Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Lục bát đương đại việt nam qua một số tác giả tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.92 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA: VĂN HỌC VÀ NGƠN NGỮ

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2013

Tên cơng trình: Lục bát đương đại Việt Nam qua một số tác giả tiêu biểu
Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm: Lê Đức Hoàng Vân, lớp Văn học và Ngơn ngữ, khóa 2011 – 2015
Người hướng dẫn: T.S Lê Thị Thanh Tâm, giảng viên khoa Văn học và Ngôn ngữ


MỤC LỤC

TÓM TẮT ĐỀ TÀI ................................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THƠ LỤC BÁT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM ........................................ 10
1.1. Khái quát nguồn gốc, đặc điểm lục bát truyền thống .................................................................... 10
1.2. Diện mạo thơ lục bát đương đại nhìn từ một số hiện tượng sáng tác chính ................................... 22
TIỂU KẾT ............................................................................................................................................ 37
CHƯƠNG 2: LỤC BÁT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ GĨC NHÌN CÁCH TÂN................................ 38
2.1 Các dịng lục bát chính trong lịch sử thơ hiện đại Việt Nam.......................................................... 38
2.2. Những cách tân đáng chú ý của lục bát đương đại Việt Nam ....................................................... 44
CHƯƠNG 3 LỤC BÁT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU .................. 66
3.1 Nguyễn Duy ................................................................................................................................ 66
3.2 Mai Văn Phấn .............................................................................................................................. 76
3.3 Nguyễn Trọng Tạo....................................................................................................................... 82
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 95



1

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Đề tài “Lục bát đương đại Việt Nam qua một số tác giả tiêu biểu” tập trung
đi sâu vào nghiên cứu, lí giải đặc điểm của lục bát hiện đại, những biểu hiện cách
tân về nội dung cũng như nghệ thuật của lục bát trong thế kỷ mới. Từ những đặc
điểm này, chúng tôi quy chiếu vào các nhà thơ đương đại, cụ thể là 3 nhà thơ lục
bát tiêu biểu là Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo và Mai Văn Phấn để làm rõ
phong cách lục bát của các ơng. Qua đó, chúng tơi muốn phác thảo nên bức tranh
lục bát đương đại giữa dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam, làm nổi bật sức sống
trường tồn của lục bát.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thơ lục bát là thể thơ truyền thống, kết tinh những tinh hoa và bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu thơ lục bát ở thời nào cũng là quí. Nghiên
cứu lục bát đương đại sẽ mở ra nhiều cách nhìn về sức sống của thể loại này trong
tiến trình văn học nước ta. Đề tài cố gắng trả lời câu hỏi: Làm thế nào mà một thể
loại truyền thống có thể chứa đựng những nội dung đương đại, và cách mà nó chứa
đựng nội dung ấy sẽ mang đến những diện mạo mới nào cho chính nó? Đề tài
thành cơng sẽ là một ghi nhận về đóng góp của các nhà thơ đương đại đối với việc
thưởng thức, kế thừa, bảo tồn vốn quí của di sản tinh thần dân tộc.
Mặt khác, thơ lục bát trong bối cảnh so sánh với các tinh hoa thơ ca khu vực
cũng là một hướng nghiên cứu rộng rãi, khẳng định rõ hơn giá trị của nền thơ Việt
Nam thông qua thể loại lục bát.


2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài “Lục bát đương đại Việt Nam qua một số tác giả tiêu biểu” chưa từng
được thực hiện nghiên cứu thành một công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và
hồn chỉnh. Chúng tơi chỉ tìm thấy những bài nghiên cứu các vấn đề trong ba bình
diện: thơ đương đại, thể lục bát và thể lục bát đương đại. Các vấn đề này được bàn
luận khá sơi nổi cũng như có những ý kiến đa chiều rất có giá trị.
Bình diện thơ đương đại đã thật sự gây được sự chú ý, quan tâm đặc biệt
đơng đảo của giới nghiên cứu, phê bình văn học, trong đó có các học giả như: Bùi
Văn Ngun, Hà Minh Đức, Hồng Hưng, Nguyễn Thái Hịa, Mã Giang Lân v.v.v
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức là các nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp to lớn
cho nghiên cứu thơ ca, “Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại (nxb Khoa Học Xã
Hội, 1968) là một minh chứng. Hoàng Hưng trong “Về bản sắc dân tộc và thơ hôm
nay (tham luận tại hội thảo “bản sắc dân tộc của thơ Việt Nam”) có bình luận:
“Trong các quan niệm của thơ hiện đại, có quan niệm đề cao, thậm chí tuyệt đối
hóa, mục đích sáng tạo ngơn ngữ của thơ. Có người gọi đó là "dịng chữ" (để đối
lập với "dòng nghĩa" là dòng xem trọng nội dung ý nghĩa của thơ).” Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến là người có nhiều tham luận cho thơ, như: “Các nhà thơ Hà
Nội trong hành trình đổi mới thi ca”, (tham luận về thơ đọc tại cuộc giao lưu văn
học 5 miền cố đơ: Hà Nội, Huế, Ninh Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ vào tháng
5/2011, được in trong kỉ yếu của cuộc hội thảo về sắc diện thơ các miền cố đô).
“Dùng một hình thức mới để chuyển tải một nội dung mới- đấy là cái đích hướng
tới của những tìm tịi, cách tân trong trong thơ đương đại hôm nay…”, ông viết.
Bên cạnh đó, nghiên cứu thơ đương đại cũng được các học giả gắn liền với hiện
tượng sự phát triển của thơ trẻ. Vai trò của các nhà thơ trẻ được đề cao trong đổi
mới dòng chảy thơ ca đương đại. Trong bài “Vì sao thơ hơm nay ít người đọc” (bài


3

trên blog đăng ngày 7/11/2011), Nguyễn Việt Chiến có những ý kiến rất đáng chú

ý và có tính thời sự về vấn đề thơ ca mai một hiện nay, vấn đề đổi mới thơ, cách
nhìn của độc giả về thơ ca hiện đại: “Thơ đương đại hôm nay đã xuất hiện khơng ít
những tác giả cách tân thơ với các khuynh hướng tìm tịi rất náo nhiệt. Bước đầu,
họ cũng đã ghi được dấu ấn của mình khi vượt qua sự đơn điệu, nhàm chán của
những cung bậc thơ cũ. Nhưng trong số những nhà cách tân đầy nhiệt huyết này, ở
một số cây bút, nhiều khi phẩm chất tài năng, phẩm chất thi sĩ không theo kịp
phẩm chất đổi mới, nên có thể những bài thơ “non lép” của họ mới chỉ dừng lại ở
mức có dấu hiệu của sự tìm tịi mà chưa làm nên sự khác biệt của một phong cách
thơ mới được khẳng định bởi một tài năng thơ đích thực…”. Pgs.Ts Lưu Khánh
Thơ trong một tiểu luận phê bình trên báo Văn nghệ trẻ - hội nhà văn Việt Nam:
“Cách tân nghệ thuật và thơ trẻ đương đại” đã viết: “Nhìn lại những cuộc
lên đường trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, chúng ta nhận thấy vai trò to
lớn của những người trẻ. Ở những người viết trẻ thường tiềm ẩn một sức bật lớn,
một khả năng dồi dào trong sự tiếp cận và sáng tạo cái mới. Khi văn học bước vào
guồng quay hội nhập thế giới, khi những trào lưu văn học của nước ngồi có sự
giao lưu với văn học trong nước thì người viết trẻ bao giờ cũng là người tiếp cận
nhanh nhất…”. Bà đưa ra những nhận xét đúng đắn về thơ văn của lớp trẻ hiện
nay, nêu rõ tình hình, hiện trạng, cũng như khả năng tiềm ẩn và những mong đợi
về một thế hệ tương lai.
Ở bình diện thể lục bát đã có những nghiên cứu về nhiều mặt của thơ lục bát.
Là một đề tài rộng và có nhiều khía cạnh cần bàn bạc, thể lục bát qua các nhà
nghiên cứu hiện lên với mn hình vạn trạng. Từ Hoa Bằng “Thử xét một số tài
liệu có liên quan đến thể thơ lục bát”, cho đến Võ Lông Tê “Quan điểm lịch sử và
thẫm mỹ về thể lục bát”, giáo sư Lê Trí Viễn “Vài ý kiến về câu thơ lục bát và câu
thơ lục bát của Nguyễn Du”, rồi các bài đăng trên tạp chí, báo, các luận án như: “


4

Tục ngữ với câu thơ lục bát trong ca dao dân ca” (tạp chí Văn học Hà Nội, số 1,

1973) của Trần Đức Các, “Thử bàn thêm về thể thơ lục bát” của Nguyễn Tài Cẩn
và Võ Bình trên tạp chí Văn hóa dân gian, số 3+4, 1985, Hồng Diệu “Chung quanh
mấy quan niệm về luật bằng trắc trong thơ lục bát” tạp chí Văn học, số 4, 1986,
Đào Thán “nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát”, tạp chí Ngôn ngữ, số 3, 1990. Đặc
biệt, tác giả Phan Thị Diễm Hương với nhiều phân tích về thể thơ, nhịp, luật thơ…,
như các bài viết: “Thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại” (tạp chí Văn học số 2,
1988), “Lục bát và song thất lục bát, (lịch sử phát triển, đặc trưng và thể loại)”,
“Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học mới” (tạp chí Văn học, số 11,
1995), “Nghiên cứu so sánh sự phát triển về cấu trúc và chức năng biểu đạt của hai
thể thơ lục bát và song thất lục bát”, ( tóm tắt luận án PTS), “Thử tìm hiểu những
điều kiện hình thành hai thể thơ lục bát và song thất lục bát”, (tạp chí Văn học số 3,
1996), “Về giá trị chức năng của thể thơ song thất lục bát và lục bát trong thơ ca
Việt Nam trung, cận đại” (tạp chí Văn học số 8, 1997). Ngồi ra cịn có các nhà
nghiên cứu khác như: Võ Xn Hào, “nghiên cứu về chức năng của thanh điệu
Tiếng Việt” (theo phương pháp định lượng), luận án PTS, 1997, Nguyễn Thái Hịa
“Tiếng Việt và thể thơ lục bát”, tạp chí Văn học, số 2, 1999, PGS.TS Lý Toàn
Thắng, “bằng trắc lục bát Truyện Kiều”, tạp chí Ngơn ngữ, số 4, 2001, Nguyễn Thị
Thanh Xuân, Trần Kim Liên, Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Xuân Kính, .v..v.
Hoa Bằng trong “Thử xét một số tài liệu có liên quan đến thể thơ lục bát”
(tập san văn sử địa Hà Nội, số 42, 1958.) đã tìm qua một số dấu vết thơ lục bát
trong ca dao như ngơn ngữ, điển tích..., ơng dẫn câu ca dao:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy


5

rồi từ đó khẳng định thể lục bát có trước đời Lý. “Thử bàn thêm về thể thơ
lục bát, tạp chí Văn hóa dân gian” của Nguyễn Tài Cẩn và Võ Bình có đoạn: “ giới
thiệu thể thơ lục bát dưới góc độ ngơn ngữ học, lấy phương pháp ngơn ngữ học

ứng dụng vào việc phân tích để nhận ra tầng bậc và các mối quan hệ về tổ chức
bên trong của nó.”, sau đó tác giả phân tích các đơn vị tế bào của lục bát, luật bằng
trắc, vấn đề biến thể. “Thử tìm hiểu những điều kiện hình thành hai thể thơ lục bát
và song thất lục bát”, (tạp chí Văn học số 3, 1996) của tác giả Phan Thị Diễm
Hương lại tập trung so sánh đối chiếu hai thể thơ và lịch sử quá trình hình thành: “
ta biết lục bát và song thất lục bát là loại thơ đếm tiếng hay âm tiết thì cũng vậy. tất
cả mọi yếu tố tạo nên âm luật của chúng như tổ hợp các dòng, gieo vần, phối điệu
đều được quyết định bằng các tiếng đó. Là một ngơn ngữ đơn lập, âm tiết tính, tức
là thứ ngơn ngữ khơng biến hình, mỗi tiếng đều mang thanh điệu và hầu như đều
có nghĩa, tiếng Việt có đủ điều kiện để đáp ứng tính chất trên đây của hai thể thơ.
Trong tiếng Việt, âm tiết trở nên có vai trị quan trọng khơng những ở lời nói bình
thường mà cịn là đơn vị quan trọng trong việc tạo thành âm luật thơ ca.”
Ngồi ra các học giả cịn đi sâu tập trung nghiên cứu các khía cạnh đương
đại của thơ. Các bài nghiên cứu mà chúng tơi tìm thấy là: “Về mối quan hệ thẫm
mỹ, tính hiện đại và bản sắc dân tộc trong thơ đương đại” (Yến Nhi, tạp chí thơ,
hội nhà văn Việt Nam, số 6, 2011), “Đổi mới thơ và những điều ngộ nhận” (Vương
Trọng, tạp chí thơ hội nhà văn Việt Nam, số 10, 2011), “Thơ đương đại, những
chuyện kể khó nghe” (Nguyễn Chí Hoan, tạp chí thơ hội nhà văn Việt Nam, số 11,
2011), “Cách tân như đẩy thơ vượt qua tai họa” (Thi Hoàng, tạp chí thơ hội nhà
văn Việt Nam, số 5, 2011), “Thơ hơm nay, tìm tịi và đổi mới” (Phạm Ngà tháng
5, 2011), “Khuynh hướng khách quan hóa nhân vật trữ tình trong thơ Việt Nam
đương đại” (Nguyễn Thanh Tâm, tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện văn học, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, số 11, 2011) … Những bài nghiên cứu này đã chỉ ra và


6

phân tích sâu sắc các đặc trưng mới của thơ đương đại Việt Nam, tạo ra một cái
nhìn tổng thể và toàn diện cho bức tranh thơ ca Việt Nam đương đại.
Ở bình diện thể thơ lục bát đương đại có những nghiên cứu mang tính

chun mơn và gần nhất với đề tài chúng tôi thực hiện, như luận văn các tác giả:
Nguyễn Văn Đồng “Văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại” , Phạm Mai
Phong “Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại” , Hồ Văn Hải, luận án
tiến sĩ: “Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ trong thơ lục bát hiện đại”. Những bài
báo nghiên cứu, lý luận phê bình về những vấn đề trong thơ của các tác gia thơ
hiện đại cũng vô cùng đa dạng. Tiêu biểu là Vũ Thị Mai “lục bát Nguyễn Duy”
(Vũ Thị Mai), “câu thơ lục bát Nguyễn Duy” (Nguyễn Thị Bích Nga, tạp chí Ngơn
ngữ, số 12, 2001), “thiên nhiên trong thơ lục bát Nguyễn Duy”, (Nguyễn Thị Bích
Nga, tạp chí Ngơn ngữ, số 12, 2003), “”Đồng Đức Bốn, bắt cầu lục bát (Nguyễn
Trọng Tạo, tạp chí thơ hội nhà văn Việt Nam, số 5, 2011). Các bài viết này đã chỉ
ra và phân tích đặc điểm thơ ca của các nhà thơ :“Tìm hiểu thiên nhiên trong thơ
lục bát Nguyễn Duy, ta nhận thấy hình ảnh trong thơ được tác giả khai thác từ hai
nguồn chính: dân gian và chính cuộc sống hiện thực thơ nháp đương thời. Vì thế
nó đa dạng, phong phú và ln biến chuyển: từ hình ảnh giản dị quen thuộc, tươi
sáng của ca dao đến hình ảnh mới lạ, độc đáo, thậm chí xơ bồ hỗn tạp, gây ấn
tượng cảm giác mạnh của hiện thực đời sống hiện đại bộn bề”. Nhìn chung ở bình
diện này, sự nghiên cứu còn sơ sài, một mặt, chủ yếu đi sâu vào khía cạnh chất thơ
của các nhà thơ đương đại, một số đặc trưng của lục bát Việt Nam mà chưa nghiên
cứu được tổng thể toàn diện của thi ca lục bát đương đại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
_Nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn về thể thơ lục bát, đặt biệt là lục bát đương
đại Việt Nam.


7

_Tìm hiểu nguyên nhân tạo sức sống của thơ lục bát trong xã hội hôm nay; mối
liên hệ truyền thống- hiện đại trong đời sống thi ca dân tộc; giữ gìn và phát huy
tinh hoa, giá trị , bản sắc dân tộc trong thể thơ dân tộc quen thuộc.
_Nghiên cứu về các nhà thơ lục bát đương đại cũng như các phong cách riêng của

mỗi nhà thơ và những đóng góp của họ cho thể loại thơ lục bát đối với nền văn học
nước nhà.
_Tìm hiểu những tìm tịi cách tân trong thơ lục bát hiện nay nhằm làm thơ lục bát
ngày càng phát huy vẻ đẹp vốn có, gắn bó hơn với tâm hồn thế hệ hơm nay.
_Giúp thế hệ trẻ nhận thức và hiểu thêm về lục bát - thể thơ truyền thống của dân
tộc và cách gìn giữ phát huy thể thơ ấy, đồng thời hiểu rõ các nhà thơ lục bát
đương đại.
_Góp phần tạo nên các nghiên cứu chuyên sâu về mảng thơ lục bát đương đại Việt
Nam qua các tác giả tiêu biểu.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên lý thuyết thơ ca về thể loại lục bát để tìm hiểu sự phát triển của
thể này trong thời hiện đại.
- Đề tài dựa trên quan điểm về văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa để nghiên cứu
lục bát.
- Đề tài dựa trên lý luận về quá trình sáng tạo và cách tân thơ ca để khẳng định
các giá trị mới của thể lục bát đương đại.
b) Phương pháp nghiên cứu


8

-Phương pháp loại hình
-Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích từ hệ thống
5. Giới hạn của đề tài
Thơ lục bát đương đại Việt Nam được rất nhiều nhà thơ sáng tác, thể
nghiệm. Khái niệm đương đại cũng khá rộng. Vì thế, chúng tơi chỉ giới hạn phần
nghiên cứu của mình ở các mức độ:
- Nhấn mạnh yếu tố cách tân trong lục bát đương đại

- Giới thiệu diện mạo lục bát đương đại qua một số đặc điểm tiêu biểu
- Quan niệm đương đại chỉ các tác giả đang còn sống và sáng tác
- Chọn 5 tác giả đương đại tiêu biểu nhất để khảo sát riêng về lục bát của họ
6. Đóng góp mới của đề tài
- Bước đầu hệ thống hóa về sự phát triển của thơ lục bát trong thời hiện tại.
- Nghiên cứu chi tiết về lục bát đương đại trong góc nhìn cách tân cả ở nội
dung lẫn nghệ thuật; phân tích, bình giảng thơ lục bát đương đại qua 5 tác giả tiêu
biểu theo quan điểm của người thực hiện đề tài.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
a) Ý nghĩa lý luận
Đề tài làm rõ đặc điểm, đặc trưng thể loại thơ lục bát cũng như cung cấp
thông tin về các nhà thơ lục bát đương đại; đóng góp vào quá trình nghiên cứu thơ
ca đương đại Việt Nam.


9

b) Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu lục bát đương đại có thể góp phần vào việc cảm thụ, thưởng
thức thơ lục bát thời hiện đại; đồng thời ít nhiều giúp cho việc bổ sung tư liệu về
tác giả, tác phẩm đương đại thành công về thể loại truyền thống này, có ích cho
việc tham khảo sự phát triển phong phú của thể loại lục bát.
8. Kết cấu đề tài
Chương I: Tổng quan thơ đương đại Việt Nam và thể lục bát
1.1 Thơ đương đại Việt Nam
1.2 Thể lục bát
Chương II: Lục bát đương đại Việt Nam từ góc nhìn cách tân
2.1 Các dịng lục bát chính
2.2 Thành tựu của người đi trước
2.3 Những cách tân về nội dung

2.4 Những cách tân về nghệ thuật
2.5 Vị trí thơ lục bát trong nền văn học đương đại Việt Nam
Chương III: Lục bát đương đại qua các tác giả tiêu biểu và các tác phẩm của họ
3.1 Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu
3.2 So sánh giữa các nhà thơ và giữa các bài thơ
3.3 Vị trí của các nhà thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam
3.4 Sự tiếp nhận của độc giả hiện nay


10

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THƠ LỤC BÁT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát nguồn gốc, đặc điểm lục bát truyền thống
I.1.1. Nguồn gốc thơ lục bát – các quan niệm
a) Quan niệm xem thơ lục bát có nguồn gốc từ tục ngữ, ca dao Việt Nam
Trong đời sống văn học dân tộc hiện nay, lục bát vẫn tồn tại và phát triển bên cạnh
các thể thơ năm chữ, bảy chữ và đặc biệt là thơ tự do đang phát triển rực rỡ. Tìm về
nguồn gốc lục bát, có thể thấy những bài lục bát đầu tiên xuất hiện trong văn học viết là
“Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào” của Lê Đức Mao, “Đào nguyên hành” (giữa thế
kỷ XVI) của Phùng Khắc Khoan, “Tư Dung vãn” (cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII)
của Đào Duy Từ, “Cổ Châu Phật bản hạnh” (giữa thế kỷ XVII) và “Thiên Nam ngữ lục”
(nửa cuối thế kỷ XVII) … Lục bát trong giai đoạn đầu tiên của văn học viết này cịn
trong tình trạng lỏng lẻo, khởi ngun, chưa hoàn thiện ở vần và thanh điệu. Thể lục bát
dần trở nên mẫu mực, quy chuẩn trong giai đoạn tiếp theo từ đầu thế kỷ XVIII với tác
phẩm “Truyện Kiều” (Nguyễn Du). Truyện Kiều đã hoàn chỉnh âm luật lục bát, các tác
phẩm lục bát ở giai đoạn thứ 3 trung cận đại của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà …
đều hướng theo hình mẫu của Truyện Kiều, sự biến cải khơng rõ nét, nếu có chỉ là thay
đổi chút ít. Trải qua 3 giai đoạn phát triển này, lục bát từ khởi nguyên đã trở thành hoàn
chỉnh trong nền văn học viết. Thế nhưng, trước khi xuất hiện trong văn học viết, lục bát
đã có trong lời ăn tiếng nói dân gian. Bằng phương pháp cải biến có thể thấy lục bát đã

được ủ và ươm mầm trong thành ngữ, tục ngữ. Có thể lấy ví dụ từ những câu dưới đây
(được lấy từ bộ sách Kho tàng cao dao người Việt)
Liệu cơm gắp mắm (1)
Chồng giận bớt lời (2)
Cơm sôi bớt lửa


11

Từ câu (1), bằng phương pháp cải biến, có thể biến nó thành một cặp lục bát như
sau:
Liệu cơm em gắp mắm ra
Liệu cửa liệu nhà em lấy chồng đi
(Tập II, tr. 1280)
Cũng như vậy, từ câu (2) ta có cặp lục bát
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sơi bớt lửa một đời không khê
(tập I, tr. 640)
Khảo sát những câu tục ngữ, thành ngữ, dùng phương pháp cải biến, ta thấy chúng
có sự tương cận với lục bát. Như lục bát vần bằng, vần lưng ở tiếng thứ tư dịng bát, có
những câu sau
Bắt lợn thì phải tóm giị (3)
Cịn khi bắt bị tóm mũi chớ qn
Đất thiếu thì ta trồng dừa (4)
Những nơi đất thừa ta lại trồng cau
Ta thấy cặp lục bát số (3) bắt nguồn từ tục ngữ “bắt lợn tóm giị, bắt bị tóm mũi”,
cặp (4) bắt nguồn từ câu “ đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau”. Những câu tục ngữ
này có vần bằng, vần lưng với nhau, dẫn tới vần bằng, vần lưng trong lục bát. Cũng như
vậy, lục bát vần trắc, vần lưng ở tiếng thứ tư dòng bát:
Nhất ngon bánh dày nếp cái



12

Nhất xinh con gái trong nhà họ Ngô
cũng bắt nguồn từ câu vần trắc, vần lưng trong câu “bánh dày nếp cái, con gái họ Ngô”
Hay lục bát vần trắc, vần lưng ở tiếng thứ sáu dòng bát
Phải tội mới đi mua mạ
Nào khác chi người phải vạ mua than
bắt nguồn từ câu “phải tội mua mạ, phải vạ mua than”
Như vậy, mơ thức cơ bản của lục bát chính là được cải biến từ thành ngữ, tục ngữ.
Lục bát cịn được bắt nguồn và trải qua q trình chọn lọc, hồn chỉnh trong ca
dao. Thí dụ như các câu ca dao dạng 4/ (4+ 4)
Người đẹp như tiên
Tắm nước đồng Triền, cũng xấu như ma
Người xấu như ma
Tắm nước đồng Trà, cũng đẹp như tiên
Hoặc ca dao dạng (4+4)/6
Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bị
Chín tháng lị dị biết đi
chính là tiền đề của lục bát sau này
Từ những nghiên cứu trên, có thể kết luận, lục bát là thể thơ cổ truyền của dân tộc
ta, có nguồn gốc từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao và từ nguồn gốc đó đã dần biến đổi hồn
chỉnh như lục bát ngày nay. Lục bát ngày nay chính là sự kế thừa, kết tinh và sáng tạo các
thể loại văn học dân gian


13

b) Quan niệm xem thơ lục bát có nguồn gốc phức tạp

Bên cạnh các quan niệm xem thơ lục bát có nguồn gốc từ thành ngữ, tục ngữ, ca
dao Việt Nam, vẫn có một số ý kiến cho rằng nguồn gốc của lục bát là rất phức tạp
Theo nghiên cứu của nhà thơ Inrasara, có sự giống nhau về thể thơ lục bát Việt với
lục bát Chăm. Lục bát Chăm xuất hiện cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII với tác phẩm
Akayet Dewa Mưno. Trong ca dao Việt Nam từ xưa đã có sự giống nhau trong sự gieo
vần với lục bát Chăm
Cụ thể, lục bát Chăm gieo vần lưng, chữ thứ sáu dòng lục hiệp với chữ thứ tư dòng
bát
Thei mai mưng deh thei o
Drơh phik kuw lo yaum sa urang
Ông chỉ ra trong ca dao Việt cũng có hiện tượng này:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xn
Ngồi ra, Inrasara cịn chỉ ra sự giống nhau trong cách gieo vần trong bài ca dao
“tị vị mà ni con nhện” với một bài lục bát Chăm:
Tị vị mà ni con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
Tị vị ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào


14

Ông cho rằng cách gieo vần lưng trắc “nhện – quện” và vần chân bằng “ti – đi” so
với đoạn thơ lục bát Chăm dưới đây là giống nhau, và sự giống nhau này không phải là
trùng hợp:

Mai baik dei brei pha crong
Tangin dei tapong kauk luk mưnhưk
Bbuk ai tarung yuw harơk

Tangin dei pơk nhjwơh yuw tathi
Từ đó Inrasara khẳng định “các nhà nghiên cứu chưa thể khẳng định thời điểm ra
đời của lục bát, càng không biết dân tộc nào khai sinh ra nó nữa. Nhưng điều chắc chắn là
có sự ảnh hưởng và tác động qua lại”. Mà ông nhấn mạnh sự qua lại ở đây là giữa lục bát
Chăm và lục bát Việt. Đó là một ý kiến, một hướng đi cho rằng lục bát Việt có nguồn gốc
từ lục bát Chăm. Phan Diễm Phương đã phản bác ý kiến này và dẫn ra những điểm lỏng
lẻo, ít cơ sở của Inrasara trong tập sách của bà “Lục bát và song thất lục bát: lịch sử phát
triển, đặc trưng thể loại”. Nhưng điều này đã cho thấy, về nguồn gốc lục bát, vẫn tồn tại
nhiều hướng đi khác nhau
1.1.2. Đặc điểm thơ lục bát
Trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, nxb Giáo dục) lục bát được định
nghĩa là “một thể câu thơ cách luật mà các thể thức được tập trung thể hiện trong một khổ
gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng 6 tiếng (câu lục) và dòng 8 tiếng (câu bát)”.
Dựa vào hành trình lục bát của dân tộc từ khởi thủy cho đến nay, có thể định nghĩa
lục bát là thể thơ đặc trưng truyền thống của dân tộc Việt Nam, khơng giới hạn số dịng,
gồm một câu 6 và một câu 8 đan xen. Lục bát có hai loại là lục bát nguyên thể và lục bát
phối xen.


15

Thơ lục bát, thể thơ ca dân tộc, đã có vị trí xứng đáng của nó trong sáng tác dân
gian như ca dao, dân ca, trong văn học cổ điển và cả trong thơ ca hiện đại. Hơi thở lục bát
nhịp nhàng trong văn học dân tộc, và dù ở đâu chăng nữa, nó vẫn có một sức sống mạnh
mẽ, một vận mệnh lâu dài trong lịch sử văn học Việt Nam.
Có thể hình dung đặc trưng thơ lục bát qua một số biểu hiện cơ bản sau:
Số tiếng
Số tiếng của lục bát là trên 6, dưới 8. Số tiếng trong thơ lục bát quy định đặc
trưng thể thơ lục bát, mặc dù có những phá cách và biến thể khác nhau như ngắt dịng,
vắt dịng thì lục bát vẫn đầy đủ số tiếng trong hạn định. Cặp 6-8 là đơn vị tế bào của thơ

lục bát, cứ nhịp nhàng câu lục câu bát cứ dài ra, dài ra, có khi là cả thiênTruyện Kiều, đôi
lúc lại ngắn gọn trong ca dao…cho nên ta có thể khẳng định thơ lục bát khơng có chu kì
nhất định, khơng có độ dài nhất định (số câu không hạn định) nhưng đều mở đầu bằng
câu 6 và kết thúc bằng câu 8. Có thể nói, thành tố trọng tâm hình thành nên thơ lục bát là
đơn vị có 14 tiếng.
Vần:
Thơ lục bát có các loại vần hiệp với nhau là vần chân, vần lưng, vần chính và vần
thơng.
Vần chân ở lục bát quy định chữ cuối của câu tám phải gieo vần với chữ cuối của
câu sáu.
Tiếng chim nhồn nhột đầu cành
Cỏ hoa hợp tấu hồn anh giao mùa
(Khúc giao mùa – Vũ Tuấn)
Có thể thấy rõ sự gieo vần đúng luật trong hai câu thơ trên, chúng ta không thể
tách hoặc đảo ngược vị trí hai câu thơ, hoặc thêm bớt từ như kiểu:


16

Tiếng chim nhồn nhột đầu cành giao mùa
Cỏ hoa hợp tấu hồn anh
Rõ ràng là phải dừng lại ở tiếng thứ 6 mới là ổn, hơn nữa cành, anh phải cùng vần
bằng với nhau. Câu thơ

Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
(Nụ hôn đầu – Trần Dạ Lữ)
cũng cùng vận hôn, hồn . Vần chân mang một ý nghĩa rất lớn trong việc định hình thể thơ
lục bát, làm thơ uyển chuyển vần điệu nhịp nhàng, êm tai.
Vần lưng lại quy định cho phép các thanh bằng vần với nhau (chữ cuối của câu

sáu vần với chữ sáu của câu tám, chữ cuối của câu sáu vần với chữ bốn của câu tám), các
thanh trắc vần với nhau (chữ cuối của câu sáu vần với chữ sáu của câu tám, chữ cuối của
câu sáu vần với chữ bốn của câu tám). Vần lưng cũng là yếu tố quan trọng tạo nhạc điệu,
âm hưởng cho thơ, và các tác giả luôn vận dụng tối đa các ưu thế gieo vần truyền thống,
đạt tới độ hài âm hài thanh cao.
Yêu em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh khơng
(Ca dao)
Bây giờ đã trải ba năm
Cái nón em chằm đã ngả màu sơn
(Chiếc nón-Nguyễn Bính)


17

Việc nhà thơ sử dụng vần lưng ở tiếng thứ 4 của câu dẫn đến những hiệu quả nhất
định. Nó vừa tạo ra cảm giác rõ rệt về sự biến chuyển âm điệu dịng thơ, vừa góp phần
nhấn mạnh nội dung cảm xúc của dịng thơ. Bên cạnh đó, nó gợi lên âm hưởng dân gian
trong dòng thơ, giúp câu thơ đọc lên nghe ngân nga, nhẹ nhàng như lời ca tiếng nói dân
tộc
Một loại vần nữa chính là vần chính. Trong khi gieo vần chân và vần lưng, có
những từ hồn tồn trùng âm với nhau, đó là vần chính.
Làn thu thủy, nét xn sơn
Mây thua nước tóc liễu hờn kém xanh
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Mùi hương hoa dại thơm lừng
Từ thăm thẳm núi bỗng dưng thơm về
(Hoa dại- Nguyễn Duy)
Vần thông được sử dụng trong trường ca hay truyện thơ dài, khi người sáng tác
khơng thể tìm được tất cả những từ trùng âm mà hợp với ý, vì thế phải dùng những âm

điệu na ná gần nhau, nhưng khơng bị lạc lõng. Đó gọi là vần thơng, nghĩa là thơng thốt
âm điệu chứ khơng được nuột nà như vần chính.
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đá vơi bạc màu
(Tre Việt Nam- Nguyễn Duy)
Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người


18

(Tương tư- Nguyễn Bính)
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
(Đưa em tìm động hoa vàng – Phạm Thiên Thư)
Có thể thấy vần hoa và hà từa tựa nhau, nên tác giả có thể dùng hiệp vần với nhau,
tương tự vần tươi và vôi. Điều này tuy không làm hỏng câu thơ lục bát nhưng nếu sử
dụng q nhiều thì mất ít nhiều cảm giác uyển chuyển.
Nhịp
Nhịp là tiết tấu của câu thơ. Một cặp lục bát mười bốn từ được coi là một đơn vị
nhịp điệu. Thơ lục bát thường thay đổi nhịp,ngắt một đơn vị nhịp thành nhiều tiết tấu
trong câu , xen vào các nhịp 2 - 3 - 4 một cách linh hoạt khơng gị bó làm cho câu thơ
uyển chuyển , tung tẩy hoặc dịu dàng, khoan thưa hay dồn dập tùy vào tình huống của
mạch thơ.
Thơ lục bát thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2) hoặc 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2,
4/2/2).
Ví dụ:
Trời mưa ướt bụi/ ướt bờ
Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em .
(Ca dao)

Thế nhưng để nhấn mạnh ý, lục bát cũng dùng ngắt nhịp ba. Như cặp lục bát dưới
đây ngắt nhịp ba rõ nét ở câu đầu
Chồng gì anh / vợ gì tơi


19

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Thể hiện sự gắt gỏng, chia đôi, phân đôi tách biệt giữa chồng và vợ, chồng và vợ ở
đây bị chia làm hai vế, trở thành hai cá thể tồn tại song song, là cái ”nợ đời” của nhau
Cách ngắt nhịp 3/1/4 trong câu bát này của Truyện Kiều
Nửa chừng xuân / thoắt / gãy cành thiên hương
đã thể hiện hoàn hảo sự đứt gãy đột ngột cuộc sống, sự chấm dứt cuộc đời của một phận
má hồng truân chuyên
Tóm lại, tùy vào dụng ý của bài thơ mà có nhiều cách ngắt nhịp khác nhau. Nhịp
thơ là công cụ giúp người đọc, người nghe cảm nhận bài thơ một cách chính xác hơn.
Thanh
Ở thanh, có sự đối xứng luân phiên B – T – B: các chữ lẻ (1, 3, 5, 7) trong câu thì
bằng hay trắc đều được, các chữ chẵn (2, 4, 6, 8) thì phải phục tùng luật định: chữ thứ 6
và chữ thứ 8 của câu 8 thanh bằng, chữ này khơng thanh thì chữ kia thanh bằng và ngược
lại.
Biểu hiện của thể thơ lục bát chính là nét đặc trưng về luật bằng trắc, ở sự phối
thanh của thể thơ này, tuy vậy, quan niệm về luật bằng trắc của thể lục bát ít nhiều có sự
khác nhau. Mỗi nhà nghiên cứu, mỗi học giả lại gắn cho lục bát những quan niệm của
riêng mình. Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu” cho rằng luật bằng trắc
như sau:
Câu lục: bằng bằng trắc trắc bằng bằng
Câu bát: bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc bằng
Những chữ in nghiêng không nhất thiết phải theo đúng luật.



20

Theo ơng, biến thể lục bát chính là thể lục bát nhưng thỉnh thoảng có xen vào một
ít câu mà cách hiệp vần và luật bằng trắc khác thể lục bát nói trên.
Câu lục: trắc trắc bằng bằng trắc bằng
Câu bát: trắc trắc bằng bằng trắc trắc bằng bằng
Nhưng nhận định trên cũng khơng hồn tồn là chính xác. Bùi Văn Ngun,
Nguyễn Văn Hồn, Võ Long Tê lại có định hướng và nhận xét khác nhau về luật thơ lục
bát. Có thể thấy rằng khơng nhà nghiên cứu nào hồn tồn giống nhau, lục bát vẫn cịn để
ngỏ cho nhiều học giả vào khám phá và nhận định.
Hiện tại, phần đông đều chấp nhận cách hiểu về bằng trắc của lục bát là các từ thứ
4, thứ 6 và thứ 8 nhất thiết phải theo trắc bằng cố định, riêng từ thứ 2 có thể linh động
bằng hay trắc. Hệ thống bằng trắc phổ biến được thể hiện ở bảng dưới đây
1

2

3

4

5

6

Lục

-


bằng

-

Trắc

-

Bằng

Bát

-

Bằng

-

Trắc

-

Bằng

Có thể thấy qua những ví dụ dưới đây
Tơi nghe nẫu cả những chiều
B

T


B

Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa.
B

T

B

B

(Cuốc kêu – Đồng Đức Bốn)
hay

7

8

-

Bằng


21

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
B

T


B

Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu.
B

T

B

B

(Ngậm ngùi – Huy Cận)
Đối:
Đối trong lục bát gồm tiểu đối trong một câu thơ, tiểu đối ở hai câu sáu và tám, đối
ý, đối chéo ở hai câu sáu và tám, đối từ loại
Lối đối phổ biến ở lục bát là tiểu đối ở mỗi câu sáu và tám. Dòng lục được chia
thành hai vế đối, mỗi vế ba tiếng, vì chia như thế nên có thể sẽ dẫn đến một vài thay đổi
về thanh điệu. Dòng bát gồm 8 tiếng với 4 nhịp hai đều đặn và bằng trắc phối hài hòa (
thanh trắc ở tiếng thứ 4, thanh bằng ở tiếng thứ 8) thuận lợi cho việc chia hai vế đối, mỗi
vế 4 tiếng. Ví dụ:
Làn thu thủy / nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh
(Truyện Kiều)
Thường mỗi cặp lục bát đều có sự phối xen giữa đối ý và đối thanh:
Lọng vàng che nải chuối xanh
Tiếc cho loan phượng đậu cành tre khô
Trong câu ca dao trên, câu lục chỉ có đối ý, khơng đối thanh. Câu bát vừa đối ý
vừa đối thanh



22

Có khi sự đối trong thơ lục bát lại là đối chéo trong từng câu và trong cả hai câu
lục bát:
Khách tình lại nhớ thuyền tình
Thuyền tình lại nhơ khách tình là dun
Ở câu ca dao này, có sự đối chéo giữa khách tình và thuyền tình trong mỗi câu và
giữa khách tình trong câu lục với thuyền tình trong câu bát, thuyền tình trong câu lục với
khách tình trong câu bát
Nói chung, sự đối trong thơ lục bát rất đa dạng, nhất là trong tục ngữ, ca dao và
các bài diễn ca, truyện thơ.
1.2. Diện mạo thơ lục bát đương đại nhìn từ một số hiện tượng sáng tác chính
1.2.1. Bức tranh lục bát qua các thời kỳ văn học
Trong suốt quá trình phát triển từ khởi thủy đến nay, lục bát đi từ khuynh hướng
dân gian hóa đến đã đi qua nhiều chặng đường tinh tế, phức tạp như: cá thể hóa, hiện đại
hóa, thể hiện khả năng thích nghi và sức sống trường cửu của lục bát. Hành trình thơ lục
bát qua thời giai đoạn gắn liền với các tên tuổi lớn.
Ở thời kỳ phôi thai trong ca dao, lục bát có gương mặt ngơn ngữ đơn giản, dân dã,
nội dung gần gũi với tâm tư tình cảm của người dân. Lục bát trong ca dao thường là
những bài ru hát ru con, những câu hò điệu lý, những khúc ngâm vịnh ngân nga mà mọi
người vẫn nghe thấy trong sinh hoạt hằng ngày, gắn liền với đời sống lao động người
dân. Ở giai đoạn này, lục bát thường được dùng để thể hiện tâm tư tình cảm, đời sống tâm
hồn phong phú của nhân dân:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?


23


Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả cơng
Ít nữa lấy chồng anh lại giúp cho
Giúp em một thúng xơi vị
Một con lợn béo một vị rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Ngồi ra, lục bát trong ca dao cịn là những lời răn dạy, khuyên nhủ, những triết lý
trong cuộc sống:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Bầu ơi ! thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Ngôn từ lục bát trong giai đoạn này mộc mạc, giản dị, nhờ hợp vần mà tạo ra sự
thanh thoát êm tai. Một số biện pháp tu từ cũng đã được sử dụng, tạo tính thẩm mỹ cao.
Đây là cái nơi, là nền móng để từ đó lục bát trở nên phát triển và hoàn thiện trong các giai
đoạn sau
Giai đoạn văn học cổ điển, nhất là giai đoạn hậu kỳ trung đại (thế kỷ XVIII- XIX)
lục bát và song thất lục bát trở thành “món ăn tinh thần” q giá, góp phần nói lên nỗi
thống khổ và lịng u thương con người, trí tưởng tượng và khả năng diệu kỳ của tiếng


×