạng phim ngắn đặc biệt

Sau phân biệt phim ngắn với những dạng video ngắn khác, ta quay lại với vấn đề
dung lượng của bản thân thể loại này. Mặc dù đã xác định được độ dài tương đối của một
phim ngắn là từ 45 phút đổ xuống nhưng từ đó lại dẫn đến một vấn đề đang rất được quan
tâm trong thời gian gần đây là tại sao lại xuất hiện thêm khái niệm “phim cực ngắn”
(“short short film” hay “short shorts”). Phải chăng đây lại là một thể loại mới, vừa manh
nha kể từ đầu thế kỷ XXI, khi nó ngày càng được sản xuất nhiều vơ kể? Nó có điểm gì
khác biệt so với phim ngắn thông thường hay đơn thuần chỉ là một khái niệm thuộc một
hệ thống phân chia thời lượng phức tạp khác nằm trong bản thân phim ngắn?
Thật ra, có rất nhiều quan điểm về việc phân chia thời lượng của phim ngắn. Trước
đây, vào buổi đầu của điện ảnh, cịn có cả một khái niệm dành riêng cho phim ngắn ở
mức dung lượng cao nhất, gọi là “featurette” để chỉ những phim truyện khoàng 30-45
phút, với hậu tố “tte” mượn từ tiếng Pháp để phân biệt với chữ “feature” trong thuật ngữ
phim truyện dài (“feature film”). Một điều khá thú vị nữa là, trong lịch sử giải Oscar,
dung lượng phim ngắn lại chỉ được phân chia thành hai hạng mục duy nhất: một cuộn
(one reel-khoảng 14 phút) và hai cuộn (two reels-khoảng 30 phút). Cách phân chia này


18

tồn tại từ 1936 đến 1956 với hai danh hiệu: “phim ngắn một cuộn hay nhất” (Best Short
Subject, One-reel) và “phim ngắn hai cuộn hay nhất” (Best Short Subject, Two-reel). Đây
cũng chính là thời lượng phim ngắn được sản xuất nhiều nhất cho đến ngày nay, có thể
được coi là “khung” dung lượng phổ biến. Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy rằng, chính
đơn vị độ dài tính bằng cuộn này đã góp phần khu biệt và phân mảng những mức quy
chuẩn khác nhau về độ dài của phim ngắn, phân biệt giữa phim có độ dài trung bình (một
cuộn hoặc hai cuộn hay 15-30 phút) với dạng phim ngắn có độ dài tối đa, ở tầm 40-45
phút và dạng phim ngắn có độ dài tiết chế đến mức tối thiểu, khoảng dưới 5 phút. Theo
đó, nếu như những phim có độ dài tối đa góp phần đẩy xa khoảng cách giữa phim ngắn
và phim truyện thì những phim có thời lượng tối thiểu lại có xu hướng hình thành một
dạng đặc biệt của phim ngắn mà ngày nay thường được biết đến với tên gọi “phim cực

ngắn”. Để hiểu rõ hơn về dạng phim ngắn đặc biệt này, ta cần trở lại với xu hướng tiết
chế độ dài của phim ngắn nói chung.
Như ta đã biết, khái niệm phim ngắn đã nghiễm nhiên được chấp nhận ngay từ
những ngày đầu như một dạng tiền thân của điện ảnh với hai xu thế làm phim chính. Một
là quan tâm đến việc kéo dài độ dài, hai là tập trung trau chuốt cho nội dung tác phẩm. Cụ
thể là, khi các đạo diễn đã có đủ điều kiện thể tập trung trau chuốt cho đứa con tinh thần
của mình, phim ảnh thường được đẩy lên đến độ dài tốt đa, dài nhất có thể, chính xu
hướng này đã đưa phim ngắn dần tiến ra ngồi khn khổ của mình mà hình thành phim
truyện. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng có một bộ phận các nhà làm phim không quá chú
trọng đến hiệu quả thương mại cũng như các đối tượng ưa chuộng những bộ phim có nội
dung tự sự lê thê mà thay vào đó là những thể nghiệm nghệ thuật và không quan tâm đến
vấn đề cải tiến dung lượng, các nhà làm phim đã tự giới hạn mình trong độ dài khoảng 30
phút. Chính xu hướng này đã phần nào làm chậm lại những cuộc đua dung lượng trong
điện ảnh thời kỳ đầu và góp phần hình thành những quy chuẩn nhất định về mặt dung
lượng cho thể loại phim ngắn. Như Luis Buňuel với Un Chien Adalusia, dài 17 phút,


19

chẳng hạn,do hướng đến những mục tiêu của chủ nghĩa siêu thực, nên mối bận tâm của
ông không phải là làm sao để phim mình dài hơn như D. W. Griffith(1875-1948), một
trong những đạo diễn tiên phongtrong phong trào nối dài dung lượng phim, mà ngược lại,
khiến cho nó khơng quá lan man mà mất tập trung là sự độc đáo và sắc sảo của hình ảnh.
Chính việc trao giải cho hai hạng mục phim ngắn có độ dài khác nhau của Oscar đã
chứng minh một hiện thực rằng đã từng tồn tại một bộ phận nhà làm phim không có định
tận dụng tối đa độ dài cho phép mà thay vào đó, tập trung hơn vào những yếu tố khác như
cốt truyện, thủ pháp nghệ thuật hay những hình ảnh độc đáo, thứ đóng góp mạnh mẽ vào
sự khu biệt giữa các thể loại.
Trở lại với phim cực ngắn, ta có thể thấy rằng, sự tiết chế về mặt dung lượng càng
đóng vai trị quan trọng hơn bao giờ hết.Nó được biết đến như một yếu tố làm nên đặc

trưng nghệ thuật của dạng phim này. Khơng có quy chuẩn rõ ràng nào dành cho phim cực
ngắn, một phần bởi bản thân tính ngắn trong phim ảnh đã mang tính tương đối, nghĩa là
khơng chỉ phụ thuộc vào thời lượng, một phần là do yếu tố “cực ngắn” cũng khá dễ hình
dung, chỉ cần phim nào khơng q dài, được trình chiếu như một khoảnh khắc diễn ra
chớp nhống thì đã có thể được hiểu là phim cực ngắn. Theo một cuộc thi phim ngắn
mang tên FILMSshort được mở vào những dịp cuối năm tại Mĩ với sự kết hợp với Daazo,
một tổ chức chuyên phổ biến phim ngắn tại Châu Âu, thì phim cực ngắn (“short shorts”
hay “short short films”) được định nghĩa là những phim có độ dài dưới 5 phút. Đồng tình
với ý kiến này, một nghệ sĩ Úc, David Griffith, người chuyên viết hàng loạt các bài giảng
về kỹ thuật làm phim ngắn hay chụp ảnh nghệ thuật đã cho rằng 5 phút là một trong 3
mức dung lượng của phim ngắn gồm: phim cực ngắn (short shorts), phim ngắn tầm trung
(mid-length short film) và phim ngắn dài (long short film). Thực ra, giới hạn này chỉ là
tương đối. Với độ dài chỉ bằng một phần hai cuộn phim, khó có thể hình dung được
người đạo diễn sẽ sắp đặt và cắt dựng như thế nào để cho ra đời một sản phẩm với đầy đủ
tiêu chí của một phim ngắn chứ khơng đơn thuần chỉ là những hình ảnh vơ nghĩa. Ở các


20

giải thưởng lớn hơn, như Oscar hay Cannes, thường không phân biệt phim ngắn với phim
cực ngắn. Thậm chí, có những phim cực ngắn đã từng được đề cử ở hạng mục “Phim
ngắn/phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất” như Oktapodi (2007) của đạo diễn Pháp, Julien
Bocabeille hay Gagarin (1995) của đạo diễn Nga, Alexei Khariditi và một số phim ngắn
khác, hoặc thậm chí thắng của giải thưởng cao quý này nhưThe Crunch Bird (2 phút,
1971, Ted Petok, Joe Petrovich, and Len Maxwell), Charade (5 phút, 1984, John
Minnis), Tin Toy(5 phút, 1988, John Lasseter), Geri's Game (5 phút, 1997, Jan Pinkava),
For the Birds(3 phút 28 giây, 2000, Ralph Eggleston) và The Chubbchubbs! (5 phút,
2002, Eric Armstrong) ở giải Oscar hay các phim 50 ans (3 phút, 1989, Gilles Carle),
Zikkaron (5 phút, 1971, Laurent Coderre), Blinkity Blank (5 phút, 1955, Norman
McLaren)… đều đã từng đoạt giải tại Cannes và nhiều liên hoan phim khác.

Từ đó có thể khẳng định rằng, khơng hề có bất kỳ một giới hạn chất lượng nào dựa
trên dung lượng của phim. Nói cách khác, khơng thể dùng dung lượng mà so sánh chất
lượng giữa phim cực ngắn với phim ngắn, làm như vậy chẳng khác nào so sánh giữa
phim ngắn và phim truyện dài, một kiểu so sánh vơ cùng khập khiễng. Vậy, đặc tính của
phim cực ngắn là gì mà có thể giúp chúng vừa giữa được dung lượng ấn tượng, vừa có
thể tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt?
Trước hết, dễ thấy rằng phim cực ngắn, với sự tối giản hoá về dung lượng của
mình, có thể được xem như một dạng cơ đặc của phim ngắn. Nói cách khác, nếu muốn
tìm hiểu những đặc trưng cơ bản nhất của phim ngắn, người ta sẽ phải xem một bộ phim
cực ngắn. Ở dạng phim này, những tính chất của phim ngắn được thể hiện rõ ràng hơn
bao giờ hết. Sự tối giản về cả nhân vật, bối cảnh, hành động, sự kiện và tình huống có thể
được xem như một ví dụ. Ta có thể thấy rõ hơn điều này khi phân tích phim ngắn dài 1
phút mang tên The Kiss(2005) của Toma Waszarow, một đạo diễn người Bulgary, đã
từng thắng hàng loạt giải thưởng ở khắp các liên hoan phim lúc bấy giờ trên toàn thế giới.
Suốt các cảnh phim, đạo diễn chỉ mô tả nụ hôn nồng cháy của một gương mặt phụ nữ


21

dành cho một gương mặt đàn ông bất động. Để rồi, ở những phân cảnh cuối cùng của một
phút ngắn ngủi ấy, một chiếc máy chém buông rơi lưỡi dao oan nghiệt của mình và chiếc
đầu phụ nữ rơi ra, nằm cạnh chiếc đầu đàn ông. Trước hết, ta thấy ở đây chỉ có duy nhất
một chủ thể hành động, một bối cảnh, một tình huống, ngồi ra khơng cịn gì khác. Góc
quay cũng được tiết chế đến mức tối đa, chỉ tập trung vào hai gương mặt, cái máy chém
và một vài ngoại cảnh. Thế nhưng bấy nhiêu cũng đủ truyền tải, khắc hoạ rất sâu rất ấn
tượng dành cho một nội dung nghệ thuật đa chiều mà đơn giản nhất chính là sự vượt
thốt khỏi mọi rào cản của khát vọng hố giải nỗi cơ đơn của con người, bất chấp cái
chết, bất chấp tuyệt vọng. Một phút ngắn ngủi trên không chỉ gây ấn tượng mạnh mẽ
bằng những hình ảnh đầy quyết liệt, thậm chí bạo lực mà hơn thế là sự đột ngột, dồn dập
giữa các phân cảnh, khiến sự bất ngờ được đẩy lên tột độ. Qua đó, ta thấy được những

đặc trưng rất nổi bật của phim cực ngắn đặc biệt này. Bên cạnh đó, cần phải lưu ý rằng,
dù rất nhiều phim cực ngắn có sự thay đổi liên tục về khung ảnh như trong Oktapodi
(2007) của Julien Bocabeille, toàn phim chỉ miêu tả cuộc trượt đuổi trên khắp các khu
phố ven bờ biển, vì thế ngoại cảnh thay đổi liên tục từ cửa hàng bán bạch tuộc ra đến bờ
biển, nhưng xét cho cùng, tất cả vẫn xoay quanh ba nhân vật chính và cùng một cuộc tẩu
thốt. Nghĩa là với dung lượng được giới hạn đến tối đa, tính sáng tạo của các nhà làm
phim vẫn không hề thuyên giảm. Dung lượng ngắn không phải là một dạng khuôn khổ
kềm chế người nghệ sĩ, thay vào đó, nó dần trở thành một trong những phương tiện để
các nhà làm phim thử thách chính mình.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng, phim cực ngắn đã thành một xu hướng riêng
trong bản thân thể loại phim ngắn.Thật ra, xu hướng rút gọn độ dài này không phải là của
riêng điện ảnh. Trong các ngành nghệ thuật khác, tiểu biểu như ở văn chương, từ lâu đã
có sự hình thành một thể loại đặc biệt là “truyện cực ngắn” hay “truyện ngắn trong lòng
bàn tay”. Điều này chứng tỏ rằng, xu hướng cắt giảm độ dài có thể được xem như một
trong những trào lưu đang dần hình thành và phát triển của nghệ thuật đương đại, như


22

một biểu hiện của phong cách sống của con người thế kỷ XXI, với văn hố thơng tin
nhanh ngày càng phát triển. Khi đó, những “mẩu” thơng điệp dạng cực ngắn để dễ thu hút
sự chú ý của người xem ngày càng được ưa chuộng trong cách phương pháp truyền
thông, thương mại, quảng cáo… Và phim cực ngắn chính là tín hiệu cho sự lấn sân của
văn hố thơng tin này vào lĩnh vực nghệ thuật. Trên thế giới hiện nay, trong sự nở rộ của
những liên hoan phim ngắn, một số lễ hội, giải thưởng chỉ dành riêng cho phim cực ngắn
cũng dần hình thành mà tiêu biểu là hai liên hoan phim One minute Film Festival ở Thuỵ
Sĩ và New York One minute Film Festival, được tổ chức tại New York, Hoa Kỳ. Trong
tương lai, với sự tiến bộ không ngừng của công nghệ làm phim, hy vọng phim cực ngắn
sẽ tiếp tục phát triển thành một trong những điểm nhấn của sự phong phú về mặt thể loại
của điện ảnh thế giới.

1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của phim ngắn
Nếu như xem màn trình diễn đầu tiên cuả anh em nhà Lumière là cột mốc đánh dấu
sự ra đời của phim ảnh thì tính đến nay, bộ môn nghệ thuật này đã tồn tại hơn một thế kỷ,
đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nhân loại. Và phim ngắn, một thể loại vốn
xuất hiện ngay từ buổi sơ khai cũng đã có một cuộc hành trình đầy đặn như chính bản
thân điện ảnh vậy.
1.2.1. Giai đoạn manh nha
Thật ra, vào buổi phát minh ra điện ảnh, tất cả các phim đều ngắn. Đơn giản là vì
vào thời điểm đó, điều kiện kỹ thuật không cho phép các nhà sáng tạo sản xuất những bộ
phim truyện. Những phim đầu tiên chỉ có thời lượng chừng vài phút, rồi sau đó được
nâng dần lên, cho đến khi xuất hiện đơn vị “cuộn” (một cuộn phim truyện khoảng 14
phút), một trong những chuẩn mực đầu tiên của điện ảnh. Hàng loạt các phim ngắn được
ra đời vào thời kỳ này. Trong đó phải nhắc đến những thước phim đầu tiền tiên của anh
em Lumière, hai nhà tiên phong của điện ảnh thế giới. Đó là Workers leaving the Lumière


23

factory, L'arrivée d'un Train en Gare, L’Arroseur arrosé và còn nhiều, nhiều phim khác
nữa. Phải nói số lượng phim ngắn được sản xuất và trình chiếu ở giai đoạn này nhiều vô
kể. Chỉ riêng đạo diễn danh tiếng người Mĩ D. W. Griffith, trong thời kỳ đầu của sự
nghiệp mình, đã sản xuất hơn 450 phim ngắn. Bryony Dixon, người quản lí và điều hành
Liên hoan phim Câm Anh quốc (British Silent Film Festival) của Viện nghiên cứu Điện
ảnh Anh quốc (British Film Institude) đã từng phát biểu về thời đại này như sau: “Cách
thưởng thức điện ảnh phổ biến của thời bấy giờ là sử dụng những thính phịng âm nhạc
hay các bãi đất rộng ở hội chợ hoặc triển lãm, nơi thường trình chiếu những chương trình
dài khoảng 20 phút về rất nhiều hành động đa dạng và phong phú. Đa phần những phim
ngắn đầu tiên đều mô tả lại những loại hình giải trí sẵn có khác như: đèn lồng ma thuật,
ảo thuật, diễn xuất tự do hay biểu diễn hoạt cảnh. Có thể nói, “ngắn” là một chuẩn mực.”
(“The major outlets for entertainment at that time were music halls and fairgrounds,

where programmes were made up of a variety of different acts lasting up to about 20
minutes. Most early films imitated other entertainment media already in existence: magic
lantern shows, illutrations, variety acts, tableaux presentations. So short was the
norm.”)[52] Thật ra, hiện tượng này cũng rất dễ hiểu. Bởi lúc bấy giờ, điện ảnh chưa tạo
được cho mình một diện mạo xác định nên với những bước chập chững đầu tiên, nó buộc
phải tồn tại dưới dạng ngắn. Có như thế, phim sẽ được sản xuất rất nhanh, kịp thời đáp
ứng cho các rạp chiếu đang nở rộ lúc bấy giờ, chớp lấy thời cơ tìm kiếm lợi nhuận. Phổ
biến nhất trong thời kỳ này là mơ hình những Rạp 5 xu (nickelodeons–người xem chỉ cần
bỏ ra 5 xu thì sẽ được vào xem những thước phim ngắn), chun phục vụ cho tầng lớp
bình dân. Có thể nói, phim ngắn thống trị thời đại sơ khai của điện ảnh thế giới. Từ năm
1888 đến năm 1913, cùng với bước đi của điện ảnh, phim ngắn được sản xuất ở rất nhiều
nơi trên thế giới, đặc biệt là Mĩ và châu Âu. Tuy nhiên, phẩm chất nghệ thuật của phim
ngắn lúc bấy giờ còn rất non trẻ. Những thước phim đầu tiên chỉ đơn thuần bao gồm các
hình ảnh được ghi lại một cách máy móc, thiếu hẳn một kết cấu cụ thể. Chính vì thế mà
ta có thể hình dung ở thời kỳ này, thể loại phim ngắn chỉ vừa manh nha hình thành. Sau


×