Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Hoạt động ngoại giao nhân dân ở sài gòn thành phố hồ chí minh (1975 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.91 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
----------------

HOÀNG THỊ HÀ

HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO NHÂN DÂN SÀI Ở
SÀI GÒN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(1975 – 2010)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. LÊ HỮU PHƯỚC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được
ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Học viên thực hiện Luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)


ờ ả ơ !



Để hồn thành luận văn, tơi xin được gửi lời cảm ơn chân thành, sự biết ơn sâu
sắc đến người thầy hướng dẫn của mình: Tiến sĩ Lê Hữu Phước. Thầy đã tận tình chỉ
dạy, hướng dẫn tỉ mỉ để tơi có thể từng bước hồn thiện luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn Thầy!
Tôi xin được cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học KHXH & NV, những
người đã trực tiếp dạy dỗ, cũng như các thầy cô đã tạo điều kiện cho tôi được học tập
tại trường. Xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Khoa Lịch Sử, các thầy cơ ở
phịng Sau Đại học của nhà trường!
Tơi xin được cảm ơn các cô, chú, anh, chị ở Liên Hiệp các tổ chức hữu nghị
thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ để tơi có được nguồn tài liệu quan trọng
phục vụ luận văn!
Và hơn hết, tôi xin cảm gia đình của mình đã tạo điều kiện cho tơi được học tập
và hồn thành luận văn, khi cha, mẹ và chồng đã luôn ở bên động viên, khích lệ và
giúp đỡ tơi trong suốt thời gian học tập và làm luận văn.
Chân thành cảm ơn!


1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3
1.

Lý do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu.................................................... 3

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 5


3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 9

4.

Nguồn tài liệu ................................................................................................ 9

5.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 10

6.

Đóng góp của luận văn ............................................................................... 10

7.

Bố cục của luận văn .................................................................................... 10

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 12
Chương 1: KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO NHÂN DÂN Ở SÀI GÒN
TRƯỚC NĂM 1975 ................................................................................................. 12
1.1 Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh: Đầu cầu đối ngoại quan trọng của Việt
Nam

12
1.1.1 Địa lý tự nhiên và nhân văn ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh ....... 12
1.1.2 Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh: Cửa ngõ quan trọng của Việt Nam ....


…………………………………………………………………………………………15
1.2 Hoạt động ngoại giao nhân dân ở Sài Gịn góp phần vào thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ .................................................................. . 19
1.2.1 Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) ........................... 19
1.2.2 Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) .......................................... 22
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 28
Chương 2: HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO NHÂN DÂN Ở SÀI GỊN – THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1975 – 1989 .................................................... 32
2.1 Hoạt động ngoại giao nhân dân những năm đầu sau giải phóng (1975-1977) 32
2.2 Hoạt động ngoại giao nhân dân những năm 1977 – 1989 ................................ 34
2.2.1 Thành lập Uỷ ban Đoàn kết và Hữu nghị với nhân dân các nước.......... 34


2

2.2.2 Các hoạt động hịa bình hữu nghị (1977 - 1989) ................................... 36
2.2.3 Công tác người Việt Nam ở nước ngoài ............................................... 41
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 44
Chương 3: HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO NHÂN DÂN Ở SÀI GÒN – THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1989 – 2010 .................................................... 47
3.1 Thành lập Liên hiệp các tổ chức hịa bình, đồn kết, hữu nghị thành phố Hồ
Chí Minh .................................................................................................................. 47
3.1.1 Bối cảnh ra đời Liên hiệp các tổ chức hịa bình, đồn kết, hữu nghị thành
phố Hồ Chí Minh....................................................................................................... 47
3.1.2 Cơ cấu tổ chức, vai trò, nhiệm vụ của Liên hiệp .................................... 49
3.1.3 Nhân sự ................................................................................................. 51
3.2 Các hoạt động hữu nghị .................................................................................... 52
3.2.1 Các hoạt động họp mặt, giao lưu, kỷ niệm............................................. 52
3.2.2 Hoạt động đón tiếp khách quốc tế ......................................................... 55
3.2.3 Hoạt động hữu nghị gắn với hoạt động từ thiện, xã hội ......................... 57

3.2.4 Hoạt động hữu nghị gắn với hoạt động văn hoá giáo dục, văn nghệ thể
thao ........................................................................................................................... 60
3.3 Hoạt động của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh với
Các tổ chức phi chính phủ nước ngồi ................................................................... 62
3.3.1 Khái qt mục tiêu và phạm vi hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi ở thành phố Hồ Chí Minh trước 1989 ...................................................... 62
3.3.2 Hoạt động của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh
với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi từ năm 1989 -2010 ................................... 65
3.4 Công tác người Việt Nam ở nước ngoài ............................................................ 79
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 82
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 94


3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu
Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác thì
quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử và lịch sử xã hội là lịch sử của con người
do chính con người tạo ra thông qua các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần của
mình.
Trong mỗi quốc gia dân tộc, chính quyền nào biết đặt lợi ích của dân lên hàng
đầu, lấy dân làm gốc của mọi chính sách đối nội và đối ngoại thì đất nước ấy mới giàu
mạnh được. Mặt khác, thái độ của nhân dân có tác động quyết định đối với sự tồn tại
và khả năng hoạt động của nhà nước ấy. Chính vì vậy, bên cạnh các hoạt động ngoại
giao chính thống của nhà nước, ngoại giao nhân dân có vai trị rất quan trọng.
Thuật ngữ “ngoại giao” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là “Diploma”, có nghĩa
ban đầu là “giấy chứng nhận”, sau đó mới xuất hiện từ “diplomacy” có nghĩa là ngoại

giao
Từ điển ngoại giao của Liên Xô trước đây do A. Gromyko viết: “Ngoại giao là
công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng thể những biện pháp phi
quân sự, những phương pháp, những thủ thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ
thể và đặc điểm của yêu cầu, nhiệm vụ; hoạt động chính thức của những người đứng
đầu nhà nước, chính phủ, bộ trưởng bộ ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở
nước ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ, chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp
nhân và cơng dân mình ở nước ngồi. Đồng thời, ngoại giao là nghệ thuật đàm phán
nhằm ngăn chặn, hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách thỏa hiệp và đưa ra
những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như việc mở rộng và củng cố
hợp tác quốc tế” [34; tr.18]


4

Ngoại giao nhân dân: hay được gọi là “đối ngoại nhân dân”, viết theo tiếng
Anh là “people - to - people relations”, được xếp vào hoạt động ngoại giao khơng
chính thức, nhưng ngoại giao nhân dân lại có những ưu thế mà ngoại giao chính thức
khó có thể “lấn sân”. Theo PGS.TS Vũ Dương Huân thì “Ngoại giao nhân dân là hoạt
động đối ngoại do các tổ chức nhân dân như thanh niên, phụ nữ, cơng đồn, Hội cựu
chiến binh, Hội nông dân, hoạt động đối ngoại của các tổ chức nghề nghiệp (Hội văn
học, nghệ thuật, Hội Kiến trúc, Hội sử học…) thực hiện. Mục đích của ngoại giao nhân
nhân là góp phần tăng cường sự hiểu biết, đồn kết và hữu nghị, hợp tác giữa các dân
tộc, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển quan hệ nhà nước.” [34; tr.16,17]
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất coi trọng công tác ngoại giao nhân dân và
xác định “công tác đối ngoại nhân dân là một bộ phận cấu thành của cơng tác đối
ngoại nói chung, hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với công tác đối ngoại của Đảng và
ngoại giao nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng” [54, tr 12]

Theo PGS.TS Vũ Dương Huân thì ngoại giao nhân dân có đặc điểm là “rất rộng
rãi, cực kỳ đa dạng, rất mềm mỏng, khơng gị bó về quy định lễ tân, có thể đi đầu, đi
trước tại những nơi mà ngoại giao nhà nước chưa thể triển khai”. [34, tr 27]
Nhiệm vụ của ngoại giao nhân dân là vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các
chủ trương, chính sách hịa bình, hữu nghị, đồn kết và hợp tác giữa Việt Nam với các
nước, đồng thời tuyên truyền, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối
với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta.
Thành phố Hồ Chí Minh tuy có lịch sử hình thành và phát triển muộn hơn so với
các tỉnh thành khác trong cả nước, tuy nhiên do có các điều kiện tự nhiên và xã hội
thuận lợi, nên có những bước phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong hai trung tâm
kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế của cả nước. Bên cạnh
hoạt động kinh tế, các hoạt động ngoại giao ở đây cũng hết sức sơi nổi, đóng góp một
vị trí và vai trị quan trọng trên nhiều khía cạnh. Thứ nhất, giúp tăng cường tình hữu


5

nghị, đoàn kết với nhân dân các nước bạn trong khu vực và trên thế giới. Thứ hai, giúp
tăng cường sự hợp tác phát triển trên mọi mặt kinh tế - văn hóa – khoa học kỹ thuật.
Thứ ba, giúp tăng cường mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực từ thiện, an sinh, xã hội
… Chính vì vậy, việc tìm hiểu các hoạt động ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí
Minh góp phần làm rõ thêm các vấn đề khoa học và thực tiễn sâu sắc tại một thành phố
lớn và năng động nhất nước.
Mục tiêu của luận văn là làm rõ quá trình phát triển của hoạt động ngoại giao
nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng thơng
qua các giai đoạn phát triển ở từng thời kỳ cũng như các mặt của hoạt động ngoại giao
nhân dân, bao gồm các hoạt động hữu nghị cũng như các hoạt động với các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi và cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi. Từ đó, thấy được sự
đóng góp của ngoại giao nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, xã hội của thành phố nói riêng cũng như của cả nước.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước hết phải kể đến những cơng trình viết về hoạt động ngoại giao nói chung
như cuốn Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 –
1975) của Học viện Quan hệ quốc tế Hà Nội. Bằng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic, tác giả đã khái quát cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao qua ba thời kỳ
cách mạng của dân tộc gồm: đấu tranh ngoại giao trong thời kỳ giữ vững và củng cố
nhà nước cách mạng non trẻ (8/1945 – 12/1946), ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1947 – 1954) và cuối cùng là ngoại giao trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975).
Cuốn sách của Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh, là tập hợp các bài tham luận trong hội thảo khoa học cùng tên. Cuốn sách gồm 4
phần đã lần lượt nêu được những nét chính của nền ngoại giao Việt Nam, những ý kiến
đánh giá cũng như bản chất của nền ngoại giao Việt Nam là hịa hiếu, “lấy chí nhân để


6

thay cường bạo”. Từ đó, các tác giả khẳng định cần phải biết phát huy những giá trị
của ngoại giao Việt Nam truyền thống trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó là các cơng trình viết về ngoại giao nhân dân, trước tiên phải kể
đến các bài viết trên các tạp chí. Tạp chí đối ngoại có một số bài viết như tác giả Phạm
Thế Vĩnh với bài Cơng tác đối ngoại nhân dân một năm nhìn lại, tác giả Đỗ Hoàng
Long với bài Đối ngoại nhân dân hội nhập và phát triển, Phạm Văn Chương với bài
Đối ngoại nhân dân một nhịp cầu, Hà Văn Núi với bài Mặt trận tổ quốc Việt Nam với
hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nguyễn Văn
Huỳnh với bài Đối ngoại nhân dân đa phương – bước trưởng thành mới, Trương Tấn
Sang với bài Tăng cường đối ngoại nhân dân là chiến lược lâu dài của Đảng và nhà
nước ta. Phạm Hoài Giang với bài Mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế vì
bình đẳng giới, phát triển và hịa bình.
Trên tạp chí Lý luận chính trị có một số bài viết như tác giả Nguyễn Thanh Bình

với bài viết Vai trị của hội, tổ chức phi chính phủ trong đổi mới và phát triển đất
nước, tác giả Nguyễn Hải với bài Vai trò và hạn chế của các tổ chức phi chính phủ.
Ngồi các bài viết trên các tạp chí cịn có sách của các tác giả. Tiến sĩ Nguyễn
Thị Thanh Thủy với cơng trình luận án tiến sĩ của mình về hoạt động đối ngoại nhân
dân của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam đã được chuyển thành sách Ngoại giao nhân
dân trong quan hệ đối ngoại của Mỹ . Cuốn sách làm nổi bật những điểm khác biệt cơ
bản cũng như những ưu thế vượt trội của hoạt động ngoại giao nhân dân tại Mỹ so với
ở các quốc gia khác. Đặc biệt, tác giả cũng nhấn mạnh tới hoạt động ngoại giao nhân
dân mà Mỹ đã thực hiện ở Việt Nam và đúc kết những bài học cụ thể cho hoạt động
đối ngoại nhân dân ở Việt Nam.
Ngoài ra Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam có xuất bản cuốn sách Hoạt
động đối ngoại nhân dân Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
2003. Cuốn sách cho người đọc thấy những nhận thức ban đầu cơ bản và hệ thống về
hoạt động ngoại giao nhân dân Việt Nam, từ lý luận đến thực tiễn đấu tranh của nhân


7

dân ta. Nội dung của cuốn sách giúp người đọc hiểu được vai trò và hoạt động đối
ngoại nhân dân từ năm 1945 đến nay. Đó là những hoạt động hữu nghị và phong trào
hịa bình trên thế giới và ở Việt Nam cũng như về hoạt động phi chính phủ trong công
cuộc giảm nghèo và phát triển ở nước ta.
Thêm vào đó, các ấn phẩm viết về thành phố Hồ Chí Minh có thể kể đến như:
Thành phố Hồ Chí Minh hai mươi năm (1975 - 1995) do Ban thường vụ Thành ủy
(Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam) thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1995, nhân
kỷ niệm 20 năm ngày thành phố Hồ Chí Minh được giải phóng. Qua các bài viết, các
tác giả đã tái hiện sự thay đổi, phát triển của thành phố trong hai thập kỷ kể từ sau ngày
miền Nam hoàn toàn giải phóng về tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị,
ngoại giao. Trong đó cơng trình nghiên cứu của tác giả Võ Anh Tuấn về công tác ngoại
giao nhân dân của thành phố Hồ Chí Minh đã tóm tắt những nét nổi bật của hoạt động

ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh trong hai mươi năm, từ 1975 đến 1995.
Năm 1998, nhân kỷ niệm Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh 300 tuổi (1698 –
1998), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, nay là Viện
Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với Sở Văn hóa Thơng tin
thành phố tổ chức hội thảo khoa học: “300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh”.
Hội thảo đã tập hợp được 156 bài báo cáo khoa học, tập trung vào bốn vấn đề có quan
hệ mật thiết với nhau, gồm: tiến trình lịch sử văn hóa vùng Gia Định – Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh, giao lưu và hội nhập văn hóa của vùng đất này, các dạng thức
hoạt động và giá trị văn hóa, con người Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh, và cuối
cùng là những vấn đề văn hóa, con người thành phố Hồ Chí Minh. Trong số đó bài
tham luận Người Việt Nam ở nước ngồi nhìn từ góc độ Thành phố Hồ Chí Minh của
PGS.TS. Trần Trọng Đăng Đàn, nhìn nhận người Việt Nam ở nước ngồi có mối liên
hệ khăng khít với thành phố Hồ Chí Minh và một phần lớn trong số đó ra đi từ thành
phố Hồ Chí Minh. Tác giả cũng khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ
phận quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa của thành phố.


8

Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan đầu mối của
hoạt động ngoại giao nhân dân ở thành phố, cũng đã xuất bản cuốn sách tựa đề “20
năm Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh 1989 – 2009”. Đây là
cơng trình tập hợp các bài viết về hoạt động ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí
Minh. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các tác giả xoay quanh ba vấn đề chính. Thứ
nhất, với nội dung tổng kết, đánh giá và phản ánh hoạt động vì hịa bình, đồn kết, hữu
nghị, hợp tác phát triển của Liên hiệp và các hội thành viên trên lĩnh vực ngoại giao
nhân dân trong suốt 20 năm qua. Thứ hai, là những kỷ niệm khó quên tập hợp các bài
viết của các tác giả đã từng và hiện đang công tác trên lĩnh vực ngoại giao nhân dân
qua các thời kỳ lịch sử. Thứ ba là các bài viết về bạn bè quốc tế đã và đang đóng góp
cho sự phát triển của thành phố, vun đắp tình hữu nghị với nhân dân thành phố.

Tháng 9 năm 2011, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh có
tổ chức hội thảo chuyên đề: “Tăng cường và nâng cao hiệu quả ngoại giao nhân dân
trong tình hình mới”. Tài liệu của hội thảo chưa được xuất bản thành sách và phát
hành, chỉ lưu hành trong nội bộ, nhưng đã có những giá trị nghiên cứu bước đầu về vai
trò của ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh đặt trong bối cảnh mới.
Tác giả Phạm Chí Dũng với cơng trình Viện trợ phi chính phủ nước ngoài con
cá hay cần câu được xuất bản bởi nhà xuất bản Thông Tấn năm 2006. Lấy bối cảnh là
thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã có một cái nhìn tồn cảnh về cơng tác phi chính phủ
nước ngồi ở thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên tác giả chủ yếu tiếp cận vấn đề trên
khía cạnh quản lý việc viện trợ phi chính phủ nước ngồi, những vấn đề đã làm được
và những mặt còn hạn chế.
Như vậy có thể nói rằng có khơng ít tác phẩm viết về thành phố Hồ Chí Minh
cũng như viết về nền ngoại giao Việt Nam, và rải rác có các bài viết về hoạt động đối
ngoại nhân dân của Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay có thể khẳng định rằng có rất ít cơng
trình nghiên cứu về ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì thế, việc
nghiên cứu về ngoại giao nhân dân nói chung vẫn là một lĩnh vực mới mẻ trong hoạt


9

động nghiên cứu lịch sử. Đặc biệt, ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn
cịn khá trống vắng các cơng trình nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các hoạt động
ngoại giao nhân dân, bao gồm các hoạt động hữu nghị, các hoạt động với các tổ chức
phi chính phủ nước ngồi và cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi ở thành phố Hồ
Chí Minh chủ yếu thơng qua cơ quan đầu mối là Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành
phố Hồ Chí Minh (trước đó là Ủy ban đồn kết và hữu nghị với nhân dân các nước).
Ngoài ra, trong khả năng có hạn, tác giả sẽ cố gắng làm rõ các hoạt động ngoại giao
nhân dân của các tổ chức như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, các trường đại học… để

làm phong phú hơn hoạt động ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian: luận văn nghiên cứu các hoạt động ngoại
giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 1975 – 2010
Về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là thành phố Hồ Chí
Minh theo cơ cấu hành chính hiện nay.
4.

Nguồn tài liệu

Để làm luận văn này tác giả đã dựa vào các nguồn tài liệu chủ yếu sau
Tài liệu “kinh điển”, bao gồm: các văn kiện Đảng, Hồ Chí Minh tồn

-

tập… cung cấp những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn của Đảng, nhà nước về
hoạt động ngoại giao nhân dân.
-

Tài liệu từ Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh, bao

gồm các báo cáo tổng kết hoạt động của Liên hiệp hàng năm, từng giai đoạn, tài liệu từ
các hoạt động của Liên hiệp như Kỷ yếu hội thảo 10 năm của Liên hiệp, kỷ yếu hội
thảo 20 năm của Liên hiệp, hội thảo về tăng cường và nâng cao hiệu quả ngoại giao
nhân dân trong tình hình mới.
-

Các văn bản chỉ thị có liên quan của Trung ương và của thành phố về

hoạt động ngoại giao nhân dân.



10

-

Những cơng trình đã nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến luận

văn như nguồn sách, báo, luận văn được lưu trữ ở Thư viện Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Thư viện Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội
thành phố Hồ Chí Minh.
-

Ngồi ra một nguồn tư liệu quan trọng khác được khai thác từ các nhân

chứng, những người đã từng hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao nhân dân ở thành phố
Hồ Chí Minh
5.

Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Phương pháp lịch sử và phương
pháp logic là hai phương pháp chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình làm luận văn
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp: Trên cơ sở các báo cáo
tổng kết của từng năm công tác ngoại giao nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, các báo
cáo hoạt động trên từng lĩnh vực, tác giả phân tích và tổng hợp theo từng nội dung để
làm rõ hoạt động ngoại giao nhân dân ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp phỏng vấn, hồi cố: Tác giả tiến hành phỏng vấn các nhân
chứng sống để thu thập thêm thông tin, làm phong phú nguồn tư liệu phục vụ luận văn
6.


Đóng góp của luận văn

+ Ý nghĩa khoa học: luận văn góp phần làm rõ thêm hoạt động ngoại giao nhân
dân ở thành phố Hồ Chí Minh, vốn được coi là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật và hợp tác quốc tế của cả nước, một lĩnh vực vẫn còn mờ nhạt trong các nghiên
cứu trước đây. Từ kết quả đó, có thể thấy được một bức tranh tương đối toàn diện hoạt
động ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí Minh.
+ Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp cứ liệu lịch sử giúp cho cơ quan hữu
quan tham khảo và hoạch định chiến lược, giải pháp phát triển đối với các hoạt động
ngoại giao nhân dân nhằm phát huy cao độ vai trò, hiệu quả của hoạt động này
7.

Bố cục của luận văn

Bố cục của luận văn gồm những phần sau:


11

Phần mở đầu trình bày những vấn đề chung có liên quan đến đề tài như: Lý do
chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
vấn đề…
Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Trình bày khái quát tình hình ngoại giao nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh trước 1975, trong đó trình bày các phần như tổng quan về thành phố Hồ Chí
Minh với vai trị là một đầu cầu quốc tế quan trọng trong công tác ngoại giao nhân dân
của Việt Nam. Phần này cũng phác thảo vài nét về ngoại giao nhân dân của thành phố
Sài Gòn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Chương 2: Trình bày cơng tác ngoại giao nhân dân của Sài Gịn - Thành phố
Hồ Chí Minh từ 1975 đến 1989. Trong đó, chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một từ

1975 đến 1977, giai đoạn hai từ 1977 đến 1989. Đồng thời, sẽ tìm hiểu một cách tổng
quan về Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh bao gồm các tổ chức
tiền thân, cơ cấu tổ chức cũng như các hoạt động ngoại giao ban đầu của tổ chức này.
Chương 3: Các hoạt động ngoại giao nhân dân của thành phố Hồ Chí Minh từ
1989 đến 2010, trong đó, tác giả cũng chia ra các hoạt động hịa bình hữu nghị, các
hoạt động với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi ở thành phố Hồ Chí Minh, bên
cạnh đó cơng tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng là một phần quan trọng của hoạt
động ngoại giao nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Phần kết luận: Tổng kết các hoạt động ngoại giao của thành phố Hồ Chí Minh
trong hơn 30 năm từ 1975 đến 2010, các thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra một số nhận
xét về đặc điểm và vai trò của hoạt động ngoại giao nhân dân ở thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn 1975 - 2010.


12

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO NHÂN DÂN
Ở SÀI GỊN TRƯỚC NĂM 1975

1.1

Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh: Đầu cầu đối ngoại quan trọng của

Việt Nam
1.1.1 Địa lý tự nhiên và nhân văn ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí
Minh
- Địa lý tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở phía Nam lãnh thổ Việt Nam, thuộc vùng Đơng
Nam bộ, có tọa độ địa lý là 10010’ - 10038’ vĩ độ Bắc và 106022’ - 106054’ kinh độ

Đơng, với diện tích 2.095 km2, chiếm 0,76% diện tích tồn quốc. Dân số thành phố là
7.123.340 người chiếm 8,30% dân số Việt Nam (năm 2009). Phía Tây của thành phố
giáp với Long An, Tiền Giang, phía Tây Bắc giáp với Tây Ninh, phía Đơng Bắc giáp
với Bình Dương, phía Đơng giáp với Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, và phía Nam giáp
với biển Đơng.
Với vị trí địa lý như trên, thành phố Hồ Chí Minh nằm hồn tồn trong vùng
nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt cao và độ ẩm lớn. Hằng năm có hai mùa
rõ rệt: mùa khơ từ đầu tháng 11 đến tháng 4 năm sau, và mùa mưa đến từ tháng 5 đến
tháng 10. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 270c, nóng nhất vào tháng 4 và mát nhất vào
tháng 12 và tháng 1. Độ ẩm trung bình hằng năm là 82%, lượng mưa trung bình
khoảng 1.900mm nhưng phân bố không đồng đều từ Tây sang Đông. Thành phố Hồ
Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc –
Ðơng Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa
mưa từ tháng 6 đến tháng 10. Gió Bắc – Ðơng Bắc từ biển Đơng, tốc độ trung bình 2,4


13

m/s, vào mùa khô thổi từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Ngồi ra cịn có gió tín phong
theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5.
Về địa hình, thành phố nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam bộ và
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Đơng sang
Tây, chia thành ba tiểu vùng địa hình: 1/Vùng đất trũng, phía Nam - Tây - Nam như
các quận 7, 8, 9, huyện Bình Chánh, huyện Nhà Bè, huyện Cần Giờ. Vùng trung bình
có độ cao 1m, cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m. 2/Vùng có độ cao trung bình phân bố ở
khu vực trung tâm thành phố, gồm phần lớn nội thành và một phần các quận 2, Thủ
Đức và quận 12, huyện Hóc Mơn, cao trung bình 5 - 10m. 3/Vùng cao, nằm phía Bắc Đơng - Bắc và một phần Tây - Bắc (Bắc huyện Củ Chi, Đông Bắc quận Thủ Đức và
quận 9) với dạng địa hình lượn sóng, độ cao trung bình từ 10 - 25m, xen kẽ có gị đồi,
nơi cao nhất 32m như gị đồi Long Bình quận 9.
Ngồi ra, hệ thống sơng ngịi cũng là một trong những yếu tố quan trọng của

thành phố, là một phần châu thổ của sông Sài Gịn và sơng Đồng Nai. Trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh có hàng trăm sơng ngịi, kênh rạch, nhưng sơng lớn khơng
nhiều. Lớn nhất là sơng Sài Gịn mà đoạn chảy qua thành phố dài 106km. Sơng Sài
Gịn bắt nguồn từ Campuchia, chảy vào Lộc Ninh (Bình Phước), tạo thành hồ Dầu
Tiếng giữa tỉnh Tây Ninh và tỉnh Bình Dương, rồi vào địa phận thành phố Hồ Chí
Minh. Sơng Sài Gịn hợp với sơng Đồng Nai làm thành sông Nhà Bè. Từ xã Phú Xuân,
huyện Nhà Bè, sông Nhà Bè chia hai nhánh thành sơng Sồi Rạp và sơng Lịng Tàu.
Sơng Lịng Tàu chảy qua sơng Ngã Bảy rồi đổ ra biển Đơng - Thái Bình Dương. Sơng
Sài Gịn có lịng sơng sâu (10-15m), vì thế tàu bè có thể ra vào cảng Sài Gịn dễ dàng.
Hệ thống đường sơng từ thành phố Hồ Chí Minh lên miền Đông và xuống các tỉnh
miền Tây, sang Campuchia đều thuận lợi. Thành phố có 15km bờ biển.
- Địa lý nhân văn
Với vị trí địa lý có nhiều thuận lợi nằm trong khu vực khí hậu ấm áp, ơn hịa ít
bão, lượng mưa hằng năm cao, lượng nhiệt mặt trời lớn nên từ xưa vùng Sài Gòn đã là


14

nơi trù phú “chim trời cá nước” thu hút và hấp dẫn dân nhập cư từ nhiều nơi đến sinh
sống, lập nghiệp.
Cách đây khoảng 3.000 – 4.000 năm trên vùng đất này đã có những nhóm cư
dân cổ sinh sống với nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho đến thời kỳ kim khí.
Những cư dân cổ từng sinh sống trên vùng đất Sài Gòn từ nhiều thiên niên kỷ trước đã
biết canh tác nông nghiệp và bắt đầu chinh phục vùng đất thấp ở phía Nam và phía
Đơng Nam. Lúc bấy giờ cuộc sống con người ở đây hết sức tự do, khơng có lãnh thổ
quốc gia, khơng có địa giới hành chính và cũng chưa có khái niệm về vùng đất "Sài
Gòn”.
Mãi đến giữa thế kỷ 17, vào thời Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) được đặc
quyền cai trị đất Đàng trong, công cuộc di dân người Việt đến khai phá vùng đất mới
phía Nam mới bắt đầu. Vùng đất Sài Gòn, lúc bấy giờ ở vị thế trung tâm vùng đất mới,

thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, là một trong những nơi mà nhóm dân cư Việt đầu
tiên đến đây định cư
Đến năm 1623, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt trạm thu thuế thương chính
đầu tiên tại Sài Gòn và Bến Nghé. Đây là dấu hiệu ban đầu xuất hiện hình thức kiểm
sốt của nhà nước trên vùng đất Sài Gòn xưa.
Tháng 3 năm 1679, Chúa Nguyễn lại cho lập đồn binh Tân Mỹ (vùng chợ Thái
Bình, quận I ngày nay). Quyền lực nhà nước của Chúa Nguyễn được áp đặt vào vùng
đất mới phía Nam chuẩn bị cho việc hình thành bộ máy cai trị. Cho đến thời điểm này,
vùng đất mới phía Nam vẫn chưa phân định địa giới hành chính. Song Sài Gịn đã giữ
vị trí trung tâm vì quyền lực cai trị vùng đất phía Nam tập trung ở đây.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, cha ông ta đã vượt núi, rừng, sông, biển, đấu tranh
chống lại các loại thú dữ, rắn độc… để tìm được một mảnh đất liền dải với quê hương
cũ, tạo lập được cuộc sống qua những năm tháng cực kỳ gian khổ. Mảnh đất phía Nam
đầy phù sa, bằng phẳng, thuận tiện cho giao thông thủy lại nằm trên một vị trí ba mặt
giáp biển, lượng mưa và nắng hàng năm dồi dào, thời tiết nói chung ít khắc nghiệt,


15

thuộc ngã tư đường hàng hải quốc tế… Vùng đất này vừa hội tụ nhiều điều kiện ưu đãi
của thiên nhiên, lại vừa được khai phá dồn dập vài trăm năm trở lại đây, nên khi trở
thành lãnh thổ của Đại Việt, Sài Gịn đã sớm hình thành nền sản xuất hàng hóa. Sài
Gịn khơng chỉ là vùng có nền thương mại dịch vụ phát triển mạnh mà còn là nơi cung
cấp vật dụng tiểu thủ công, chế biến nông sản, dịch vụ từ xưa đến nay.
1.1.2 Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh: Cửa ngõ quan trọng của Việt Nam
- Về chính trị, quân sự
Vào những thế kỷ đầu cơng ngun, vùng Sài Gịn thuộc lãnh thổ vương quốc
Phù Nam. Đến thế kỷ thứ 7, Phù Nam suy yếu và bị Chân Lạp thơn tính. Sài Gịn trở
thành vùng đất phụ thuộc Chân Lạp.
Đến thế kỉ 17, nhờ cuộc hơn nhân mang tính chất chính trị giữa cơng chúa Ngọc

Vạn (con gái chúa Nguyễn Phúc Ánh) với vua Chân Lạp Chey Chettha II (1618-1686),
người Việt bước đầu sở hữu vùng đất Sài Gòn. Nhà vua Chân Lạp, để trả ơn cha vợ, đã
cho Chúa Nguyễn lập hai đồn thu thuế ở Sài Gòn là Kas Brobei và Brai Nokor (1623).
Việc lập hai đồn thu thuế đó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chủ quyền ban
đầu của người Việt trên vùng đất mới. Theo chân công chúa Ngọc Vạn, các cư dân
Việt bắt đầu đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới trù phú và hứa hẹn về một cuộc
sống sung túc hơn. Có thể nói cuộc hơn nhân mang tính chất chính trị này là bước nhận
thức đầu tiên của người Việt về vị thế, tầm quan trọng của vùng đất Sài Gòn.
Đến thế kỷ XIX, Sài Gòn đã phát triển tương đối mạnh mẽ và được các thương
gia phương Tây chú ý. Vị trí Sài Gịn có những điều kiện tự nhiên rất thuận lợi về mặt
giao thơng hàng hải, thương mại. Đó là một lý do quan trọng khiến quân Pháp quyết
định thay đổi kế hoạch tiến công ra Bắc thay bằng đánh chiếm Sài Gòn làm bàn đạp
chiếm miền Nam và toàn Việt Nam cũng như ảnh hưởng của Pháp ở tồn khu vực viễn
Đơng. Vào thời điểm ấy mặc dù qn Pháp khơng q mạnh, nhưng Pháp lại khơng
mấy khó khăn trong việc chiếm Sài Gịn vì triều Nguyễn lúc bấy giờ thiếu quyết đoán
trong việc chống Pháp. Đến tháng 2-1859, việc chiếm đóng Sài Gịn của qn Pháp coi


16

như hồn tất. Có được Sài Gịn thì việc chiếm miền Nam và toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
chỉ là vấn đề thời gian. Chiếm Sài Gòn xong, Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch biến
thành phố này thành thủ phủ ở khu vực phía Nam, xây dựng Sài Gịn như một trung
tâm của ba tỉnh miền Đông Nam bộ. Chừng năm năm sau đó, Sài Gịn là thủ phủ của cả
Nam Kỳ lục tỉnh. Nơi đây trở thành trung tâm chính trị quan trọng của Pháp để ni
dưỡng và thực hiện những âm mưu lâu dài của chúng.
Đến thời Mỹ thống trị, Mỹ đã dùng thành phố này làm thủ đơ của Chính quyền
Việt Nam Cộng hịa từ vĩ tuyến 17 trở vào. Mỹ đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự để
bảo vệ các cơ quan đầu não chính trị, qn sự. Các cơng sở trước kia của Pháp được
đổi thành trụ sở các cơ quan trung ương của chế độ Ngơ Đình Diệm. Thế chân Pháp,

Mỹ cũng dùng Sài Gòn như một thành phố quan trọng về chính trị, quân sự để thực
hiện âm mưu chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Sài Gịn được
đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh (1/1976). Nghị quyết 01 (1982) của Bộ Chính trị
nhận định: "Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí chính trị sau Thủ đơ Hà Nội"... Thành
phố Hồ Chí Minh có "những điều kiện khách quan đặc biệt thuận lợi mà không một
tỉnh, thành phố nào khác ở nước ta quy tụ được nhiều ưu thế như vậy.
- Về kinh tế
Do những điều kiện tự nhiên khí hậu, đất đai, sơng ngịi, thủy văn mà vùng đất
mang tên Sài Gòn xưa kia đã sớm trở thành một trung tâm quần cư do đảm bảo được
cuộc sống ổn định cho lưu dân người Việt trong điều kiện khai thác tự cấp tự túc.
Triển vọng của Sài Gòn thấy được từ những điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài
nguyên phong phú, các vùng hậu phương đầy hứa hẹn, với nguồn nhân lực dồi dào,
tiềm năng nông nghiệp to lớn đa dạng của cả miền Đông lẫn miền Tây Nam bộ. Dưới
triều Nguyễn, do thái độ bảo thủ, quá sùng bái các chuẩn mực của văn hóa Trung Hoa,
nhà Nguyễn khơng thấy được những triển vọng của Sài Gịn. Cho nên sau này khi bị
thực dân Pháp chiếm đóng, với kinh nghiệm khai thác thuộc địa từ thế kỷ XVIII, chỉ


17

trong vòng vài năm, Sài Gòn đã trở thành một trung tâm kinh tế, tạo động lực vực dậy
sự phát triển trên toàn cõi Nam kỳ. Dưới thời Pháp, Sài Gòn được xem là nơi cung cấp
nguồn lương thực cho cả nước và cũng là trung tâm buôn bán ngay giữa một vùng phì
nhiêu nhất, cùng điều kiện tự nhiên rất thuận lợi về mặt giao thông hàng hải, thương
mại.
Trong thời Pháp thuộc, hoạt động xuất nhập khẩu là một trong số các hoạt động
chính thu lợi nhuận về cho Pháp. Hoạt động này là một trong số ít nguồn thu chính yếu
của thuộc địa. Như vậy cho đến giữa thập niên 60 của thế kỷ XIX Sài Gòn thực sự là
một thành phố thương mại phồn thịnh, một thương cảng có sức thu hút mạnh, có đủ

điều kiện bước vào cuộc đua tranh với các đô thị lớn ở khu vực Đông Nam Á thời bấy
giờ như Singapore, Batavia (Jakarta, Indonesia), Manila (Philippines).
Thời này, Sài Gòn đổi thay mau chóng trở thành "Hịn ngọc Viễn Đơng", và là
“cái vịi bạch tuộc” của thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, sản vật của Việt Nam.
Dưới thời Mỹ, kinh tế của Sài Gòn phát triển khá nhanh theo chiều hướng kinh
tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa nhưng khơng ổn định tùy theo từng thời kỳ và những giai
đoạn viện trợ khác nhau của Mỹ, cũng như tình hình trên chiến trường mà nền kinh tế
Sài Gịn có những thăng trầm.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay càng chứng tỏ là nơi hoạt động kinh tế năng
động nhất, đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế với tốc
độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. Tỷ trọng GDP của
thành phố chiếm 1/3 GDP của cả nước. Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng
Kinh tế trọng điểm phía Nam và trung tâm đối với vùng Nam Bộ.
- Về văn hóa, xã hội
Về văn hóa, Sài Gòn là nơi hội tụ của nhiều dòng văn hóa khác nhau đến từ mọi
miền đất nước, cũng như nhiều nơi trên thế giới. Nền văn hóa cổ xưa nhất ở Sài Gịn
chính là văn hóa của đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ đến văn hóa bản địa của cư dân Nam


18

bộ. Ngồi ra văn hóa Hán vùng Nam sơng Dương Tử của những cư dân nhập cư cũng
đã tạo thành một bộ phận quan trọng của văn hóa Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh.
Sài Gịn dưới thời Pháp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa Pháp. Người
Pháp đến cai trị vùng đất Sài Gòn đã du nhập nền văn hóa của nước Pháp, đặc biệt là
văn hóa của miền Nam nước Pháp vào vùng đất này. Rất nhiều cơng trình kiến trúc
theo phong cách Pháp cổ điển còn tồn tại cho đến ngày nay như nhà thờ Đức Bà, phủ
Toàn quyền (nay là hội trường Thống Nhất), tòa án, Dinh Xã Tây (nay là Ủy ban Nhân
dân), các biệt thự, khu cư xá và chung cư…
Khi Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, chiếm đóng các đô thị, nơi đây đã xuất

hiện một loạt những dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của quân đội viễn chinh. Văn hóa Sài
Gịn lại biến đổi theo kiểu văn hóa Mỹ. Nhiều cao ốc, khách sạn, văn phịng sang trọng
được mọc lên nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở, nghỉ ngơi, giải trí cho sĩ quan, binh lính
Mỹ và qn đội Sài Gịn. Cũng chính trong giai đoạn này, văn hóa Sài Gịn được coi là
bị xuống cấp một cách trầm trọng. Tệ nạn xã hội phát triển tràn lan, văn hóa dân tộc
xuống cấp, đồi bại, các yếu tố truyền thống gắn với đời sống nhân dân từ ngàn đời
cũng nhanh chóng bị mất đi và thay vào đó là “văn hóa Mỹ”, “lối sống thực dụng của
Mỹ”. Thanh niên xa rời văn hóa truyền thống, bị chi phối bởi các yếu tố văn hóa lai
căng, thực dụng.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc hồn tồn thắng lợi,
thành phố Sài Gịn được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với q trình hội
nhập khơng ngừng, giao lưu phát triển văn hóa thành phố cũng có những thay đổi
mạnh mẽ. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là trung tâm lớn về văn hóa xã hội của cả
nước. Thành phố ẩn chứa trong mình nền văn hóa phong phú của mọi miền đất nước
cũng như nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới.
Như vậy với vị trí địa lý nhiều thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, Sài
Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh đã ln chứng tỏ được là trung tâm của các hoạt động


19

kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế quan trọng của khu vực phía
Nam của tổ quốc trong nhiều thế kỷ đã qua.
1.2

Hoạt động ngoại giao nhân dân ở Sài Gịn góp phần vào thắng lợi

của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
1.2.1 Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
Trong kháng chiến chống Pháp, ở Sài Gịn chưa có cơ quan phụ trách hoạt động

ngoại giao nhân dân. Hoạt động này được khởi xướng và tiến hành bởi lực lượng trí
thức yêu nước, mà thực chất là công tác vận động quốc tế, thông qua các hoạt động đấu
tranh trên lĩnh vực báo chí và các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đặc
biệt là học sinh, sinh viên ở đô thị. Thông qua các hoạt động này đã phần nào đã thu
hút được báo chí nước ngồi và tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam nói chung. Có thể kể
đến một số phong trào đấu tranh có tiếng vang lớn thu hút dư luận nước ngoài như sau:
Phong trào học sinh, sinh viên: Trong thời kì này, ở Sài Gịn có nhiều cuộc
đấu tranh của quần chúng nhân dân với nhiều hình thức khác nhau và đã có những tác
động nhất định đối với cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong đó, các cuộc đấu tranh của
học sinh, sinh viên Sài Gòn đã gây những tiếng vang lớn. Cuộc đấu tranh của học sinh
sinh viên trường Pétrus Ký năm 1950 dẫn đến cái chết của học sinh Trần Văn Ơn đã
làm xúc động nhiều thế hệ người Việt Nam đương thời. Báo chí Pháp ở Sài Gịn đưa
tin về đám tang Trần Văn Ơn, “Đám tang cậu Học sinh Trần Văn Ơn bị giết chết trong
cuộc biểu tình hơm thứ hai đã cử hành hồi sáng nay... Ước tính có 25.000 người mang
vơ số tràng hoa hợp từng đồn đại biểu đi theo quan tài chính từ tay Học sinh khiêng
đi từ nhà xác Chợ Lớn đến nghĩa địa”. [39, tr278,279]. Có thể nói rằng việc báo chí
Pháp đưa tin về một đám tang của một học sinh Việt Nam bị giết chết đã làm xúc động
nhiều người, nhất là người Pháp cả ở thuộc địa lẫn chính quốc. Phong trào đấu tranh
học sinh sinh viên được biết đến nhiều hơn, trở thành một đốm lửa trong ngọn lửa lớn
của phong trào cách mạng của Sài Gòn và cả nước thời kỳ này.


20

Sau cuộc đấu tranh ngày 9.1.1950, học sinh, sinh viên và đồng bào các giới ở
Sài Gòn – Chợ Lớn tiếp tục đấu tranh với các phong trào cứu tế đồng bào bị đốt nhà,
phong trào chống Mỹ can thiệp vào Việt Nam ngày 19 tháng 3, phong trào học sinh
người Hoa ở Chợ Lớn…
Các hoạt động đấu tranh này vừa có tác dụng đối với kẻ thù và quan trọng hơn

nó có tác dụng cổ vũ, khích lệ đối với một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân ở
trong nước cũng như ở nước ngồi và thậm chí cịn có tác dụng biểu thị tính chính
nghĩa đối với nhân dân ở chính quốc Pháp cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới giúp
đỡ và ủng hộ nhân dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, phong trào báo chí tiến bộ đã có vai trị quan trọng làm cho bạn
bè và nhân dân thế giới biết đến cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gịn nói riêng và
nhân dân Việt Nam nói chung.
Đầu năm 1946, trước những diễn biến chính trị diễn ra dồn dập, những người
viết báo yêu nước tại Sài Gịn vơ cùng nhạy bén đã phát động ngay một cuộc tập hợp
báo chí tiến bộ đấu tranh trực diện với Pháp nhằm phá vỡ âm mưu “chia để trị”.
“Phong trào báo chí thống nhất đã diễn ra tại Sài Gòn từ năm 1946 đến năm 1950.
Mặt trận báo chí liên tục tấn cơng vào thành trì Nam kỳ tự trị làm cho mặt trận này ra
đời chưa được mấy tháng thì “chao đảo”[74, tr 25]
Ngày 20.2.1946, tại Dinh xã Tây (nay là trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh),
một cuộc họp báo quan trọng đã diễn ra với sự có mặt của 70 người Pháp. Thành phần
của những người Pháp này gồm có nhóm văn hóa Mac-xit, đảng viên Đảng Xã hội
Pháp (SFIO), còn lại là một số người Pháp thuộc phe cấp tiến. Cuộc họp đã đi đến
thống nhất một bản kiến nghị với đầy đủ chữ ký của những người tham gia với nội
dung là xin chính phủ Pháp trao trả lại nền độc lập cho nhân dân Việt Nam, chính phủ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hỗ trợ cho bản kiến nghị này, các báo tiếng Pháp như Lendemains, Justice, Sud
đã cực lực lên tiếng phản đối thuyết phân ly của nhà cầm quyền Pháp. Mặt khác, các


21

báo Pháp này còn thẳng thắn bày tỏ thái độ ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hịa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Báo tiếng Việt tham gia vào mặt trận báo chí thống nhất đấu tranh cho độc lập
gồm có các tờ: Việt Báo, Chng Báo, Tương lai, Tin Điển, Việt Bút. Càng về sau thì

càng thu hút nhiều tờ báo tham gia vào như Báo Kiến Thiết của luật sư Lê Quang
Tường, Báo Tân Tiến của bác sĩ Lê Quang Trinh, báo Nước Nhà của giáo sư Trần Cửu
Chấn, báo Việt Nam của ông Võ Thành Cứ, báo Cộng Đồng của ông Lê Văn Trường.
Báo Ánh Sáng của ông Lê Khê (Trương Văn Em)
Cuộc đấu tranh của phong trào báo chí mang ý nghĩa lớn lao là một cuộc đấu
tranh cho tự do dân chủ, cho tự do báo chí, góp phần vào thắng lợi chung của mặt trận
ngoại giao nhân dân của thành phố Hồ Chí Minh.
Các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và phong trào báo chí tiến bộ
trong nước phát triển đã phần nào tác động đến phong trào đấu tranh của nhân dân tiến
bộ trên thế giới đấu tranh để giành lại công bằng cho nhân dân Việt Nam. Trước tiên là
nhân dân Pháp đã đấu tranh đòi chính phủ Pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thúc
đẩy việc hình thành trên thực tế mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt
Nam. Nội dung và hình thức đấu tranh rất phong phú: biểu tình địi chính phủ Pháp
chấm dứt tranh, đình cơng khơng sản xuất, bốc dỡ vũ khí và phương tiện chiến tranh
đưa sang Đơng Dương, vứt vũ khí xuống biển. Trong thời gian Hội nghị Giơ-ne-vơ
giữa năm 1954, nhân dân Pháp đấu tranh địi Chính phủ Pháp đàm phán thật sự và sớm
ký hiệp định đình chiến ở Đơng Dương.
Trong phong trào nhân dân thế giới ủng hộ và đoàn kết với Việt Nam, nhân dân
các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng.
Bên cạnh sự ủng hộ mạnh mẽ về tinh thần và chính trị, nhân dân hai nước đã dành cho
nhân dân ta sự ủng hộ lớn về vật chất.
Nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là các nước thuộc
địa của Pháp, các nước mới giành được độc lập dân tộc, các lực lượng hịa bình, dân


22

chủ trên thế giới, kể cả một bộ phận nhân dân Mỹ đã đồng tình, ủng hộ nhân dân ta
kháng chiến. Mặt khác, phong trào giải phóng dân tộc rộng lớn của nhân dân các nước
Á, Phi, Mỹ Latinh chống chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới trong thời

gian nhân dân ta kháng chiến cũng là nguồn cổ vũ và hỗ trợ quốc tế to lớn đối với nhân
dân ta.
Như vậy cùng với ngoại giao cả nước, cơng tác ngoại giao nhân dân ở Sài Gịn
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại trong
kháng chiến, vận động quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước
đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, ngoại giao nhân dân ở Sài Gịn đã góp phần nêu cao tính chính nghĩa,
nhân đạo và triển vọng nhất định thắng lợi trong cuộc kháng chiến của nhân dân Sài
Gịn nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, vạch rõ tính chất phi nghĩa, tàn bạo và
triển vọng nhất định thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Thứ hai là làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ nhân dân Việt Nam, giữ vững
đường lối độc lập, tự chủ, tự lực tự cường đồng thời rất coi trọng đoàn kết quốc tế. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”, và Người giải thích với nhân
dân thế giới “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù
ốn với một ai”; “chúng tôi bao giờ cũng trông cậy vào chúng tôi và vào cái cảm tình
tích cực của các người dân chủ thế giới, trước hết của các người dân chủ Pháp [30;
tr.56,57]
Thứ ba, góp phần khẳng định cuộc kháng chiến của nhân dân Sài Gòn, một bộ
phận của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, là để
bảo vệ nền độc lập, tự do và giành lại hịa bình cũng giống như cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.2.2 Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,
Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách


×