Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh giai đoạn 1923 – 1928

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 87 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN </b>
<b>KHOATRIẾT HỌC </b>


<b>--- </b>


<b>LÊ NGỌC HIỂN </b>


<b>VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA </b>


<b>NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928 </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>
<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>


<b>Hệ đào tạo: Chính quy </b>
<b>Khóa học: QH – 2016 – X </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Hà Nội, 2020 </b>


<b>TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN </b>
<b>KHOATRIẾT HỌC </b>


<b>--- </b>


<b>LÊ NGỌC HIỂN </b>


<b>VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA </b>


<b>NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928 </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>
<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>



<b>Hệ đào tạo: Chính quy </b>
<b>Khóa học: QH – 2016 – X </b>


<b> NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>MỤC LỤC </b>


<b>MỞ ĐẦU ... 1</b>


<b>1. Lý do chọn đề tài ... 1</b>


<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài... 3</b>


<b>3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ... 6</b>


<b>4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ... 6</b>


<b>5. Ý nghĩa của khóa luận ... 7</b>


<b>6. Kết cấu ... 7</b>


<b>NỘI DUNG ... 8</b>


<b>CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA </b>
<b>NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ ... 8</b>


<i><b>1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An </b></i>
<i><b>Ninh về vấn đề dân chủ</b></i><b> ... 8</b>


<i><b>1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới</b></i><b> ... 8</b>



<i><b>1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam</b></i><b> ... 9</b>


<b>1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh ... 13</b>


<b>1.2.1. Một số luận giải của tƣ tƣởng phƣơng Đông về dân chủ ... 13</b>


<b>1.2.2. Tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản ... 17</b>


<i><b>1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung </b></i>
<i><b>Quốc – Nhật Bản</b></i><b> ... 17</b>


<i><b>1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ</b></i><b> ... 18</b>


<i><b>1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ</b></i><b> ... 19</b>


<b>1.2.3. Tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa ... 21</b>


<i><b>1.2.3.1. Tư tưởng của Charles Rappoport và Jean Jaures về dân chủ</b></i><b> ... 21</b>


<i><b>1.2.3.2. Tư tưởng của Karl Marx và Vladimir Illyich Lenin về dân chủ</b></i><b> .... 23</b>


<b>1.3. Nguyễn An Ninh – cuộc đời và sự nghiệp ... 24</b>


<b>Tiểu kết chƣơng 1 ... 30</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>2.1. Quan niệm của Nguyễn An Ninh về hai nguyên tắc dân chủ ... 32</b>


<i><b>2.1.1. Nguyên tắc tự quyết về tinh thần</b></i><b> ... 32</b>



<i><b>2.1.2. Nguyên tắc dân chủ trong sự truy vấn bản chất kinh tế và chính trị</b></i><b> 37</b>
<b>2.2. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Nguyễn An Ninh ... 42</b>


<i><b>2.2.1. Bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa</b></i><b> ... 42</b>


<i><b>2.2.2. Quan niệm về vai trị - vị trí của nhân dân</b></i><b> ... 50</b>


<b>2.2.3. </b><i><b>Bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp</b></i><b> ... 58</b>


<i><b>2.2.4. Luận về phương thức thực hành dân chủ</b></i><b> ... 62</b>


<b>2.3. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề </b>
<b>dân chủ ... 67</b>


<b>2.3.1. Giá trị nổi bật ... 67</b>


<b>2.3.2. Hạn chế chủ yếu ... 69</b>


<b>Tiểu kết chƣơng 2 ... 71</b>


<b>KẾT LUẬN ... 74</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>


Tơi xin cam đoan rằng, khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài: “Vấn đề
dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh (giai đoạn 1923 – 1928)” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Nguyễn Thanh Bình.


Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn


trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.


<b> Tác giả khóa luận tốt nghiệp </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>LỜI CẢM ƠN </b>


Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn
Thanh Bình, người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và khích lệ tơi
trong q trình học tập và kiên định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu cũng như
thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.


Tơi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô, tập thể cán bộ trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt, lời cảm ơn của tôi xin được tri ân tới
các thầy cô trong khoa Triết học - những người thầy người cô đã gợi mở,
hướng dẫn, động viên và trao đổi những ý kiến khoa học quý báu trong quá
trình học tập, rèn luyện để có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.


Cuối cùng, tơi xin được cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ủng hộ
và giúp đỡ tôi trong nỗ lực nghiên cứu, hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn.


Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020
Sinh viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>MỞ ĐẦU </b>


<b>1. Lý do chọn đề tài</b>


Vấn đề dân chủ (democracy’s problem) có lẽ là một trong những vấn đề
gây nên những tác động đa chiều chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Từ


xuất phát điểm trong mơi trường của các cuộc thử nghiệm chính trị Hy Lạp –
La Mã thời cổ đại, dân chủ trải qua quá trình vận động và phát triển mạnh mẽ
với tư cách của một khái niệm tự thân được nhận thức bởi các cá nhân hoặc
các cộng đồng cụ thể. Thậm chí, dân chủ cũng được xem xét trên phương diện
của một vấn đề. Sự hiện tồn của con người ln có xu hướng ngoại tại là phát
triển qua từng giai đoạn , nhưng không vì vậy mà vấn đề dân chủ khơng được
quan tâm. Trước những thách thức, xung đột có thể nảy sinh nguy cơ chi phối
và thậm chí bần cùng hóa đời sống cá nhân cũng như đời sống cộng đồng.
Viễn cảnh đó khiến con người cá nhân khơng cịn có thể thuần túy mặc nhiên
chấp nhận điều đó là tất yếu. Dân chủ không dừng lại ở phương thức tổ chức -
điều chỉnh quyền lực của các cơ quan đại diện ý chí, nguyện vọng của cá nhân
và xã hội mà còn là động lực tinh thần cho những thay đổi to lớn. Trong lịch
sử tư tưởng lẫn lịch sử lồi người, khơng ít những hiện tượng đại tự sự nhân
danh giá trị văn minh, tiến bộ để áp đặt những cá nhân, quốc gia, dân tộc mà
bị coi là trái với những giá trị đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

những cảm quan sâu sắc về dân tộc tính và khát khao cải cách quốc gia đã
phát triển phong trào chống thực dân đến giai đoạn vận động dân tộc – dân
chủ những năm 1923 – 1928. Bằng các cách nhìn nhận và phương pháp khác
nhau, những nhân vật như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Cao Văn
Chánh, Trần Huy Liệu, Bùi Quang Chiêu,…phát động liên tiếp và không
khoan nhượng các cuộc đấu tranh phản kháng lại không gian thuộc địa do
thực dân Pháp áp đặt. Vấn đề dân chủ đã chính thức có vị trí khơng thể thay
thế trong các hình thức biểu đạt chính kiến của giới trí thức Việt Nam (nói
riêng) và quần chúng nhân dân Việt Nam (nói chung).


Nguyễn An Ninh là nhà trí thức yêu nước, nhà báo và là nhà hoạt động
cách mạng có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Bằng vốn
hiểu biết sâu rộng và sự khát khao nồng nhiệt của một người con Việt Nam
yêu nước, Nguyễn An Ninh đã có những tác động mạnh mẽ trong việc truyền


bá những tri thức của nhân loại đến quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần
tranh đấu và giúp nhân dân thức tỉnh nghĩa vụ của mình trước những kiềm
lực, áp bức của chế độ thuộc địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nguyễn An Ninh và chính quyền cách mạng cố gắng bảo vệ kho tàng sách vở
của ông, song do chiến tranh loạn lạc nên bị mất và thất lạc nhiều. Mặt khác,
nguồn tư liệu lưu trữ trong và ngoài nước chưa thể tiếp cận và khai thác một
cách đầy đủ, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc xây dựng tầm nhìn bao quát
về tư tưởng Nguyễn An Ninh cả về diễn trình hình thành những tư tưởng cũng
như ý nghĩa và vai trò của chúng.


Khóa luận <b>“Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh giai </b>


<b>đoạn 1923 – 1928”</b> là một sự triển khai tìm tịi đối với những giá trị cịn ít
được đề cập trong tư tưởng Nguyễn An Ninh. Người viết hi vọng nghiên cứu
này sẽ góp một phần nhỏ bé làm sáng tỏ hơn vấn đề dân chủ trong tiến trình
tư tưởng của Nguyễn An Ninh, từ đó giúp cho sự đánh giá khách quan về vai
trị và đóng góp của ơng đối với lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cũng như
những giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn An Ninh đối với thực tiến cuộc
sống ngày nay.


<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

kỳ của nhà báo Nguyễn Ngọc Danh mang tên “<i>Những ngày cuối cùng của </i>
<i>nhà Cách mạng NGUYỄN AN NINH tại Côn Đảo</i>” đã được đăng toàn văn


trên báo <i>Tiếng Dội Miền Nam </i>từ ngày 15 đến ngày 30/8/1961. Thiên phóng
sự thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với sự dấn thân của Nguyễn An
Ninh cho sự nghiệp cách mạng chống Pháp. Ngoài ra cịn có thể kể đến cuốn



<i>Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh – thân thế và sự nghiệp</i> của Phương Lan –
Bùi Thế Mỹ (in năm 1971), chủ yếu tập trung mô tả tiểu sử của Nguyễn An
Ninh. Đó là các bài viết, sách của các tác giả miền Nam những năm 1949 -
1971 về cuộc đời hoạt động Nguyễn An Ninh. Nhìn chung, các tác giả bày tỏ
sự tôn vinh đối với tài năng, phẩm chất và đóng góp của ơng. Ở miền Bắc
trước 1975, những tư liệu về Nguyễn An Ninh dường như rất hạn chế, kéo
theo đó là sự mâu thuẫn, không rõ ràng và thiên kiến trong những quan điểm
về nhà tư tưởng này.


Sau ngày thống nhất đất nước, việc nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An
Ninh mới có thêm cơ hội để triển khai một cách khoa học và khách quan hơn.
Khởi đầu là tác phẩm <i>Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến </i>
<i>cách mạng tháng Tám</i> (1975) của nhà sử học Trần Văn Giàu1. Ngày
15/09/1987, Hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn An Ninh được tổ chức tại
Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh (chủ trì bởi Ban Tuyên huấn Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh). Trước những ý kiến khác nhau về Nguyễn An
Ninh, ơng Dương Đình Thảo - Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh đã phát biểu rằng “không ai bôi đỏ Nguyễn An Ninh nhưng
không cho phép ai bôi đen Nguyễn An Ninh” [39, tr. 3]. Hội thảo đi đến việc
ghi nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn An Ninh đối với công cuộc giải
phóng dân tộc.


Từ sau Hội thảo, có rất nhiều bài viết, sách, tạp chí tập trung nghiên cứu
và đưa ra những nhận định, quan điểm về Nguyễn An Ninh như: <i>Nguyễn An </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Ninh</i> (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1988), <i>Sự tiến hóa liên tục của </i>
<i>Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện</i> (tác giả: Hà Huy Giáp,
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1989), <i>Nguyễn An Ninh nhà trí thức </i>
<i>yêu nước</i> (Tạp chí <i>Xưa và Nay</i> – 2003), <i>Nguyễn An Ninh – Tôi chỉ làm cơn </i>


<i>gió thổi</i> (tác giả: Nguyễn Thị Minh, Nhà xuất bản Trẻ - 2005)… Về luận văn
nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An Ninh, có luận án của Phạm Thị Đoạt với đề tài


<i>Tìm hiểu một số tư tưởng của Nguyễn An Ninh về Phật giáo</i> (1997), luận án của
Lê Thị Mận với đề tài <i>Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị và tơn </i>


<i>giáo </i>(2011),... Trong tác phẩm “Lịch sử triết học phương Đông” của tác giả
Dỗn Chính, Nguyễn An Ninh được ghi nhận với vai trò “đảm nhận xuất sắc
cuộc đấu tranh trên diễn đàn báo chí, tư tưởng và diễn thuyết nhằm phê phán
phong kiến, thực dân; tuyên truyền tư tưởng dân quyền” [4, tr. 1355]


Sự ra đời của <i>Nguyễn An Ninh – Tác phẩm</i> và <i>Nguyễn An Ninh - Qua hồi </i>
<i>ức của những người thân</i> vào tháng 6 năm 2009 là một điểm nhấn đặc biệt.
Đây là thành quả nỗ lực to lớn của vợ chồng Nguyễn Sơn - Nguyễn Thị Minh
(con rể và con gái của Nguyễn An Ninh) cùng với Trung tâm Nghiên cứu
Quốc học, Nhà xuất bản Văn học và các học giả và chuyên gia tiếng Pháp
trong việc sưu tầm, xử lý, trực tiếp dịch thuật (vì phần lớn các bài viết của
Nguyễn An Ninh đều viết bằng tiếng Pháp). Như lời mở đầu của Mai Quốc
Liên (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc học) trong cuốn <i>Nguyễn An </i>
<i>Ninh – Tác phẩm</i>, “tác phẩm Nguyễn An Ninh, con người Nguyễn An Ninh,


phản chiếu cả một giai đoạn đấu tranh bi tráng của cả đất nước, có phần bị mờ
nhạt trong chúng ta” [22, tr. 8]. Từ đó, tác giả đi đến quan điểm rằng việc tìm
đọc di sản tư tưởng Nguyễn An Ninh “là việc hết sức cần kíp lúc này của văn
hóa, của khoa học xã hội và nhân văn, của chính trị - tư tưởng…” [22, tr. 11].


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

niệm chính trị của Nguyễn An Ninh chưa được khai thác trong những tác
phẩm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của ơng. Nghiên cứu hi vọng đóng góp
cách tiếp cận tư tưởng Nguyễn An Ninh trên phương diện tìm hiểu và ghi
nhận vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm tư tưởng của Nguyễn An


Ninh trong những năm 1923 – 1928.


<b>3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận </b>


<b>3.1. Mục đích </b>


Trên cơ sở trình bày, giới thiệu có hệ thống về tư tưởng của Nguyễn An
Ninh về vấn đề dân chủ (1923 – 1928) để từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn
những giá trị và hạn chế trong tư tưởng Nguyễn An Ninh.


<b>3.2. Nhiệm vụ </b>


Để đạt tới mục đích nghiên cứu, tác giả đề ra một số nhiệm vụ cụ thể
như sau:


- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề cho sự hình thành
vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh.


- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh
về vấn đề dân chủ.


- Chỉ ra và phân tích những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong tư
tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ.


<b>4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu </b>
<b>4.1. Cơ sở lý luận </b>


Nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng triết học chính trị về dân chủ của phương Tây và phương
Đông.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Khóa luận chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật trong triết
học Marx – Lenin và phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học kết hợp với
một số phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích – tổng hợp, lịch sử -
cụ thể, khái qt hóa, trìu tượng hóa, v.v.


<b>5. Ý nghĩa của khóa luận </b>


Thơng qua quá trình nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề
dân chủ, khóa luận góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung trong tư tưởng ấy
của ông cùng những giá trị và hạn chế của nó. Khóa luận có thể là tài liệu phục
vụ cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Việt Nam đầu thế kỉ XX.


<b>6. Kết cấu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>NỘI DUNG </b>


<b>CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA </b>
<b>NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ </b>


<i><b>1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An </b></i>
<i><b>Ninh về vấn đề dân chủ </b></i>


<i><b>1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới </b></i>


Lịch sử thế giới giai đoạn 1923 – 1928 đã chứng kiến những thay đổi to
lớn, tập trung và ảnh hưởng mạnh nhất là lĩnh vực chính trị và lĩnh vực kinh
tế. Sau khi trải qua giai đoạn Phát kiến địa lý (thế kỷ XV- thế kỷ XVI) và
Cách mạng tư sản (thế kỷ XVII - thế kỷ XVIII), chủ nghĩa tư bản phương Tây
bắt đầu chuyển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, tiến tới xác lập hệ


thống trên toàn thế giới với sự ra đời của các công ty độc quyền. Điều này,
theo Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang, dẫn tới chính sách nhất quán của các
nước lớn ở châu Âu: “trong nước thì khuyến khích kĩ nghệ, ngồi nước thì
kiếm thuộc địa” [16, tr. 663]. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản châu Âu những
năm 70 – 80 thế kỷ XIX (qua Cách mạng công nghiệp) không đồng bộ với
những thay đổi xã hội theo hướng tự do, dân chủ. Mặt bằng chính sách của
những nước thực dân châu Âu là đi xâm chiếm thuộc địa (để mở rộng thị
trường), biến thuộc địa thành “một đất thực dân” và tiến hành “bóc lột các dân
bản xứ (…) một cách triệt để” [16, tr. 664].


Từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917), các phong trào cách mạng tự
do – dân chủ xuất hiện các lực lượng ủng hộ chủ nghĩa xã hội và tư tưởng
cách mạng cánh tả, bên cạnh phong trào của các đảng phái tự do truyền
thống2. V.I.Lenin đã viết đây là thời kì “Châu Á thức tỉnh” bởi “hàng trăm
triệu người bị áp bức, bị giam hãm tối tăm trong trạng thái trì trệ thời trung
cổ, đã thức tỉnh và bước vào một cuộc sống mới, vào cuộc đấu tranh giành




</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

những quyền sơ đẳng nhất của con người, giành dân chủ” [14, tr. 187]. Phong
trào Ngũ Tứ (4/5/1919)3<sub> ở Trung Quốc đã tạo nên hiệu ứng của một phong </sub>


trào dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa tập hợp các nhóm chính trị - xã hội với
nguyện vọng tự do – dân chủ - dân tộc. Thành công của chiến tranh Bắc phạt
(1926 - 1928)4 kết thúc thời kì quân phiệt Trung Hoa và phong trào Bất hợp
tác (<i>Swaraj</i>) ở Ấn Độ (1919 – 1922)5 đã ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành
động của Nguyễn An Ninh, khi hai quốc gia châu Á này đều giành được
thành cơng trong q trình đấu tranh dân tộc – dân chủ. Thắng lợi của Hồng
quân Nga trong cuộc Nội chiến (1918 – 1922) và những thành quả đạt được
của nước Nga Soviet sau chiến tranh (với Chính sách Kinh tế Mới – NEP do


V.I.Lenin đề xuất) đã củng cố tiềm lực của nhà nước cộng sản đầu tiên trên
thế giới và thúc đẩy sự ra đời của nhà nước Liên Xơ, gây ảnh hưởng lớn tới
các phong trào chính trị - xã hội đối với nhân loại cũng như các dân tộc thuộc
địa.


Hệ quả của những biến đổi to lớn của tình hình thế giới đầu thế kỷ XX
đó là sự xuất hiện của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Á – Phi
– Mỹ Latin trên vũ đài chính trị thế giới, tạo nên những dư chấn mạnh mẽ
ngay trong lòng hệ thống thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Sự xuất
hiện các luồng tư tưởng như chủ nghĩa Tam dân (do Tôn Trung Sơn đề
xướng), chủ trương Bất bạo động (do Mahatma Gandhi đề xướng), chủ nghĩa
xã hội (gia tăng ảnh hưởng từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917)…
“đã tác động trực tiếp đến việc lựa chọn con đường cách mạng của các nhà tư
tưởng chính trị ở Việt Nam, nhất là đầu thế kỷ XX” [8, tr. 1251].


<i><b>1.1.2.</b><b>Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam </b></i>




3 Cùng với sự kiện Ngũ Tứ của Trung Quốc là phong trào Tam Nhất (1/3/1919) ở bán đảo Triều Tiên, đưa cuộc đấu tranh


giành độc lập của Triều Tiên sang giai đoạn mới.


4<sub>Dưới sự lãnh đạo của chính phủ Quốc dân (nòng cốt là liên minh Quốc dân đảng – Đảng Cộng sản Trung </sub>


Quốc), chiến tranh Bắc phạt diễn ra với quy mơ lớn và xóa bỏ ảnh hưởng của các quân phiệt, thiết lập nền
cộng hịa và ổn định tình hình Trung Quốc.


5 Phong trào Bất hợp tác được triển khai dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại và sự tham gia của các lực lượng xã hội



</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Từ khi thực dân Pháp và triều Nguyễn ký kết Hiệp ước Harmand (1883)
và Hiệp ước Patenôtre (1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa, chịu sự
thống trị của thực dân Pháp. Nền chính trị độc lập, tự do của Việt Nam bị xâm
hại bằng chế độ chia để trị. Học giả Nguyễn Xuân Thọ viết: “rất lâu trước khi
người Pháp đến, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nền tảng vững
vàng. Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, có một dân tộc Việt Nam, hồn tồn
thuần nhất, chỉ nói một thứ tiếng như nhau, có phong tục tập quán như nhau.
Nếu nhà cầm quyền Pháp đã chia đất nước ra làm ba “kỳ”, đó khơng chỉ vì
tiện lợi về hành chánh, mà chủ yếu nhằm mục đích “chia để trị” [32, tr. 22].


Nếu cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914), xã hội Việt
Nam xuất hiện “sự phân hóa xã hội sâu sắc và mạnh mẽ ở cả nông thôn lẫn
thành thị” [13, tr. 136], kinh tế Việt Nam đã hình thành tính chất thuộc địa rõ
rệt [13, tr. 152] thì cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) làm cho
bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam trải qua nhiều thay đổi. Việc thực dân Pháp
gia tăng tốc độ tiến hành khai thác nhanh để tận lực thu nguồn lợi mang về
chính quốc khiến xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng
như trình độ của công nhân, tư sản, tiểu tư sản,… đồng thời chứng kiến sự va
chạm, mâu thuẫn giữa những di sản truyền thống và sự du nhập ồ ạt của văn
hóa Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Đơng Dương cũng như Việt Nam, gây khó dễ cho tư sản Việt Nam bằng
những chính sách áp chế và tăng thuế lớn.


Mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam
sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã nảy sinh những yếu tố
mới. Xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng như trình độ
của cơng nhân, tư sản, tiểu tư sản,… Sự hình thành đơ thị và các trung tâm, cơ
sở kinh tế dẫn tới việc thúc đẩy vai trị lớn hơn của giai cấp cơng nhân và giai
cấp tư sản trong mơ hình kinh tế thuộc địa có yếu tố tư bản chủ nghĩa ở Việt


Nam. Với lực lượng hơn 221.050 người [13, tr. 306] và “tập trung tại các cơ
sở kinh tế yết hầu của tư bản Pháp” [13, tr. 306], giai cấp công nhân Việt
Nam từng bước khẳng định vai trị và khả năng của mình với tư cách là lực
lượng lao động sản xuất của nền kinh tế thuộc địa và cũng là lực lượng có
tiềm lực cách mạng cho các cuộc đấu tranh chống thực dân. Bên cạnh giai cấp
tư sản với thế lực kinh tế mạnh gồm “ngành dệt, xay xát, sửa chữa cơ khí, mỏ
than, đồn điền cao su” [13, tr. 304] tầng lớp tiểu tư sản của thời kì trước
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã phát triển cùng với sự mở mang của các
đô thị với lực lượng tương đương 600.000 người vào năm 1929 [13, tr. 308 –
309]


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

tư cách thiết chế sư phạm để cuối cùng chỉ được cảm nhận như cơng cụ thống
trị trong tay người nước ngồi” [29, tr. 386]


Chủ trương “Pháp - Việt đề huề” do Albert Sauraut đề xướng gây nên
những luồng ý kiến khác nhau trong phong trào chính trị đương thời. Lực
lượng quốc gia cải lương gồm Đảng Lập hiến (đại diện gồm Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long,…), Nguyễn Văn Vĩnh với chủ trương Trực trị,
Phạm Quỳnh với chủ trương Quân chủ lập hiến,…có những mức độ nhất định
đối với chủ trương này. Đối lập với xu hương quốc gia cải lương là xu hướng
dân chủ cách mạng với sự xuất hiện của các trí thức Tây học trẻ tuổi như Trần
Huy Liệu, Cao Văn Chánh, Nguyễn Văn Bá, Tôn Quang Phiệt, Bùi Công
Trừng, Trần Hữu Độ,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

thức đối với tính chất phi dân chủ, suy thối nghiêm trọng của chế độ thuộc
địa, của mô thức tồn tại xã hội hiện diện trên đất nước Việt Nam.


Chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã nô dịch các dân tộc nhược
tiểu, biến vấn đề dân chủ thành nhu cầu cấp bách của nhân dân và mang tính
sống cịn đối với tầng lớp trí thức u nước ở các thuộc địa. Sự bùng nổ của


các phong trào đấu tranh phản đế phản phong cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
mà đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng
cho khát vọng tự do lớn lao này. Ở Việt Nam, sang tới đầu thế kỷ XX, mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp đã trở nên gay gắt.
Vấn đề dân chủ mà trước hết và trên hết là hệ giá trị dân chủ cho dân tộc đã
trở thành nguồn gốc cho sự bùng phát mạnh mẽ các phong trào đấu tranh với
những con đường, phương thức khác nhau. Điều đó tác động lớn đến tư tưởng
và hành động của các nhà u nước Việt Nam, trong đó khơng thể không kể
đến Nguyễn An Ninh và tư tưởng của ông. Chàng trai trẻ Nguyễn An Ninh đã
mang trong mình khát vọng tự do đó khi bước ra thế giới trong chuyến viễn
du kiến thức của mình. Chính những điều mắt thấy tai nghe về tình hình thế
giới và sự đối chiếu với thực tế cùng khổ của người dân thuộc địa đã đưa ông
đến những nhận thức mới về vấn đề dân chủ, đặc biệt là về mối quan hệ giữa
sự rao giảng dân chủ tư sản và hiện thực dân chủ ở xứ thuộc địa An Nam.


<b>1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh </b>


<i><b>1.2.1. Một số luận giải của tư tưởng phương Đông về dân chủ</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

vậy, những luận giải sơ lược của tư tưởng phương Đơng về dân chủ đã có ảnh
hưởng tới Nguyễn An Ninh sâu sắc.


Thông qua tư liệu khảo cổ học, thần thoại và sử học, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Thục đánh giá ý thức đồn thể dân tộc gắn với tính thiêng của
tự nhiên (thông qua vật tổ và thờ thần linh) [33, tr. 41]. Nguyễn Đăng Thục đã
nhận định điểm đặc biệt trong cổ sử Việt Nam về sự hình thành ý chí dân tộc
dẫn đến sự lựa chọn của quần chúng nhân dân đối với người mang trọng trách
lãnh đạo. Điều quan trọng nhất là “người lãnh đạo ấy cũng phải coi thiên hạ
quốc gia là của chung, chứ không phải của riêng một nhà, một họ” [33, tr.
42]. Nhà sử học Phan Huy Lê cùng đồng nghiệp đã phân tích tính chia sẻ về


giá trị chung thơng qua hình ảnh người nữ, người nam khắc trên mặt trống
đồng Đông Sơn cầm các loại nhạc cụ, nhảy múa cùng muông thú, đất trời đã
“phản ánh cuộc sống hiện thực của con người mối quan hệ giữa con người với
thế giới xung quanh, bằng một phong cách diễn tả sinh động (…) với những
đường nét mang tính chất cách điệu, ước lệ, và với một bố cục cân xứng, hài
hịa.” [17, tr. 166 – 167]


Về một khía cạnh khác, yếu tố dân chủ trong lịch sử Việt Nam được xem
xét theo cách tiếp cận kinh tế - xã hội. Trên cơ sở phân tích những chuyển
biến lịch sử Việt Nam thời kì hậu khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà nghiên cứu
lịch sử Lê Văn Siêu đánh giá xã hội bấy giờ manh nha tinh thần dân chủ trong
môi trường sinh hoạt – sản xuất ở các làng xã người Việt. Sự thất bại của cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh dấu sự chấm dứt của một chính quyền độc lập
ngắn ngủi, chưa kịp quy định các thành tố cấu tạo nên cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng phù hợp. Điều này dẫn tới sự thiếu hụt trầm trọng lực lượng
sản xuất và những thửa ruộng đất biến thành ruộng đất công (gồm công điền
và công thổ). Việc phân công lao động trong làng xã của người Việt đã dẫn
tới sự bình đẳng cho cả người có tài sản hay khơng tài sản, khi được quy định
rằng cả hai loại người này đều có “quyền hưởng hoa lợi như nhau bằng việc
canh tác những ruộng đất ấy [27, tr. 202].


<b>Comment [L1]: </b>Nguyễn Đăng Thục (1964).
Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình
dân. Nhà sách Khai Trí.


<b>Comment [L2]: </b>Nguyễn Đăng Thục (1964).
Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình
dân. Nhà sách Khai Trí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Lê Văn Siêu dẫn chứng sự phân chia ruộng công ở làng Hạ Lỗ, phủ Từ


Sơn, Bắc Ninh cho thấy dấu vết dân chủ thể hiện ngay trong cách tổ chức
canh tác với mỗi mảnh ruộng khác nhau, ứng với mỗi chức năng khác nhau để
phục vụ lợi ích chung, “lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng” [27, tr. 202].
Điều này có sức ảnh hưởng lâu dài, đặc biệt đối với toàn bộ nỗ lực đánh giá
bản chất làng xã Việt Nam, xã hội Việt Nam. Và đây cũng là hiện trạng mà
Nguyễn An Ninh làm rõ qua những phân tích của ơng về tính dân chủ ổn định
trong làng xã Việt Nam, phản bác toàn bộ nỗ lực ngụy văn minh của giới cầm
quyền thực dân về việc Việt Nam chỉ tồn tại những hỗn loạn trước khi qn
Pháp đến làm cơng cuộc “khai hóa”.


Vấn đề dân chủ trong tư tưởng Việt Nam chưa có những hệ thống lập
thuyết, quan điểm trực tiếp và mang tính chỉnh thể của các luận đề có tính liên
kết. Khơng gian xã hội và biến động đặc điểm lịch sử phương Đông đã tác
động tới Việt Nam rất lớn. Yếu tố mang tính hài hịa, dung thông không
những gắn với lịch sử dân tộc và văn hóa, mà cịn có sự biểu hiện dưới dạng
giá trị dân chủ với tư cách cá nhân. Đối với trường hợp thơ văn và cuộc đời
của Hồ Xuân Hương, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đánh giá Hồ Xuân
Hương là nhà thơ dân chủ nhất trong số các nhà văn – nhà thơ cùng thời.
“đem vào văn học cả tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian lẫn những
phương tiện ngơn ngữ đặc thù của nó” [40, tr. 7], dù rằng nó “khơng giành
được ưu thế chủ đạo, nhưng không hề bị triệt tiêu khỏi văn học dân tộc” [40,
tr. 7].


Trên phương diện pháp luật, vấn đề dân chủ đã được thể hiện thông qua
các điều luật, quy định hình sự, dân sự trong luật Hồng Đức. Đây là bộ luật
được biên soạn dưới thời vua Lê Thánh Tông, trở thành tư liệu pháp luật
thành văn có tính chất tiến bộ và nhân bản trên phương diện đảm bảo các
quyền cơ bản trong xã hội Hậu Lê: “tất cả những hành động xâm phạm đến
nhân phẩm con người, như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà cha mẹ; anh
em, vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, làm nhục nhau (các điều từ 473



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

đến 476,…); các hành vi tố cáo, vu khống không đúng sự thật và trái quy định
(từ điều 501 đến điều 505); việc quan lại quấy nhiễu ức hiếp dân (điều 164);
tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (điều 636); phạm nhân không đáng
gông cùm mà gông cùm (điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (điều 707); đánh
chết hay bức tử người tù (điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và vị thành niên
(điều 665); không chăm sóc tù nhân (điều 663); xử tội khơng đúng tội danh và
theo luật quy định (điều 679),… đều bị pháp luật nghiêm trị. Đặc biệt, bộ luật
này còn đưa ra những quy định cấm “Các tước vương công và nhà quyền quý
tự tiện thích chữ vào dân đinh” (điều 168), cùng tất cả những ai tự tiện thích
chữ vào mặt vợ, con trai, con gái người khác và nô tỳ, người ở đợ (các điều
165, 168, 365); trị tội những tên quan lại và những người lợi dụng quyền thế
mà ức hiếp lương dân, bắt ép để lấy con gái người dân (điều 336, 338); tự tiện
bắt dân đinh làm đày tớ (điều 302); cấm người ngoài nài ép người vợ muốn
thủ tiết với chồng đi lấy người khác (điều 320) và tất cả những hành động
gian dâm (từ điều 401 đến điều 410 chương Thông gian), v.v.. Đáng lưu ý là,
các điều 401, 403, 404, 406 quy định, những hành động vi phạm nghiêm
trọng nhân phẩm con người, như hiếp dâm (kể cả gian dâm với trẻ em từ 12
tuổi trở xuống đều xếp vào tội hiếp dâm), loạn luân (gian dâm trong nội bộ
gia đình, gia tộc) đều bị trừng trị với hình phạt rất nặng: lưu, chém” [38, tr. 4]


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

tự do bản tính mọi người có thể dẫn ta đến một thứ hạnh phúc tương đối;
muốn có hạnh phúc tuyệt đối, phải có một hiểu biết cao về bản chất sự vật”
[Dẫn theo: 9, tr. 90]


Ảnh hưởng của đấng sinh thành, cũng như truyền thống gia đình và quê
hương đã tác động đến Nguyễn An Ninh ngay từ thuở thiếu thời. Khơng khí
của phong trào Minh tân Nam Kì (lấy ý từ câu Minh đức tân dân), mà Nguyễn
An Khương – thân phụ của Nguyễn An Ninh và là một trong những thành
viên cốt cán trong phong trào, đã giúp Nguyễn An Ninh thấu cảm tinh thần


dân chủ. Điều đó khơng chỉ đơn thuần là ý thức của biết bao thế hệ người Việt
thể hiện trong lối sống đối nhân xử thế, cầu học cầu tài mà còn là sự khát
khao làm chủ vận mệnh cá nhân. Khi Nguyễn An Ninh cịn nhỏ, ơng cảm tác
mấy câu sau: “Xích xiềng rèn đúc tự bên Tây/Cớ sao đem tới nước Nam
này/Để ta phải chịu chân cùm trói/Chừng nào tháo được xích xiềng đây?” [21,
tr. 106]. Ý thức về dân chủ, tự do, dân tộc đã hình thành trong Nguyễn An
Ninh từ những năm tháng thiếu thời và quyết định lựa chọn của ông trong
suốt phần đời cịn lại. Ơng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử, như một cơ sở quan trọng
cho quá trình ông nhận thức thực trạng và vai trò của quần chúng nhân dân
trong một xã hội Việt Nam thuộc địa cần những thay đổi lớn mạnh về thực
chất hơn là những khẩu hiệu ngụy dân chủ.


<i><b>1.2.2. Tư tưởng dân chủ tư sản </b></i>


<i><b>1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung </b></i>
<i><b>Quốc – Nhật Bản </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

trực diện với sự phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước Pháp trong
hình hài của giai đoạn thực dân. Thời gian nội chiến kéo dài và chính sách
bế quan tỏa cảng đã càng làm suy yếu cơ sở hạ tầng trong xã hội Việt
Nam, khiến người Việt Nam bị đóng khung và đối diện với hiện trạng bất
công, suy yếu của chế độ phong kiến đương thời. Với việc Việt Nam trở
thành thuộc địa qua Hiệp ước Harmand 1883 và thất bại của phong trào
Cần vương vào năm 1896, hệ tư tưởng phong kiến đã thực sự suy sụp
hoàn toàn và bộc lộ rõ những hạn chế đã tồn tại trong thời gian dài, chưa
từng được giải quyết triệt để.


Giáo sư Trần Văn Giàu nhận thấy điều đặc biệt ở đây là đối tượng tiếp
nhận tư tưởng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX không phải là giai cấp tư sản


“mà là những nhà chí sĩ Nho giáo xuất thân từ nền học cổ truyền, đồng thời
tiếp nối trực tiếp một phong trào kháng Pháp có truyền thống” [8, tr. 446]. Họ
đón nhận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua các tác phẩm mà trong lịch
sử Việt Nam được gọi là những “Tân văn”, “Tân thư” viết bởi những nhà tư
tưởng cấp tiến ở Nhật Bản (như Fukuzawa Yukichi – Phúc Trạch Dụ Cát,
Takayama Rinjiro) và Trung Quốc (như Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu,
Khang Hữu Vi)6. Chính từ mơi trường gia đình gắn bó với phong trào Minh
tân Nam Kì đã giúp Nguyễn An Ninh tiếp cận nội dung về dân chủ trong
khuynh hướng dân chủ tư sản của phong trào yêu nước bấy giờ.


<i><b>1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ </b></i>


Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học Khai sáng Pháp
và đặc biệt là quan điểm của Jean – Jacques Rousseau về dân chủ. Bản thân
Nguyễn An Ninh từng trực tiếp trích dịch tác phẩm “Khế ước xã hội” của
Rousseau dưới tiêu đề “Dân ước”, như một minh chứng cho những tiếp cận
của ông đối với tư tưởng dân chủ của Rousseau. Xét về nguồn gốc tư tưởng



6


Xem thêm trong bài viết “<i>Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Rousseau là triết học Pháp, nó hình thành sự kết nối tự do với bình đẳng và
bác ái trên cơ sở quan niệm về con người là một thực thể của tự nhiên, “mọi
đặc điểm và nhu cầu của nó đều mang tính vật chất và do tự nhiên quy định,
cịn trí tuệ, lương tri thể hiện là “ánh sáng của tự nhiên” [10, tr. 205 – 206].
Trong khi nhiều nhà tư tưởng Khai sáng Pháp không để tâm đến mâu
thuẫn giữa trạng thái tự nhiên với xã hội, thì Jean Jacques Rousseau đã thể
hiện sự quan tâm vấn đề này. Ông nhận thấy sự bất cập của các khế ước tự do


khởi thủy, ở phương diện quyền lực bị chiếm lĩnh bởi những cá nhân có sức
mạnh và tiền tài. Ông chủ trương xây dựng khế ước xã hội mang tính chất
cộng hịa, xác lập sự tự do của quần chúng nhân dân và khẳng định “chủ
quyền không tước đoạt được và không phân chia được của nhân dân” [10, tr.
212].


Với khế ước xã hội làm phương tiện trung gian, con người khơng cịn
đứng ngồi chỉnh thể xã hội mà trở thành một phần quan trọng đối với sự vận
động của nó trong khi vẫn đảm bảo quyền tự do của mình. Từ đó, Rousseau
đã đưa ra mơ hình dân chủ đại nghị - “chính quyền do các viên chức được dân
lựa chọn dựa trên khả năng được cho là xuất chúng và phù hợp của họ” [36,
tr. 212]. Rousseau cảnh báo tình trạng dễ xảy ra trong chế độ dân chủ, là
“trong khi luôn phải lưu ý về việc “khơng có gì nguy hiểm hơn ảnh hưởng của
các lợi ích riêng trong việc cơng, và sự lạm dụng luật pháp bởi chính quyền ít
tai hại hơn sự thối nát của người làm luật, sự thối nát này là hậu quả không
thể tránh được khi người làm việc công lại theo đuổi tư lợi” [25, tr. 121].


<i><b>1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ </b></i>


Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng dân chủ của
Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn, dựa trên nền tảng cảm nghiệm thực tế
ngay từ chính những tháng năm học tập và hoạt động yêu nước tại Pháp. Ơng
khơng những trực tiếp tìm đọc tác phẩm của các nhà tư tưởng tự do – dân chủ
thuộc trào lưu Khai sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,… mà còn trải


<b>Comment [L5]: </b>Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch sử
triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phương
Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia



<b>Comment [L6]: </b>Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch sử
triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phương
Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

nghiệm cộng tác với các tờ báo như “Le Libertaire”, “Europe”7 cũng như
chứng kiến khơng khí chính trị - xã hội nước Pháp và châu Âu.


Nhờ vậy, Nguyễn An Ninh đánh giá và cảm nghiệm những giá trị tự do,
dân chủ tác động đến lịch sử xã hội phương Tây và nhân loại. Không dừng ở
đó, ơng hướng về Mahatma Gandhi và Tơn Trung Sơn như hình mẫu của hai
trí thức thuộc địa ở châu Á đương định hình tư tưởng, hoạt động đấu tranh
dân chủ gắn chặt với tình trạng phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ và Trung
Quốc.


Tinh thần dân chủ của Mahatma Gandhi với tư tưởng Bất bạo động đã
ảnh hưởng lớn đến giai đoạn đầu trong hoạt động chính trị - xã hội của
Nguyễn An Ninh. Trong thời gian này, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
Bất bạo động của Mahatma Gandhi và phong trào đấu tranh ở Ấn Độ, luôn
thể hiện sự khâm phục và ngưỡng mộ trước cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn
Độ chống sự cai trị hà khắc của thực dân Anh. Nguyễn An Ninh từng tâm sự
rằng: “Nhiều đêm không ngủ được, tôi luôn nghĩ đến Gandhi, người đấu tranh
không mệt mỏi cho nền độc lập của Ấn Độ ngay trên nước Ấn Độ” [21, tr.
120]. Đặc điểm cuộc đấu tranh dân chủ trong quan điểm của Gandhi, được
Nguyễn An Ninh nêu rõ là một cuộc đấu tranh “dạy chúng ta phải đương đầu
bằng một cuộc chống đối thụ động, nhưng phải ngẩng cao đầu để chứng tỏ
rằng chúng ta có nhận thức đầy đủ về giá trị con người” [22, tr. 415]. Bên
cạnh đó, Gandhi đã đưa ra cách nhìn nhận của ơng lựa chọn hình thức đấu
tranh dân chủ bằng sức mạnh bạo lực như một lựa chọn ý thức luân lý – trách
nhiệm cho nỗ lực xóa bỏ mọi nỗ lực đàn áp của chế độ tàn bạo. Điều này


được Nguyễn An Ninh trích dẫn qua hai quan điểm của Gandhi: một là “ở
đâu, mà sự lựa chọn giữa sự hèn nhát và bạo lực, tôi khuyên nên dùng bạo
lực” [22, tr. 415]; hai là “Tơi thích thấy nước Ấn Độ được tự do bằng bạo lực,
cịn hơn bị xích lại bởi bạo lực của bọn thống trị” [22, tr. 415].




7 “<sub>Europe” là tờ báo quy tụ nhiều tác giả nổi tiếng như Romain Rolland, Louis Aragon, Rabindranath </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Ngoài ra, Nguyễn An Ninh có sự tìm hiểu và đánh giá cao hoạt động của
Tôn Trung Sơn và giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Tam dân trong chính hoạt
động đấu tranh dân tộc – dân chủ của Trung Hoa Quốc dân đảng. Điều này
được thể hiện trong loạt hai bài viết “Kinh nghiệm Quốc dân đảng” đăng trên
tờ báo <i>L’Annam</i> lần lượt vào ngày 27/01/1927 và ngày 07/02/1927. Tư tưởng
dân chủ của Tơn Trung Sơn nói riêng và của Trung Hoa Quốc dân đảng (tiền
thân là tổ chức Trung Hoa Đồng minh hội) luôn đặt điểm nhìn dân chủ vào
chính thực tiễn của Trung Quốc, đặt ra mục tiêu kiên định về việc nhận “sứ
mạng cho mình là hoạt động để giải phóng và làm hồi sinh dân tộc” [22, tr.
576]. Dân chủ, trong quan điểm của Tôn Trung Sơn, phải là sự phê phán và
nhìn thẳng trực diện vào những yếu kém đã và đang khiến quốc gia trì trệ, bần
cùng về tinh thần và ảnh hưởng tiêu cực sự sinh tồn. Quá trình phản tư đó địi
hỏi ý thức trách nhiệm rằng “phải thốt khỏi tình trạng này bằng một sự hồi
sinh” [22, tr. 576].


<i><b>1.2.3. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa </b></i>


<i><b>1.2.3.1. Tư tưởng của Charles Rappoport và Jean Jaures về dân chủ </b></i>


Bên cạnh tiền đề tư tưởng phương Đông và tư tưởng dân chủ của trào
lưu Khai sáng Pháp, Nguyễn An Ninh còn tiếp nhận những quan điểm về tự


do dưới góc nhìn của những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa như Karl Marx,
Friedrich Engels và Jean Jaures. Điều này diễn ra trong thời gian Nguyễn An
Ninh sinh sống tại Pháp và theo học ngành Luật tại Đại học Sorbonne. Khi
tham gia phong trào chính trị trong cộng đồng người Việt yêu nước tại Pháp,
ơng có sự tiếp xúc với tư tưởng dân chủ từ Charles Rappoport8 và Jean
Jaures9 - hai nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa của Pháp.




8 Charles Rappoport (14/06/1865 – 17/11/1941) là nhà cách mạng, nhà báo và là nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người
Pháp gốc Nga. Ông là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Khi nhìn nhận vấn đề dân chủ của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam,
Nguyễn An Ninh tiếp nhận quan điểm của Charles Rappoport trong bài “Chủ
nghĩa xã hội là gì?”. Rappoport trình bày quan điểm phê phán tình trạng tự do
của xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời, cũng là sự phê phán hệ quả của nền
dân chủ mà châu Âu đang hướng tới như sau: “Tự do thực sự không tồn tại ở
nơi mà tài sản không phải tài sản chung ở nơi mà người là nô lệ của người,
nơi mà nhà nước tư bản chủ nghĩa đã kiểm soát cuộc sống của chúng ta và
nguồn lợi của chúng ta. Tự do trong xã hội chúng ta là một từ trống rỗng, một
từ khơng có ý nghĩa, một lời nói dối” [44, tr. 15]10 Như vậy, tự do có bản chất
kinh tế và chính trị. Nền dân chủ cũng sở hữu những bản chất như vậy. Nhận
thức các quy luật kinh tế và chính trị là chìa khóa dẫn đến tự do và giải phóng
con người, đạt được mức độ phát triển hiệu quả của một nền dân chủ tiến bộ,
tiết chế.


Bên cạnh quan điểm của Charles Rappoport, Nguyễn An Ninh đã tìm
đọc và ảnh hưởng quan điểm của Jean Jaures về việc các nền dân chủ phải
gắn chặt với dân chủ xã hội, giải quyết các vấn đề dân tộc và là điều kiện xây
dựng sự hợp tác giữa những quốc gia với nhau. Jaures viết: “Thế giới trình


bày những vấn đề mới từ ngày này sang ngày khác. Chúng ta phải hồn thành
nền dân chủ chính trị bằng cách phát triển một nền dân chủ xã hội. Chúng ta
phải thâm nhập vào các quốc gia độc lập với tinh thần quốc tế, và bảo đảm sự
tiến hóa của cơng bằng xã hội trong hịa bình tồn cầu, bằng nỗ lực phối hợp
của các công nhân ở mọi quốc gia. Nhưng Dân chủ và Quốc gia, xét cho
cùng, là điều kiện thiết yếu và cơ bản của bất kỳ sáng tạo xa hơn và cao hơn
mà chúng ta có thể nhắm tới” [43, tr. 3]11.




tại Pháp, thủ lĩnh phong trào chống chiến tranh. Ông bị ám sát ngày 31/07/1914, bởi một phần tử quốc gia cực đoan bất
mãn với quan điểm của Jean Jaures về việc phản đối bùng nổ xung đột quân sự toàn châu Âu.


10 Nguyên văn quan niệm của Charles Rappoport phiên bản tiếng Anh như sau:


True liberty does not exist where property is not common property where man is the slave of man, where the capitalist
state has control of our lives and our wealth. Liberty in our society is an empty word, a word without meaning, a lie.


11


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i><b>1.2.3.2. Tư tưởng của Karl Marx và Vladimir Illyich Lenin về dân chủ </b></i>


Nguyễn An Ninh đã tiếp cận quan điểm của Karl Marx trong “<i>Tuyên </i>
<i>ngôn Đảng Cộng sản</i>” về sự tha hóa của chế độ kinh tế, trong bối cảnh những
cường quốc tư bản phương Tây làm bần cùng hóa những liên hệ giữa người
với người và làm lộ rõ yếu tính dân chủ. Ơng dẫn lời giải thích của Marx,
nhằm làm rõ thêm tính chất quan trọng trong quan điểm của Marx về thực tại
xã hội: “Xưa kia sự bóc lột kẻ nghèo cịn khốc bên ngồi cái áo tôn giáo và
chánh trị. Ngày nay sự bóc lột trở thành trực tiếp, tàn bạo, rõ ràng là khơng
cịn e lệ nữa. Nó khơng muốn cho sự giao tế giữa con người với nhau cịn có


một sự ràng buộc nào đó khác hơn là sự tư rõ rệt, mà trong đó khơng có chỗ
đứng cho tình cảm” [22, tr. 1005]


Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và đặc biệt là sự kiện
Đảng Cộng sản Pháp ra đời từ sau Đại hội Đảng Xã hội Pháp tại Tours (25/12
– 30/12/1920) đã tác động đến Nguyễn An Ninh rất lớn. Sự kiện Nguyễn Ái
Quốc tham gia Đại hội Tours, tán thành Quốc tế III và trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp thúc đẩy Nguyễn An Ninh tìm
hiểu, tán đồng những khía cạnh cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, Nguyễn An Ninh đã tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội những luận giải
của tinh thần, nguyên tắc dân chủ. Ông trực tiếp nghiên cứu Sơ thảo lần thứ
nhất Luận cương về các vấn đề Dân tộc và vấn đề Thuộc địa của V.I.Lenin,
chịu ảnh hưởng quan điểm của Lenin về bản chất chế độ dân chủ tư sản thuộc
địa: “Nấp dưới hình thức quyền bình đẳng cá nhân nói chung, chế độ dân chủ
tư sản tuyên bố quyền bình đằng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp
luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột” [15,
tr. 198].




The world presents new problems from day to day. We must complete the political democracy by developing
a social democracy. We must penetrate independent nations with the international spirit, and secure the
evolution of social justice in universal peace, by the concerted effort of workmen in every country. But
Democracy and Nation are, after all, the essential and fundamental conditions of any further and higher
creation we may aim at


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Những sách báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như
“L’Humanité”, “Le Populaire”, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”,… giúp cho
Nguyễn An Ninh tích cực tham gia phong trào cách mạng ở Pháp cũng như
một số nước khác. Nguyễn An Ninh nhìn nhận và tán thành chủ nghĩa xã hội,


chủ nghĩa cộng sản vì đó là “hiện thân của cả nền Công lý và của cả cái Sức
mạnh dẹp bỏ bất công, bảo vệ kẻ yếu và giải phóng những người bị áp bức”
[22, tr. 647]. Đó là luận lý dân chủ phản ánh nguyện vọng thay đổi hiện trạng
những mâu thuẫn hướng đến lợi ích chung của xã hội, thay vì loại hình dân
chủ theo tiêu chuẩn kép của các nhà nước tư sản chỉ chú trọng lợi ích bản thân
mà khơng coi trọng nhìn nhận, xây dựng một mối quan hệ công bằng với các
dân tộc thuộc địa.


<b>1.3. Nguyễn An Ninh – cuộc đời và sự nghiệp </b>


Nguyễn An Ninh sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900, tại làng Long
Phượng, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Cần
Giuộc, tỉnh Long An). Trong kí ức của bà Nguyễn Thị Minh (con gái của
Nguyễn An Ninh), nguồn gốc tổ tiên của ông “ở tận ngoài Bắc. Thời Trịnh
Nguyễn phân tranh vì chống lại triều đình mà bị tội xử chem. rồi trơi dạt vào
Bình Định, từ họ Đoàn phải đổi sang họ Nguyễn” [21, tr. 96]. Đến đời cụ
Nguyễn An Nghi (ông nội của Nguyễn An Ninh), cụ chuyển từ phủ An Nhơn
(nay là thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) xuống Phước Lý (thuộc tỉnh Chợ
Lớn) làm nghề dạy võ, chữa bệnh và dạy học. Ngày thực dân Pháp đánh
chiếm Nam Kỳ, cụ tham gia khởi nghĩa Trương Định cho đến khi Trương
Định hy sinh (năm 1864). Từ đó, cụ cùng gia đình chuyển về q vợ Phước
Quảng, truyền dạy nghề y cho hai người con trai là Nguyễn An Khương (cha
của Nguyễn An Ninh) và Nguyễn An Cư (chú của Nguyễn An Ninh), dặn dò
con cháu về nỗi nhục mất nước của dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>diễn nghĩa</i>”, “<i>Đông Châu liệt quốc</i>”, “<i>Phong thần</i>”, “<i>Thủy Hử</i>”,…) mà còn là


người sáng lập khách sạn Chiêu Nam Lầu (nhằm giúp đỡ về kinh tài cho
phong trào Duy tân và là nơi tụ họp các nhà yêu nước từ miền Bắc - miền
Trung, giúp thanh niên yêu nước xuất dương), tham gia phong trào Duy tân


cùng với những nhà yêu nước như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt,…
Thân mẫu của Nguyễn An Ninh là Trương Thị Ngự (1873 – 1911), một
người phụ nữ hiền hậu, nết na, nếp sống bình dị gần gũi với mọi người xung
quanh. Vì tất bật lo cho gia đình, sức khỏe của bà yếu đi nhưng vẫn cố gắng
dành thời gian trực tiếp quản lý Chiêu Nam Lầu (cùng chị chồng là bà
Nguyễn Thị Xuyên) cho đến khi bệnh của bà trở nặng rồi qua đời năm 1911.
Qua 10 năm sinh sống ở Tân An (1900 – 1910), Nguyễn An Ninh được
cha đưa lên Sài Gòn sống cùng ơng bà nội. Ơng được ơng nội xin vào học
trường dòng Taberd, sớm bộc lộ tư chất thông minh đến độ “nghe giảng ở
trường đã hiểu, về nhà chỉ đọc thêm sách” [21, tr. 110]. Sau khi thi đỗ
Certificat trường dòng Taberd và đậu bằng trung học cơ sở (Brevet
élémentarie) của trường Chasseloup Laubat (nay là trường Trung học Phổ
thông Lê Quý Đôn), ông và được tuyển thẳng vào Cao đẳng Y Hà Nội năm
1916. Nguyễn An Ninh làm quen với viết báo12 và về sau xin học ngành Luật
ở Hà Nội. Ông nhận thấy học Luật ở trong nước chỉ toàn là kiến thức về luật
cai trị, chứ thực dân Pháp cũng như hệ thống giáo dục thuộc địa “không muốn
đào tạo ra những luật sư bản địa” [21, tr. 115]. Ông quyết tâm sang Pháp vì
ơng muốn “học luật của chính đất nước sinh ra luật lệ đó” [21, tr. 115], tìm
đến nguồn cội của văn minh Pháp và tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp 1789
cũng như bày tỏ nguyện vọng muốn sang các nước châu Âu khác.


Trong thời gian theo học Luật tại Hà Nội, Nguyễn An Ninh đã nhận thấy
bản chất của nền giáo dục thuộc địa do thực dân Pháp thống trị khơng gì khác
ngồi việc đào tạo những cơng chức thuộc địa. Hoặc chí ít là khơng có ý chí




</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

đấu tranh cho danh dự và phẩm giá của bản thân, không kiên quyết tạo dựng
nên sự thay đổi mọi mặt để phát triển dân tộc khỏi sự áp bức. Qua những tìm
hiểu và trải nghiệm trực tiếp từ những tư tưởng dân chủ - tự do của xã hội


phương Tây, Nguyễn An Ninh đã bắt đầu quá trình xác định nghịch lý tự do
trên cơ sở tri thức đã học hỏi và trực tiếp nhập cuộc vào thực tiễn lịch sử - xã
hội Việt Nam.


Giai đoạn đầu tiên diễn ra từ năm 1923 đến năm 1926, Nguyễn An Ninh
trình bày những luận giải về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực chính trị, xã
hội, ngơn ngữ, giáo dục, kinh tế, đạo đức, văn hóa,... “Chung đúc một nền học
thức cho An Nam” (25/01/1923) và “Lý tưởng của thanh niên An Nam”
(15/10/1923) là hai bài viết, đồng thời là hai bài thuyết trình mang dấu ấn đặc
biệt của Nguyễn An Ninh về tình trạng văn hóa – tinh thần dân tộc và khơi
dậy sự dấn thân, tự lực tự cường của quần chúng nhân dân. Chính từ bài “Lý
tưởng của thanh niên An Nam”, Nguyễn An Ninh đã đề cập đến việc con
người cá nhân có quyền tự do, tự do tuyệt đối khi đưa ra lựa chọn cho cuộc
đời và sự khao khát hiểu biết của chính mình, khiến đời mình có ý nghĩa lớn
lao hơn mọi nền cai trị hà khắc và gây nên nền tảng văn hóa cho những thành
công, nỗ lực của tương lai dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Được sự ủng hộ của gia đình và bạn bè, Nguyễn An Ninh cho ra đời tờ
báo “La Cloche Fêlée” (Tiếng chuông rè) vào ngày 10/12/1923, viết bằng
tiếng Pháp và là cơ quan ngôn luận khởi xướng tinh thần cách mạng – dân
chủ đầu tiên trong sự nghiệp của Nguyễn An Ninh. Từ ngày thành lập đến khi
tờ báo ngừng hoạt động, Nguyễn An Ninh với các bút danh (như Cloche
Fêlée, Nguyễn Tịnh, NT, Đố Biết, ĐB,…) đã liên tiếp đăng những bài viết về
hiện trạng xã hội Việt Nam, giới thiệu cho độc giả về tư tưởng cách mạng của
Pháp, Ấn Độ và, lần đầu tiên, ông đăng các bài viết tiếp theo về “Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản” giới thiệu về chủ nghĩa Marx ở Việt Nam. Với việc sáng lập
báo <i>La Cloche Fêlée</i> (Tiếng chuông rè), Nguyễn An Ninh có thêm kinh
nghiệm viết báo và hoạt động đấu tranh công khai bằng báo chí. Ơng quyết
định chuyển đổi báo <i>La Cloche Fêlée</i> (Tiếng chuông rè) sang báo “<i>L’Annam</i>”
(Người An Nam): từ báo tiếng Pháp sang báo tiếng Việt, thu hút sự quan tâm


và hưởng ứng của đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó mạnh mẽ nhất
chính từ tinh thần ủng hộ nhiệt liệt của đồng bào miền Nam.


Trải qua tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương” (tiếng Pháp: Le France
en Indochine)13, Nguyễn An Ninh nêu tình trạng của phong trào chống thực
dân ở Việt Nam và đặt nghi vấn cho các vấn đề về tự do cá nhân, tự do đi lại,
tự do tư tưởng, quyền công dân, được bầu cử đại diện của người bản
xứ,...Ơng phân biệt rạch rịi giữa giới thực dân Pháp và nhân dân nước Pháp,
bày tỏ suy nghĩ về việc người Pháp cần hoàn toàn thay đổi suy nghĩ và hành
động đối với thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Nền dân chủ thuộc
địa là sự giả tạo, và Nguyễn An Ninh càng khẳng định lập trường chống thực
dân không khoan nhượng. Kể từ đó, Nguyễn An Ninh tiếp tục viết các bài viết
luận, bài báo làm rõ vấn đề dân chủ khi được đánh giá và nhìn nhận dưới góc
độ chính trị, an ninh, luật pháp, báo chí,... Trong nguồn cội tư tưởng của
Nguyễn An Ninh, ảnh hưởng của Gandhi, Tagore, triết học Khai sáng Pháp và




</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

các quan điểm về dân chủ của Jean Jaures, Léopold Cadière, Paul Claudel,...
song hành với ảnh hưởng của Phan Châu Trinh – người đã để lại dấu ấn đậm
nét cho giai đoạn 1923 – 1928 với bài thuyết trình “Đạo đức và ln lý Đơng
– Tây” và bài “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”.


Những vụ án chính trị đã ảnh hưởng đến tình hình chính trị đương thời và
kể cả Nguyễn An Ninh. Từ những vụ oan sai của người Việt Nam ở Bắc –
Trung – Nam, vụ án Bardez (1925) ở Cambodia và đỉnh điểm là vụ án Phan
Bội Châu (1925) một lần nữa châm ngịi cho hoạt động chính trị cơng khai tại
các đô thị và các cuộc đấu tranh ở nông thơn. Tự do chính trị, tự do cá nhân,...
xuất hiện ngày càng nhiều và tỷ lệ thuận với diễn biến của các sự kiện nêu
trên. Nguyễn An Ninh nhận thấy khoảng cách đang ngày càng bị hằn sâu


trong nội bộ phong trào chính trị chống thực dân, giữa một bên là Đảng Lập
hiến (lãnh đạo bởi Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,...) với một bên là
lực lượng cách mạng – dân chủ như Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn,
Cao Văn Chánh, Trần Hữu Độ, Lâm Hiệp Châu, Eugene Dejean de la Batie,...
Sự thất bại của tự do được Nguyễn An Ninh thể hiện trong bài “Hồi kết của
vụ án Bardez” và loạt bài với nhan đề “Lời tự sự của người nơ lệ”. Ơng khơng
tán đồng về bất cứ ý tưởng mang tính cưỡng ép cho một quan điểm rằng dân
chủ ở thuộc địa là thứ có thể đạt được. bên cạnh những bài viết phê phán tính
chất đàn áp của chính quyền thực dân và ủng hộ những nhân vật, phong trào
cách mạng quần chúng trên con đường khẳng định quyền tự quyết đối với tự
do và quyền làm chủ của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

đột liên tiếp diễn ra. Đối với Nguyễn An Ninh, ơng khơng cịn nghĩ đến bất cứ
khả năng hợp tác với chế độ thực dân Pháp và tiếp tục mạch nguồn đấu tranh
dân chủ vì nhân dân như một trong những động lực giúp ông kiên định với
con đường đấu tranh của mình.


Nếu ở giai đoạn 1923 – 1926, vấn đề dân tộc được Nguyễn An Ninh đề
cập với tần suất còn khiêm tốn so với nội dung chủ đạo phê phán hiện trạng
xã hội và quyền lực thực dân thì đến giai đoạn 1926 – 1928, Nguyễn An Ninh
có sự thay đổi đáng kể. Ơng khơng những chuyển lối hành văn từ ngôn ngữ
Pháp (dùng cho tờ <i>La Cloche Fêlée</i>) sang tiếng Việt (với tờ báo <i>L’Annam</i>),
mà còn dành 80 bài báo cho nội dung song đôi vấn đề nghịch lý tự do với vấn
đề dân tộc – cách mạng. Đây cũng là giai đoạn ông triển khai thành lập tổ
chức cách mạng trong quần chúng nhân dân miền Nam, với tên gọi Thanh
niên Cao vọng cho đến năm 1928 – thời điểm diễn ra những biến động chính
trị khiến Nguyễn An Ninh cũng như cách mạng Việt Nam đứng trước những
khó khăn mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>Tiểu kết chƣơng 1 </b>



Giai đoạn vận động dân tộc - dân chủ 1919 - 1929 gần như là nền tảng
cho những bước ngoặt của phong trào chính trị chống thực dân ở Việt Nam,
nhưng đến nay vẫn cịn khiêm tốn với vị trí mà nó xứng đáng. Những năm
1923 – 1928, tình hình lịch sử - xã hội của thế giới và Việt Nam đã ảnh hưởng
lớn đến Nguyễn An Ninh. Sự phát triển của các phong trào cách mạng cánh tả
và phong trào dân chủ - tự do truyền thống ở châu Mỹ, châu Phi và châu Âu
giúp ông nhận thấy những thách thức và cơ hội của thời kì tranh đấu cho tự do
và dân chủ. Thành công của cuộc chiến tranh Bắc phạt (1927) dưới sự lãnh
đạo của Quốc dân đảng và hiện tượng Gandhi cùng phong trào Bất bạo động
(Swaraj) tác động trực tiếp đến Nguyễn An Ninh, khi cả hai sự kiện đều là
thắng lợi của những nước thuộc địa trong vấn đề dân tộc tự quyết, mà còn là
minh chứng cho một cuộc đấu tranh dân chủ và tự do trước sự thống trị của
sức mạnh thực dân.


Từ một thanh niên yêu nước, Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng gần như
song song những nội dung của các tư tưởng triết học phương Tây về dân chủ
cũng như tư tưởng của một số học thuyết gia trong trào lưu xã hội chủ nghĩa.
Việc trở về Việt Nam khiến Nguyễn An Ninh chứng kiến hiện thực khắc
nghiệt của quê hương trước ách cai trị của chế độ thực dân Pháp: đời sống
nhân dân bị tha hóa trầm trọng, sự tồn tại của những giá trị tinh thần truyền
thống bị thách thức rất lớn trước những luồng văn hóa nặng tính thực dân,
phong trào cách mạng duy trì trong tư thế bị động và gần như chia rẽ trước
những chính sách bổ sung của thực dân Pháp,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37></div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b>CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ </b>
<b>TƢỞNG NGUYỄN AN NINH </b>


<b>2.1. Quan niệm của Nguyễn An Ninh về hai nguyên tắc dân chủ </b>



<i><b>2.1.1. Nguyên tắc tự quyết về tinh thần </b></i>


Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, mọi thời đại hay ít nhất là mọi
giai đoạn, thời kì, đều tồn tại vấn đề nền tảng là tìm hiểu, xây dựng và củng
cố nền văn hóa cũng như hệ tư tưởng phù hợp với những yêu cầu của những
thời đại nhất định, những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Lịch sử Việt
Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng khơng nằm ngồi q trình đó. Thời
điểm đó, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp. Nguy cơ bị phụ thuộc
về hệ giá trị tinh thần có vai trị quan trọng, mang tính quyết định đối với
mọi nỗ lực nhận thức và hành động sao cho gây dựng được sức mạnh dân
tộc của những cá nhân đầy đủ hiểu biết, phẩm chất cho sự xác lập giá trị
dân chủ. Một khi tinh thần không đủ mạnh để gạt bỏ sự lưu trữ của những
yếu tố bảo thủ, trì trệ thì khơng thể tiếp nhận hồn chỉnh những giá trị tích
cực của nhân loại và càng khơng thể có những chuyển biến rõ rệt, hiệu quả
về mọi mặt. Vì vậy, tư tưởng dân chủ của Nguyễn An Ninh xuất phát từ
chính cách tìm hiểu, tiếp cận của ơng thơng qua việc tìm hiểu tinh thần dân
tộc, tìm rõ đâu mới chính là cơ sở để khẳng định tinh thần tự quyết của
người Việt Nam trong lịch sử và đương thời.


Ngay từ khi trở về nước (tháng 11/1922), Nguyễn An Ninh đã chuẩn bị
cho lần diễn thuyết đầu tiên trước đồng bào, làm bước khảo sát đầu tiên tâm
tư của nhân dân Việt Nam trên nền tảng của một ý tưởng được xác định – đó
chính là “nền văn hóa của dân tộc Việt Nam” [21, tr. 130]. Với hai bài diễn
thuyết “Chung đúc một nền học thức cho An Nam” (25/01/1923) và “Lý
tưởng của thanh niên An Nam” (15/10/1923), Nguyễn An Ninh đã bước đầu
trình bày, xác định cuộc khủng hoảng tinh thần tự do của dân tộc Việt Nam đã
bắt nguồn từ những ảnh hưởng của quá khứ và đương thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Quá khứ của văn hóa dân tộc Việt Nam trước khi bị thực dân Pháp xâm
lược, là quá khứ ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Trung Hoa từ thời Bắc


thuộc. Dù dấu vết của nó tồn tại đến đầu thế kỷ XX, Nguyễn An Ninh đánh
giá: “Nền văn hóa Trung Hoa trên nước ta đang suy” [22, tr. 59]. Khi Nho
giáo truyền vào Việt Nam vào thế kỷ I sau Công nguyên (bởi các quan lại,
Nho sĩ Trung Hoa), tính chất chính trị dường như bị nhấn mạnh hơn rất nhiều
so với tính nhân văn nguyên gốc vốn có của Nho giáo14. Nguyễn An Ninh
bước đầu đề cập tinh thần tự quyết, phản kháng của người Việt Nam khi phản
kháng hệ hình Nho giáo bị chính trị hóa bởi các chế độ phương Bắc qua câu
hỏi “Liệu có lúc nào, nền văn hóa đã chịu được phong thổ nước ta chưa?” [22,
tr. 59]. Bởi bản chất ban đầu được các chế độ Bắc thuộc xác nhận là đồng
hóa, Nho giáo Trung Hoa khi truyền vào Việt Nam thời Công nguyên như
“một món hàng hóa xuất cảng”, thậm chí là “đạo Khổng dưới dạng hàng xuất
cảng” [22, tr. 61]. Nó khiến những người có học ở Việt Nam hình dung một
sự lập luận “tưởng rằng ngồi cái đạo Khổng khơng có ý tưởng nào là rộng, là
thật” [22, tr. 62].


Bên cạnh những khảo sát về dấu ấn văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam,
Nguyễn An Ninh cũng nhận định về dấu ấn văn hóa Pháp ở Việt Nam. Ông
thấy rằng thời đó, “chưa thấy người An Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của
văn hóa Pháp” [22, tr. 63]. Bởi thực trạng đáng suy ngẫm ở đây rằng văn hóa
Pháp, dù đã đặt chân đến Việt Nam từ những năm nửa cuối thế kỷ XIX, vẫn
khơng phải văn hóa thực sự đúng nghĩa. Vì theo Nguyễn An Ninh, “học Tây
trong nước ta bây giờ là chỉ học để làm nô lệ cho nhà nước” [22, tr. 63]. Đây
chính là thực trạng của hệ thống giáo dục mà thực dân Pháp đã áp đặt lên Việt
Nam bấy giờ, cũng là thực trạng mà xã hội Việt Nam bấy giờ phải đối mặt.




14Điều này vốn xuất phát từ vai trò của Đổng Trọng Thư (179 TCN -104 TCN) khi lấy Nho gia Tiên Tần làm cơ sở, tiếp


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Ngay ở cấp tiểu học, hệ thống giáo dục của Pháp đã làm một việc, theo


Nguyễn An Ninh, là thực sự khó hiểu khi “trình độ kiến thức của một đứa học
trò 14 hoặc 15 tuổi bị hạ xuống thấp như trình độ của một đứa con nít mới lên
1 hoặc lên 5” [22, tr. 201]. Bởi những đứa trẻ đi học trường Pháp dường như
phải đối mặt với việc làm quen những kiến thức bằng việc “lặp lại một cách
ngốc nghếch những điều mà mẹ của nó đã dạy cho nó từ biết từ lúc nó cịn
nhỏ xíu” [22, tr. 202], thay vì tiếp nhận những tri thức mới và hữu hiệu hơn.
Điều này dễ sản sinh lối ứng xử không hề văn minh của khơng ít thanh niên
học tiếng Tây, rằng những thanh niên đó “được đào tạo theo kiểu Tây nói
tiếng Tây bồi để khoe với bọn người nông dân nhà quê là mình đã tiếp thu
được nền khoa học Âu Tây” [22, tr. 202].


Với hai minh chứng nêu trên, Nguyễn An Ninh đã đưa ra một số nhận
định về “khai hóa” của thực dân Pháp, xét trên khía cạnh giáo dục, rằng “sự
giáo dục đã được ban phát trong các trường Pháp ở Đông Dương chẳng
những không đem lại ánh sáng học vấn nhiều hơn cho các dân tộc đang được
Pháp che chở thì chớ, mà lại cịn hạ thấp thêm trình độ kiến thức của họ,
ngăn trở không giúp họ phát triển sự thông minh” [22, tr. 202]. Nguyễn
An Ninh không giấu nổi sự trăn trở về hiện trạng văn hóa Việt Nam khi
chỉ được tiếp cận những yếu tố giáo dục mang tính ngu dân của thực dân
Pháp, bởi chính từ cái lối giáo dục “đào tạo nô lệ” mà Pháp tiến hành ở
Việt Nam đã dẫn tới sự xuất hiện của một “giai cấp mới qi lạ” chun
khoe mình nói tiếng Pháp là “dấu hiệu của tâm hồn quý tộc” [22, tr. 203];
họ lãng quên hay thậm chí là tỏ thái độ vứt bỏ tiếng mẹ đẻ; lối học địi
sính ngoại,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Trong suy nghĩ và tâm tưởng của Nguyễn An Ninh, “hai chữ văn hóa tự
nó đã bao hàm ý nghĩa về cái chỗ rộng mênh mông, một chỗ cao hơn hết mà
ta có thể đạt được sau khi hấp thụ những chân trời cao rộng” [22, tr. 59]. Ông
thể hiện tư tưởng xây dựng nền văn hóa dân tộc kết hợp cùng với những giá
trị văn hóa mới, tiến bộ - những giá trị được ông thể hiện qua hình ảnh


“những chân trời cao rộng”. Ngưỡng của sự kết hợp truyền thống - hiện đại ở
đây được Nguyễn An Ninh miêu tả là một nơi “rộng mênh mông, một chỗ cao
hơn hết”.


Bằng mục tiêu ban đầu của sự nghiệp là góp phần xây dựng nền văn hóa
cho dân tộc những khảo sát văn hóa Trung – Pháp - Ấn, Nguyễn An Ninh đã
đưa ra định nghĩa về văn hóa. Theo ơng, “văn hóa là tâm hồn của một dân
tộc” [22, tr. 64]. Để làm được điều như vậy, Nguyễn An Ninh quan niệm cá
nhân phải khẳng định quyền tự quyết ngay trong giới hạn tinh thần của mình.
Ơng nhận thấy “một con người có tâm hồn cao thượng thì mới biết những thú
vui thanh cao trong cuộc sống” [22, tr. 64], từ đó dẫn tới việc “một dân tộc có
nền văn hóa cao thượng thì mới được hưởng những đặc ân”. Ở đây, từ “đặc
ân” của Nguyễn An Ninh được diễn giải theo hai hướng. Thứ nhất, xét về tác
dụng, “nhiều dân tộc nhờ có nền văn minh của mình mà nổi danh trên thế
giới, mà gây được ảnh hưởng của mình trên thế giới”. Xét về tính cấp thiết
trong trường hợp xấu nhất, “dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại
bang thì khơng thể có độc lập thật sự” [22, tr. 64]


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

ra ví dụ về văn hóa Trung Hoa. Trong lịch sử, Trung Hoa nhiều lần “bị bạo
lực lấn áp bị các dân tộc man di láng giềng xâm chiếm, nhưng nhờ có nền văn
hóa mà nước Trung Hoa vẫn tồn tại cho đến ngày nay”, thậm chí cịn “mở
rộng biên cương và (…) thêm hùng mạnh, ảnh hưởng càng rộng lớn”[22, tr.
65]. Dường như, điều đó khiến những nước dù chiếm được Trung Hoa bằng
quân sự, song không tài nào áp chế nổi văn hóa của họ lên văn hóa Trung
Hoa. Để rồi, những nước đó “lại bị nền văn hóa Trung Hoa chinh phục” [22,
tr. 65].


Với Nguyễn An Ninh, văn hóa dân tộc chính là nguồn cội của một dân
tộc mạnh mẽ, một dân tộc hoàn toàn tự quyết về giá trị tinh thần của mình,
chứ khơng cịn là một dân tộc phải chịu cảnh hữu danh vô thực, phải nếm trải


những đắng cay của con đường tranh đấu cho một tự do, độc lập không biết
bao giờ mới đạt được. Văn hóa hướng dân tộc đó đến những điều tốt đẹp và
những giá trị nhân văn.


Thực vậy, ơng thấy rằng “Khi nói dân tộc giống nòi sẽ sống, chúng tơi
khơng muốn nói là sẽ sống bình yên cuộc sống của loài thú vật, mà là sống
với nền văn hóa với sức mạnh, với tất cả những gì tốt đẹp nhất để cho một
dân tộc hay một thời đại có thể lưu lại cho đời sau một dấu ấn sâu xa hay một
vầng hào quang rực rỡ” [22, tr. 158]. Để đạt được viễn cảnh của nền văn hóa
mạnh mẽ trong lòng của một tinh thần tự do – tiến bộ quyết liệt, Nguyễn An
Ninh nhận định điều tốt nhất có thể làm cho văn hóa dân tộc chính là giữ
vững truyền thống kết hợp với sự dung hợp văn hóa dân tộc với thời đại, để
“làm sống lại và làm nảy nở tâm hồn của nòi giống” và làm cho văn hóa dân
tộc có sức sống mạnh mẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

được trang bị hai phía, vừa phải tiếp nhận văn hóa Âu Tây và cả văn hóa Á
Đơng nữa” [22, tr. 63]. Trong tâm tưởng của Nguyễn An Ninh, tự do và độc
lập về sức mạnh tri thức và bề dày văn hóa đủ sức mạnh tiếp nhận giá trị văn
hóa của thời đại là điều kiện tiên quyết cho sự tự do và độc lập về chính trị và
cá nhân. Văn hóa khơng thể và khơng bao giờ là bộ phận tinh thần vắng mặt
trong quá trình khơi dậy trong con người những đam mê, ước mơ, hành động
không ngừng để không phải trở thành những kẻ cuồng tín kẹt bề dày tri thức
nhân loại, mà phải trở thành những con người làm chủ tri thức “được tự do
lựa chọn, tự do tuyệt đối” [22, tr. 74].


Sự tự quyết về tinh thân, theo Nguyễn An Ninh, cần có vai trị của ngơn
ngữ nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng. Theo ơng, “tiếng nói là người bảo
vệ quý giá nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp
giải phóng các dân tộc bị thống trị” [22, tr. 425]. Sứ mệnh xây dựng văn hóa
mới, con người mới cần được thực thi bởi chính quốc dân đồng bào, và nhất


là thế hệ thanh niên. Nguyễn An Ninh gửi gắm hy vọng lớn lao đến thanh
niên của đất nước. Ông viết: “Vì lẽ chúng ta ngày nay phải tạo lập nên sự
nghiệp của mình, nên thanh niên ta ngày nay phải biết nhìn về tương lai làm
sao đưa tương lai đó đến gần. Chúng ta phải biết dang chân ra, một chân đặt
vững chắc trong hiện tại, chân kia phải bỏ vào tương lai, một tương lai gần
gũi mà chúng ta xem như là hiện tại thực sự của chúng ta” [22, tr. 73]. Ông
lưu ý đến thế hệ thanh niên Việt Nam hãy luôn “ước mơ thật nhiều, nhưng
phải hành động” [22, tr. 70], coi hành động chính là sự khảng định mạnh mẽ
nhất đối với việc hiện thực hóa những ước mơ to lớn cho mình, cho mọi
người và cho sự đi lên của văn hóa dân tộc.


<i><b>2.1.2. Nguyên tắc dân chủ trong sự truy vấn bản chất kinh tế và chính trị </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

mạnh nhiều lần trong không gian thuộc địa qua những bài báo trong thời gian
2 năm (1923 – 1924), luôn là giá trị được ông đặt vào một sự tiếp xúc và đánh
giá mang tính lý trí xen lẫn những hoài nghi về những thứ làm nên nền tảng
của chế độ thực dân. Ông cũng nhấn mạnh về việc tự do kinh tế, chính trị thực
chất mới đạt được những nguyên tắc xây dựng nền dân chủ. Điều này sẽ được
Nguyễn An Ninh tiếp tục trình bày cho đến năm 1928, vẫn có mối quan hệ
mật thiết với tình hình quyết liệt và phức tạp của xã hội thuộc địa.


Nguyễn An Ninh tiếp cận vấn đề dân chủ từ góc nhìn của ơng đối với
lĩnh vực liên quan đến kinh tế - chính trị thuộc địa. Đó là việc chính quyền
thực dân Pháp huy động công trái trong các giới xã hội của thuộc địa, nhằm
đạt được nguồn thu tài chính cho qn đội Pháp. Về cơ bản, cơng trái (hay trái
phiếu chính phủ) đều chung bản chất với trái phiếu do các doanh nghiệp phát
hành. Quan điểm kinh tế - chính trị của Marx – Lenin coi công trái như một
loại trái phiếu được duy trì trên thị trường chứng khoán, “người mua trái
phiếu không phải là cổ đông của doanh nghiệp mà chỉ đơn thuần là người cho
doanh nghiệp vay vốn với giá trị tương ứng với mệnh giá trái phiếu. Khi hết


hạn, người sở hữu trái phiếu có quyền được hoàn trả số tiền đã mua trái phiếu
theo mệnh giá kèm theo khoản lợi tức gọi là lợi tức trái phiếu” [28, tr. 303].
Vì vậy, có thể thấy, mối quan hệ giữa người mua công trái và người nhờ vay
là mối quan hệ tự do, cân bằng về lợi ích kinh tế cũng như tính khả dĩ của tình
hình thị trường trên tinh thần dân chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45></div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

đó là sự xuất hiện của chế độ tồn trị trong mơi trường thuộc địa. Ơng đánh
giá tính giá trị của dân chủ không ở cố hữu trong một bản chất, một vẻ đẹp tự
thân và tự sinh sôi. Dân chủ cần được hiện thực hóa bằng liên tục những nỗ
lực và thậm chí là hi sinh của cả một xã hội lầm than dưới ách áp bức do chế
độ cũ thúc ép từ trên xuống. Hình ảnh phản ánh chân thực ý nghĩa của dân
chủ đối với nước Pháp cuối thế kỉ XVIII được Nguyễn An Ninh gắn với sự
phản kháng của những người khơng có quyền lực lật đổ đồng loạt các trụ cột
của tính chuyên quyền trong chế độ phong kiến, “những người Pháp của cuộc
cách mạng 1789 lấy máu của mình viết ba khẩu hiệu nầy lên mặt tiền của các
tịa cơng thự ở khắp nước Pháp, thì những chữ được dùng để tạo ra chúng đều
phập phồng sức sống và có vẻ như muốn lao tới trước để đem tin vui đến với
mọi người” [22, tr. 227].


“Tự do” cùng “bình đẳng” và “bác ái” ln được Nguyễn An Ninh gắn
với vấn đề dân chủ ở thuộc địa. Dưới sự tiếp xúc và hoạt động lập thuyết của
con người, khơng cịn ngun nghĩa như một trạng thái và động lực tự nhiên
của xã hội dân chủ. Qua lăng kính chủ quan của chế độ thực dân, chúng bị
tầm thường hóa thành những “món hàng hóa xuất cảng” và bị gắn với những
đặc tính khơng phải do nó quy định. Đó là sự lừa đảo và dối trá, khi chế độ
thực dân không phải là nơi để người dân thuộc địa chứng kiến một khả thể
rằng “lòng đại độ của con người đã có thể chế ngực được những bản năng
man rợ” [22, tr. 227]. Bản chất của nền dân chủ tiến bộ khơng cịn thuần phác
và đồng nghĩa với giá trị tiến bộ, xung lực thay đổi xã hội. Nó bị lợi dụng
thành hành động bạo lực thách thức lòng tin mù quáng của con người. Sự tôn


thờ lý tưởng dân chủ một thời vừa bị suy yếu bởi những con người chính trị
lạc lõng với di sản cách mạng 1789 và lạc lõng với sự đổi thay của hiện thực,
vừa bị đánh gục bởi những cá nhân và tổ chức tận dụng mọi cách để đạt được
quyền lực tối cao trong mối quan hệ bất bình đẳng giữa người với người.
Khi xét về cơ bản giai đoạn tạo dựng nền tảng dân chủ trong tư tưởng và
hành động dân chủ, Nguyễn An Ninh đã tiếp thu tinh thần cũng như những


<b>Comment [L10]: </b>Nguyễn An Ninh (1924).
Những tên lái buôn ô trọc trong đền thờ. Đăng
trên báo La Cloche Fêlée số 9 (11/02/1924).
Dẫn theo Nguyễn An Ninh – Tác phẩm. Nhà
xuất bản Văn học – 2009, tr.227.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

giá trị nhân bản của tư tưởng tự do từ thế hệ những triết gia Khai sáng như
Voltaire, Rousseau, Montesquieu,...Tuy vậy, ông không phải là một người
viễn tưởng và nuôi một niềm hy vọng toàn diện đối với sự thay đổi trong
chính sách của thực dân Pháp đối với các thuộc địa. Ông thất vọng khi thấy
những nhà chính trị như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Lê Quang
Liêm gần như đã có một thái độ thiếu dứt khốt đối với tính chất hai mặt của
chính sách Pháp – Việt đề huề và đối với giới chức thực dân, thất vọng khi họ
đã đổi thay khác hẳn vai trị quyết liệt mà họ từng có trong cuộc vận động tự
do chính trị nhằm chống độc quyền Cảng Sài Gòn năm 1923.


Bản thân Nguyễn An Ninh cũng chịu sự đàn áp về tự do tư tưởng, tự do
báo chí khi những cố gắng của ơng trong việc phản biện xã hội thông qua các
tờ báo và các buổi diễn thuyết gặp khơng ít sự chống phá và cấm cản của
chính quyền bảo hộ. Một phần từ những giác ngộ đó mà Nguyễn An Ninh đã
khơng kì vọng về một nền dân chủ thực sự ở thuộc địa và đưa ra quan điểm
của ông về bản chất tự do trong xã hội thuộc địa như sau: “Tự do được giành
lấy, chứ tự do không được ban cho” [22, tr. 398]. Một phần khác khơng thể


khơng tính đến sự ảnh hưởng của tư tưởng tự do của học thuyết Marxist.
Quan điểm của Friedrich Engels quan niệm về tự do gắn liền với tất yếu như
sau: “Như vậy, tự do của ý chí... là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết
công việc. Do đó, sự phán đốn của một người về một vấn đề nhất định, càng
tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đốn đó sẽ được giải quyết với một
tính tất yếu càng lớn bấy nhiêu; cịn sự không quả quyết, do không hiểu biết
mà ra..., chứng tỏ rằng nó khơng có tự do, nó bị chi phối bởi đối tượng mà lẽ
ra nó phải chi phối. Vì vậy, tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự
nhiên bên ngồi, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu
của tự nhiên [<i>Naturnotwendigkeiten</i>]; do đó, tự do là sản phẩm tất yếu của sự


phát triển lịch sử” [6, tr. 164]. Nếu tự do là nhận thức tính tất yếu và đấu tranh
giai cấp là tất yếu của xã hội đương thời thì tự do của một khơng gian dân tộc
gồm những con người chịu cảnh tha hóa và bần cùng, không thể trông chờ


<b>Comment [L12]: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

vào lòng nhân từ và sự thay đổi tự thân thuần túy của một cấu trúc chính trị
được vận hành bởi một nhóm quyền lực dùng thanh gươm của bất cơng.


<b>2.2. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Nguyễn An Ninh </b>


<i><b>2.2.1. Bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa </b></i>


Theo Từ điển Brittanica Encyclopaedia, khái niệm dân chủ được định
nghĩa như sau: “Dân chủ, theo nghĩa đen, cai trị của nhân dân. Thuật ngữ này
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp dēmokratiā, được đặt ra từ dēmos (người người
Hồi giáo) và kratos (luật cai trị) vào giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên để
biểu thị các hệ thống chính trị tồn tại ở một số quốc gia thành phố Hy Lạp,
đặc biệt là Athens” [41, tr. 1]. Từ điển Triết học định nghĩa dân chủ là “trong


một xã hội chia thành những người bị áp bức và những kẻ bị áp bức, nghĩa là
chia thành giai cấp bị bóc lột và bóc lột, thì khơng bao giờ có được một chính
quyền thực sự của nhân dân” [26, tr. 206]. Trái với những định nghĩa cơ bản
về dân chủ, bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 1923 -
1928, chứa đầy những yếu tố mang tính bước ngoặt tiềm tàng. Biến động
chính trị của các quốc gia đã tác động không hề nhỏ đến hệ thống truyền
thơng và kèm theo đó là những quan điểm, chủ đề gây ảnh hưởng lớn của
Việt Nam đương thời. Trong số đó, không thể không kể đến bản chất dân
chủ ở thuộc địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

phóng cũng đến từ nước Pháp” [21, tr. 126]. Những phản tư mang đậm chất
phê phán của Nguyễn An Ninh về chế độ phản dân chủ - tự do mà thực dân
Pháp xây dựng ở Việt Nam sẽ trở nên rõ hơn, khi liên hệ đến đánh giá của
Friedrich Engels về tính tự do của các thiết chế dân chủ châu Âu luôn phải đối
diện với nguy cơ của sự chuyên quyền đến từ những nhóm lợi ích, dẫn tới sự
suy yếu của tự do chính trị và suy yếu giá trị dân chủ. Engels viết “Tự do
chính trị là tự do giả, là chế độ nơ lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngồi của tự
do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nơ lệ. Bình đẳng chính trị cũng như
vậy, vì thế chế độ dân chủ, giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác,
cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy
ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra” [Dẫn theo: 44, tr.723].


Đối với Nguyễn An Ninh, giá trị dân chủ không nằm ở tất cả những vẻ bề
ngồi hào nhống. Ơng nhận thấy tinh thần tự chủ của mỗi cá nhân như một
động lực cần thiết cho chính họ và cộng đồng dân tộc để thốt khỏi vịng ảnh
hưởng của chế độ thuộc địa. Ơng nhận thấy ước mơ cũng khơng là ngoại lệ,
khi như một nhân tố không thể thiếu đối với tinh thần người Việt khi kiếm tìm
định nghĩa sống động của cuộc đời mình, kiếm tìm những giá trị khơi gợi tinh
thần tự do cá nhân trong lẽ sống và tri thức thực tại. Nguyễn An Ninh nhìn
thấy ước mơ trở thành lí lẽ cơ bản rằng ai cũng là con người có lương tri và


hành động, “đủ sức mạnh để thực hiện những mong ước, chúng ta lại còn phải
có ý chí vươn lên, với niềm khát vọng bất tận đạt đến một cái gì tốt đẹp hơn,
hoàn hảo hơn.” [22, tr. 70].


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

của nhà nghiên cứu Philippe Peycam, nhà báo Trần Huy Liệu luận giải khái
niệm tự do (một khái niệm luân lý - triết học) được cụ thể hóa trong phạm
vi của tự do cá nhân. Peycam đã trình bày nội dung luận giải của Trần Huy
Liệu “có hai ý nghĩa tương phản. Một cái anh gọi là “ma tự do” sẽ thu hút
thói ích kỷ và nhu cầu thỏa mãn bản thân. Thường gây lầm lạc, nó sẽ xui
khiến con người rời bỏ tự do đích thực, cái mà Liệu gọi là “thần tự do” –
điều chỉ có thể đạt được qua một hành động có tính đạo lý là cá nhân đảm
đương trách nhiệm xã hội” [24, tr.222]


Nguyễn An Ninh luôn gắn vấn đề dân chủ ở thuộc địa với giá trị của tự
do. Nếu hoàn toàn quan niệm rằng dân chủ chỉ thuần túy mang tính mà phủ
nhận cả yếu tố của đời sống ngoại tại và tự do của những tha nhân (hay những
kẻ khác), sự vật khác thì rốt cuộc tính duy ngã của tự do chỉ khiến thúc đấy
nên những tính trạng tinh thần, hành vi áp bức. Đó là cảm nghiệm tính nghịch
lý của tự do và áp bức, dưới góc độ nội tại của một cá nhân và góc độ tác
động của cá nhân đó với những cá nhân, cá thể khác. Mortimer Adler, nhà
triết học người Mỹ, đưa ra hình dung về mối quan hệ trong tình thế khủng
hoảng của tự do cá nhân với sự ra đời hình thái áp bức tự do như sau: “Bởi vì
tự do này hệ tại ở sự thực hiện, ở việc hoàn thành các khao khát hay mong
ước của tôi, sự triệt tiêu lớn nhất của nó, cái vốn tương phản với nó, cái ngăn
chặn nó, chúng ta gọi là áp bức. Vì khi một người bị áp bức bởi sức mạnh vật
chất hắn không thể làm được điều gì hắn mong muốn” [1, tr. 176].


Suy rộng ra, tự do và áp bức cũng ghi dấu những va chạm ngầm về lý
thuyết và thực hành thông qua mối quan hệ giữa một (hoặc nhiều) chế độ
chính trị với xã hội chịu sự ảnh hưởng của nó. Quy luật bất thành văn của mọi


chế độ mang tính chất áp đặt, cực đoan là chúng đều trở nên vượt tầm kiểm
soát của luật pháp và thao túng chính sách bằng dập khn ý chí, tạo nên điều
kiện để hình thành nên những tinh thần phản kháng, con người phản kháng.
Kể cả khi các chế độ đó ra sức làm mọi cách để quy chuẩn ý chí của
mình thơng qua thực thi quyền lực hiện có, thì điều này chỉ càng khiến sự bần


<b>Comment [L14]: </b>Peycam Philippe M.F
(2015). The birth of Vietnamese political
journalism: Saigon, 1916 – 1930. Làng báo Sài
Gòn 1916 – 1930. Bản dịch của Trần Đức Tài.
Nhà xuất bản Trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

cùng hóa của xã hội gia tăng cùng với ý thức đối lập ngày càng sâu sắc
với tinh thần chủ quan của giới cầm quyền. Việc đánh mất dân tộc tính
khiến cho người Việt Nam trở thành dân một nước thuộc địa khơng cịn
tên trên bản đồ, chịu đựng những điều vô lý và đau đớn đến mức Nguyễn
An Ninh một mặt thấy điều này không khác nào nhân dân bị tước đoạt
mọi quyền sống. Đó cũng là điều mà trước kia, Montesquieu đã tái hiện
rằng “kẻ chinh phục có thể đánh lạc hướng tất cả, và bạo lực tạo ra một
thứ cường quyền điếc đặc...” [20, tr. 131].


Nguyễn An Ninh dù về bề ngồi của ngơn từ là gửi gắm những suy tư
và hi vọng đối với thế hệ thanh niên Việt Nam (đối tượng chính mà ơng tập
trung trong bài diễn thuyết “Lý tưởng của thanh niên An Nam”), nhưng thực
chất ông cũng trình bày và lắng nghe tiếng gọi của quần chúng lao khổ đang
chịu ách cai trị của những sự áp bức, bóc lột. Thời đại của Nguyễn An Ninh
(về phương diện cá nhân) và của dân tộc Việt Nam (về phương diện tồn thể)
khơng những dai dẳng vì những hệ lụy kìm hãm của xã hội cũ, mà còn trở nên
mất phương hướng và bức bối đối với chính mảnh đất q hương mình đương
còn bị cai trị bởi những lực lượng thực dân: “Chúng ta sinh ra trong một đất


nước thiếu thốn mọi bề, cái gì cũng phải tạo lập ra, sinh vào một thời buổi mà
mọi sáng kiến thông minh đều bị người ta ghét bỏ”[22, tr. 72]. Cuộc chiến
giữa dân tộc Việt Nam với tình trạng thuộc địa mà dân tộc đó đương phải chịu
đựng, được Nguyễn An Ninh hình tượng hóa trong vị thế của cuộc chiến giữa
tự do và áp bức - hai lực lượng đối lập nhau: “Một đàng yếu ớt đang cố tìm
một chỗ đứng dưới mặt trời, một đàng mạnh mẽ, lại còn rút rỉa đến kiệt quệ,
nhằm tiếp ứng cho một con quái vật ở xa.”[22, tr. 72].


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

hòa giữa sự kết hợp của các yếu tố tự nhiên, giữa tự thân cá nhân với thế giới
ngoại tại,...Và bên cạnh đó, trật tự cũng ln được đi kèm với những giá trị
luân lý như sự tơn trọng, tính cam kết cao độ của những quy định tối thiểu
cho những kết quả, mục tiêu tối ưu của đời sống cá nhân – xã hội. Tuy nhiên,
Nguyễn An Ninh nhận định nhất quán rằng trật tự của chế độ thực dân không
thể là một điều gì khác ngoài việc đây là một chế độ “ngăn trở cuộc sống
vươn lên, diệt nguồn sinh lực của người khác” [22, tr. 152].


Nguyễn An Ninh khởi động lập luận nghịch lý trật tự và hỗn loạn, như
một đánh giá đầu tiên về vấn đề dân chủ trong giới hạn của một quốc gia Việt
Nam bị áp đặt chế độ thuộc địa. Những lập ngôn của Nguyễn An Ninh về
thảm trạng tinh thần của người Việt, không dừng ở đây. Ông chất vấn thẳng
thắn giới thực dân: “Người ta hay nói về sự vong ơn, sự vơ đạo đức, sự hỗn
loạn, nhưng chúng ta không thèm đếm xủa đến tất những hạng người phản
động, hạng người đầu độc đó. Họ có xứng đáng với lịng biết ơn của chúng ta
khơng, những người kể cơng đó” [22, tr. 74]. Ngay tức khắc, Nguyễn An
Ninh thực hiện cuộc hoán đổi tính chất chính trị và kể cả danh phận chính trị.
Ơng đặt vị trí kẻ cai trị của giới thực dân thành “người ta” - danh xưng của
một dạng tha nhân mất nhân tính, kết án lần thứ nhất đối với kẻ cầm quyền là
thủ phạm của chính những tội ác mà chế độ thực dân rắp tâm gắn lên những
người dân vô tội, lầm than. Không dừng ở đây, Nguyễn An Ninh dùng câu hỏi
chất vấn người nghe nhằm khơi dậy trong họ sự trỗi dậy của tinh thần tự do


chống áp bức và khẳng định người dân không cần dành sự “biết ơn” cho
những kẻ đã kết án oan sai đối với sự tồn tại của mình.


Nhà sử học Nguyễn Thế Anh đánh giá bản chất của chế độ thuộc địa
ngay từ đầu không hề được xác lập nhằm khẳng định, phát triển dân chủ. Ơng
viết: “Cơng thức lí tưởng được áp dụng nhất là: “rất nhiều phụ thuộc, rất ít tự
trị, một chút đồng hóa” [2, tr. 119]. Về phần Nguyễn An Ninh, ông khẳng
định xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm chiếm là xã hội có trật tự
ở biểu hiện “ý thức dân chủ của một xã hội xây dựng theo tư tưởng Khổng


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

giáo” [22, tr. 86]. Nhằm phản bác lại luận điểm của thực dân Pháp cho rằng
họ thiết lập một “trật tự ổn định” để chấm dứt tình trạng “hỗn loạn” ở thuộc
địa, Nguyễn An Ninh đã luận chứng khái quát về trật tự xã hội truyền thống
Việt Nam khác với trật tự thực dân. Từ cấp độ cá nhân đến cấp độ gia đình và
làng xã, trật tự xã hội Việt Nam có cách thể hiện một dạng dân chủ trong văn
hóa và chính trị của người Việt.


Theo đó, người Giao Chỉ (tổ tiên của người Việt) cũng như biết bao
nhiêu giống người khác trên thế giới, đều có một thuở hồng hoang “sống lang
thang rày nay đây mai đó” [22, tr. 74] Khi đã đến một vùng đất nhất định,
những người Việt đầu tiên “chỉ có mối liên hệ chung là sự cần thiết phải
tương trợ, phải nương vào nhau mà sống, phải chung sức nỗ lực để chiến đấu”
[22, tr. 74]. Tinh thần tự do của người Việt chính là xuất phát từ nhu cầu đời
sống mà tương trợ, tương thân tương ái và đoàn kết với nhau để đương đầu
với những thử thách đe dọa sự tự do của họ. Tự do của người Giao Chỉ đã
định hình cuộc sống sinh hoạt - sản xuất ở những vùng đất mới, đã ý thức
được “về một niềm hạnh phúc tìm thấy và ổn định”, về những hạnh ngộ của
đời sống đã mang lại cho họ nhờ có đất. Theo Nguyễn An Ninh, những điều
đó tạo nên sự gắn kết “người Giao Chỉ với đất”: gắn kết càng lớn mạnh, càng
có ý thức trân trọng và ra sức bảo vệ nơi mình sinh sống và tạo dựng tính liên


kết chặt chẽ, sâu sắc của định chế trong làng (cấp độ xã hội tiếp theo của
người Việt).


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

cho dù có thế lực của nhà vua” [22, tr. 317], giống như câu tục ngữ của người
Việt rằng “Phép vua thua lệ làng”. Nguyễn An Ninh tiến thêm một bước tiệm
cận nữa khi so sánh làng xã Việt Nam với các thành phố - cộng hòa ở Italia. Cả
hai thể thức tổ chức xã hội này, theo Nguyễn An Ninh, đều làm thất bại ham
muốn mở rộng quyền lực của chế độ phong kiến ở cả Việt Nam lẫn Italia.
Xét về yếu tố gia đình trong chiều kích văn hóa Việt Nam, Nguyễn An
Ninh nhận định rằng “gia đình là một kiểu cộng hòa thực sự, trong đó tình
thân mến và tình máu mủ giữ cho sự hòa thuận và sự tương kính được lâu
bền” [22, tr. 153]. Bởi lẽ, từ truyền thống xa xưa, khi các cộng đồng người
Việt đầu tiên xuất hiện các cấp độ tổ chức xã hội cơ bản (gồm gia đình và
làng xã ), mỗi gia đình người Việt thiết lập những quy định, nguyên tắc chung
nhất áp dụng tỏng khơng gian sinh hoạt gia đình, gọi là “gia pháp”. Vì có gia
pháp riêng, nên sinh hoạt gia đình dù có xảy ra những việc phát sinh thì dùng
ngay gia pháp để xử lý, “phép vua phải dừng lại ngồi cửa khơng được can
thiệp vào việc nhà của mỗi gia đình” [22, tr. 153]. Điều này cho thấy đời sống
gia đình truyền thống của văn hóa Việt được xây dựng trên nền tảng của sự
tôn trọng, yêu thương lẫn nhau, biết tha thứ và ln nỗ lực dung hịa song
khơng hề có sự bắt buộc, ràng buộc nào về việc nhất thiết duy trì gia đình
trong tình trạng căng thẳng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

có xảy ra và đồng thời tạo điều kiện cho cả người chồng lẫn người vợ “tạo
dựng một gia đình mới”, nhanh chóng ổn định trật tự trong cuộc sống của
từng người và cao hơn là trong xã hội.


Cuối cùng, Nguyễn An Ninh đề cập đến yếu tố “Sự thờ cúng người đã
chết” như là một trong ba yếu tố của văn hóa truyền thống Việt Nam. Sự thờ
cúng người đã chết, hay cịn gọi là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính là một


trong những nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Nguyễn An Ninh đã
khẳng định thờ cúng tổ tiên “có vị trí quan trọng” trong xã hội Việt Nam,
thậm chí “khơng khác gì Thiên Chúa ở Pháp” [22, tr. 154]. Thực vậy, sự thờ
cúng người đã chết trở thành “một phần của những hoạt động của nhà nước”
[22, tr. 154], “mối quan tâm cao nhất của gia đình”[22, tr. 154]. Đồng thời,
sự thờ cúng người đã chết, như Nguyễn An Ninh khẳng định, đóng vai trị
quan trọng trong việc giáo dục đối với mỗi người ngay từ thời trẻ, góp phần
định hình nhân cách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

là trạng thái, tâm tư của người Việt Nam khi sống song hành giữa hiện tại và
kí ức, truyền thống như sự nhắc nhở duy trì luân lý và giá trị truyền thống.


<i><b>2.2.2. Quan niệm về vai trò - vị trí của nhân dân </b></i>


Xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp là xã hội thuộc địa. Những yếu tố của
tư bản chủ nghĩa từ Pháp áp dụng cho tình hình Việt Nam, tạo nên những thay
đổi lớn so với lịch sử Việt Nam thời phong kiến độc lập. Kiến trúc thượng
tầng phong kiến Việt Nam khơng cịn có thể tạo dựng thêm ảnh hưởng đáng
kể hay một tác động chi phối đến tất cả các giác độ, lĩnh vực khác nhau của
kết cấu xã hội. Sự suy thối đó, cộng với việc chế độ thực dân triển khai hàng
loạt những biện pháp thay đổi thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa kéo dài
từ cuối thế kỉ XIX đến thập niên 20 thế kỉ XX đã nảy sinh những hệ quả mới
ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng xã hội. Đó chính là sự vận động của quan niệm
về nhân dân, trong bối cảnh của một nước Việt Nam thuộc địa.


Người dân Việt Nam, trong tầm ảnh hưởng thống trị thần quyền – thế
quyền của chế độ phong kiến, chung quy trong danh xưng của “bề tôi” đối với
vua – nhà lãnh đạo quân chủ. Trong quan điểm của Nho giáo, “bề tôi” được
hiểu theo một diễn ngôn tập hợp các lớp nghĩa biểu thị danh xưng phản ánh
đặc điểm, trình độ - vai trò của họ về kinh tế và xã hội đương thời. Lớp nghĩa


đầu tiên của “bề tôi” bao gồm mọi người nói chung dưới quyền thống trị của
vua [35, tr. 293]. Kế đến là “bề tôi” với tư cách là chúng nhân, lê dân, thứ dân
(hay cịn gọi là bách tính - 百姓) với tầng lớp thống trị bao gồm vua và hệ
thống quan lại từ chính quyền trung ương tới các cấp hành chính địa phương.
Lớp nghĩa cuối cùng của “bề tơi” chính là những người có trọng trách giúp
vua, gồm có hai loại: một là trong việc thực hiện hoạt động cai trị (tầng lớp
quan lại), hai là hợp nhất trên cơ sở nền tảng cùng với vua thành lập nên một
tầng lớp thống trị nhằm hướng tới nhiệm vụ trị nước, trị dân và an dân.
Sự tồn tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam không bởi do những
nguyên nhân thuần túy ngẫu nhiên, hoặc thậm chí là áp đặt tuyệt đối từ những


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

nguồn ảnh hưởng khác nhau và những cá nhân, cộng đồng khác nhau. Trải
qua quá trình liên tục của hàng loạt những tình huống có tính giới hạn về lịch
sử, thể chế phong kiến ở Việt Nam chứng tỏ được vai trị và tầm quan trọng
của mình. Tình huống có giới hạn lịch sử chính là cách mà các thế hệ người
Việt củng cố vị thế và giá trị trong thời kì hịa bình lẫn thời kì có trạng thái
chiến tranh. Những hoạt động như thiết lập bộ máy chính quyền độc lập từ
trung ương đến địa phương, đưa ra các chính sách phù hợp, giải quyết những
mâu thuẫn giữa các tầng lớp và giai cấp bản địa,... luôn là những vấn đề liên
hệ đến nhân dân. Những thành tựu đáng kể của các lĩnh vực như kinh tế, văn
hóa, chính trị,... góp phần bảo vệ và phát triển tiềm lực quốc gia, khẳng định
cương vực lãnh thổ và khơng gian văn hóa dân tộc.


Tuy nhiên, hiện trạng này khơng tồn tại được lâu dài. Về cơ bản, tính chất
của chế độ phong kiến là chế độ phân phong về tài sản và quyền lực nhằm
củng cố quá trình tập trung quyền lực vào chủ thể chính trị là nhà vua và bộ
máy quan liêu. Sự tồn tại của thần quyền – thế quyền trong chiều dài vận
động lịch sử, xã hội đã khiến cho quần chúng nhân dân chịu nhiều tác động từ
tính chất chuyên chế của chính quyền phong kiến. Quyền lợi chính đáng của
người dân chưa được tơn trọng một cách thực chất và bền vững. Vào đầu thế


kỉ XX, Phan Bội Châu đã phê phán hiện trạng này như sau: “Cái nọc độc
chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm nay từ bên Trung
Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn kẻ dung
nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại,
không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm lo hết lòng hết sức
đem máu mỡ của mình cung đốn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt!
Than ôi! Thật đáng thương thay” [3, tr. 89]


Trật tự phong kiến tập quyền ở Việt Nam được thay thế bằng trật tự thuộc
địa do lực lượng thực dân Pháp triển khai. Đời sống con người không thể
đơn thuần giải thích bằng những cách tiếp cận chủ quan của những cá
nhân cụ thể, mà cần phải có sự truy vấn đối với tính chất vận động, biến


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

đổi của hiện thực đương thời. Quan niệm về nhân dân, theo đó, cũng có
những thay đổi so với giai đoạn trước. Karl Marx viết: “...không thể nhận
định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó.
Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và
những quan hệ sản xuất xã hội” [19, tr.15]


Khi luận về vai trò của nhân dân trong mối quan hệ với xã hội và nhà
lãnh đạo, Nguyễn An Ninh cũng chịu ảnh hưởng lớn từ quan điểm của Mạnh
Tử: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân quý nhất, rồi đến xã tắc,
sau mới đến vua). Mạnh Tử lí giải như sau: “Cho nên, ai được lòng dân thì
làm thiên tử; ai được lịng thiên tử thì làm chư hầu; ai được lịng chư hầu thì
làm quan đại phu. Khi một chư hầu làm hại đến xã tắc thì có thể lập người
khác làm vua, vì xã tắc quan trọng hơn vua” [34, tr. 784]. Nhìn vào thực tiễn
của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Nguyễn An Ninh tìm được
động lực làm nên sức mạnh của quần chúng nhân dân. Động lực đó xuất phát
từ chính truyền thống hình thành làng xã Việt Nam. Ý thức xã hội của nhân


dân khởi nguồn từ kết cấu và vận động của làng xã – đơn vị hành chính cơ
bản của xã hội Việt Nam. Nguyễn An Ninh viết về làng xã Việt Nam như một
dạng tổ chức của cơ sở cộng hịa, “có ban hương chức hội tề do dân bầu ra, có
tổ chức nội trị, trong đó mỗi cơng dân đều có một chức trách, một bổn phận
với ngân sách riêng” [22, 316]


Trong quan niệm của Nguyễn An Ninh, nhân dân đại diện cho sự sinh
thành của ý niệm dân tộc trải qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Đó là nền tảng
cho sự sinh thành của một dân tộc. Chính từ những đơn vị làng xã cố kết với
nhau, tính chỉnh thể của dân tộc, quốc gia mới có điều kiện định hình mang
tính liên kết và tương hỗ trong các công việc, lĩnh vực thuộc về nội địa lẫn
ngoại giao. Từ điển Triết học Hegel định nghĩa dân tộc (tiếng Đức: Volk)
“vừa có nghĩa là nhân dân, đối lập với người lãnh đạo, vừa có nghĩa là một
cộng đồng được hợp nhất bởi tập tục, tình cảm và ngơn ngữ” [11, tr.131].


<b>Comment [L19]: </b>Karl Marx (1859). Lời tựa
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Trích
trong C.Mác và Ph.Ăng ghen Tồn tập. Tập 13.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 1993


<b>Comment [L20]: </b>Dương Hồng – Vương
Thành Trung – Nhiệm Đại Viện – Lưu Phong
chú dịch (2006). Tứ thư Toàn tập. Trần Trọng
Sâm – Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch. Nhà xuất
bản Hội Nhà văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Nhờ nền tảng làng xã và vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân, cương
vực lãnh thổ Việt Nam từng bước được khẳng định theo cách mà Nguyễn An
Ninh đánh giá là sở hữu “tính uyển chuyển khác hẳn với tính cứng nhắc của
một nước văn minh hiện đại mà những đường biên giới có thể bao trùm nhiều


yếu tố khác nhau” [22, tr. 316].


Bên cạnh vai trị mang tính khai mở đối với thiết chế xã hội, nhân dân
còn được Nguyễn An Ninh nhìn nhận là lực lượng quần chúng mạnh mẽ trước
mọi thách thức đe dọa sự tự do và những giá trị nhân sinh được gây dựng từ
thời lập làng, dựng nước. Đối với một quốc gia hay một dân tộc, nhân dân
ln có vị thế đặc biệt khi luôn là nguồn lực dồi dào cho việc xây dựng hệ
thống nhân tài trí thức và khối lượng tích tụ tri thức mang đậm dấu ấn, giá trị
của không gian từng dân tộc – quốc gia cụ thể. Nguyễn An Ninh nhìn nhận
dấu ấn dân chủ sơ khai của quần chúng nhân dân, cụ thể là việc “bản thân các
vị quan lại, nghĩa là người thay mặt nhà vua để tiếp xúc với dân, lại cũng từ
dân chúng cử ra” [22, tr. 317]. Từ đây, Nguyễn An Ninh lí giải chiến thắng
quân sự của giới cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam khơng phải là
chống lại một triều đình, “mà họ phải chống chọi với một dân tộc, chống lại
những nước cộng hòa nho nhỏ liên minh lại, hết lòng hết sức ủng hộ lẫn
nhau” [22, tr. 318].


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

đình bị kẻ thắng trận làm suy yếu dần dần, cho đến ngày nay nó chỉ cịn tồn
tại trong kí ức” [22, tr. 318].


Nhân dân Việt Nam thời thuộc địa không còn là thần tử của chế độ
phong kiến như trước kia. Bi kịch lịch sử và hàng loạt những biến cố, xung
đột đã khiến chế độ đó khơng đủ sức cho những thay đổi triệt để về mọi mặt.
Với bối cảnh như vậy, Nguyễn An Ninh thẳng thắn chỉ ra mối quan hệ biện
chứng và đối lập tột độ giữa thực dân Pháp với toàn thể dân tộc Việt Nam,
giữa những “ông chủ” và “nô lệ”. Sự tráo đổi thuật ngữ không do Nguyễn An
Ninh quy định, mà nó được thiết lập như kết quả từ sự phủ định của phủ định
bằng những sự kiện lớn nhỏ của lịch sử - xã hội. Sự quản lý toàn trị được thực
dân Pháp thi hành lên Việt Nam, coi dân tộc và nhân dân Việt Nam là đối
tượng để được nhận những “văn minh”, “khai hóa”. Những người dân Việt


Nam vốn trước là thành tố vận hành và gìn giữ quốc gia độc lập, giờ phải đối
diện với hệ thống áp bức và giam cầm đến từ bên ngoài. Trong khi thực tế, ở
một xã hội dân sự đầy đủ hay thậm chí đơn thuần là một xã hội có tơn ti trật
tự và nền độc lập quốc gia được khẳng định, “khơng một ai có thể bị bỏ tù,
hoặc bị tước đoạt tài sản của mình hay một quyền pháp lý khác, vì phẩm chất
đạo đức của mình, vì những chính kiến chính trị và tơn giáo của mình” [18, tr.
259]. Marx cũng thẳng thắn nói thêm rằng ngay cả những cá nhân, sinh vật
tưởng chừng là vô nghĩa, là vô dụng và thậm chí là đối tượng hứng chịu chỉ
trích từ một số nhóm người, từ dư luận nặng định kiến chủ quan cũng có
quyền được tồn tại và thực sự tồn tại. Ông viết: “ngay cả một sinh vật vô dụng
nữa, mặc dù nó vơ dụng, vẫn có quyền tồn tại nếu như sự tồn tại này không vi
phạm pháp luật”[18, tr. 260].


Nguyễn An Ninh nhận định sự đối lập, mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu
sắc giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp mãi tồn tại khi Việt Nam vẫn
còn là thuộc địa, là quốc gia mất chủ quyền tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Nỗ lực
đưa dân chủ phương Tây vào Việt Nam của thực dân Pháp, thông qua hệ
thống các cơ quan công quyền và cơ quan dân sự nặng lập trường thực dân,


<b>Comment [L22]: </b>Karl Marx (1843) Việc cấm
tờ báo “Leipziger Allgemeine Zeitung”. Đăng
trên báo “Rheinische Zeitung” các số 1,4, 6, 8,
10, 13 và 16, ngày 1, 4, 6, 8, 10, 13, 16 tháng
Giêng năm 1843. Trích trong C.Mác và Ph.Ăng
ghen Tồn tập. Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật – 1995, tr. 259.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

chỉ càng khiến đại bộ phận quần chúng nhân dân Việt Nam thêm sự phản đối
kịch liệt. Tình trạng cai trị hà khắc của chế độ thực dân Pháp làm bần cùng
hóa đời sống của tồn thể dân tộc, dựa theo lí lẽ mà quân đội Pháp sử dụng


nhân danh tôn giáo để tấn công Đà Nẵng và xâm lược Việt Nam vào nửa cuối
thế kỉ XIX. Trái ngược với lập trường của giới chức thực dân Pháp, lịch sử tư
tưởng thế giới đã có những quan điểm phản đối chiến tranh lợi dụng tôn giáo.
Một trong số quan điểm đó là của nhà thần học Francisco de Vitoria (người
xứ Basque, nay là Barcelona), người đã từng chỉ trích mạnh mẽ tất cả các
cuộc chiến tranh nhân danh huyền thoại ưu việt của tôn giáo [28, tr. 87]
Nguyễn An Ninh đã chỉ rõ: “Một dân tộc nô lệ muốn dựa vào chủ của
mình để mong thốt ra vịng nơ lệ, thì họ đã vội qn đi q nhanh chóng lý
do vì sao mà người ta đã biến họ thành nơ lệ” [22, tr. 319]. Ơng phê phán chế
độ dân chủ giả hiệu mà thực dân Pháp triển khai ở Việt Nam, cụ thể là hoạt
động bầu cử quyền đại diện của người bản xứ. Về lý thuyết dân chủ phương
Tây áp dụng cho các nhà nước dân chủ, việc người dân chọn ra đại biểu bầu
vào cơ quan Nghị viện là cách để khẳng định nguyện vọng đảm bảo các
quyền cơ bản của dân chúng cũng như góp phần xây dựng cơ chế hoạt động
công quyền hiệu quả cho phúc lợi xã hội. Khi xét vào thực tế thuộc địa (ở đây
là Việt Nam), Nguyễn An Ninh châm biếm Outrey - nghị viên người Pháp mà
lại là đại diện cho hơn ba triệu người Nam Kì trong khi nhân vật này được
bầu bởi số cử tri là 350 người (đại bộ phận trong số đó là cơng chức). Ông
phê phán cay nghiệt chế độ bầu cử kiểu dân chủ thực dân, rằng nó xảy ra “khi
mà đa số được đại diện như thể là tổng cộng trí khơn của ba con bê thì gần
bằng với trí khơn của thượng đế hơn là trí khơn của một con bê, khi mà thiểu
số bị hy sinh cho đa số” [22, tr. 311].


Yếu tính của nền dân chủ nằm ở sự cơ cấu chính sách đảm bảo cơ chế
công bằng cho các thành tố, các cơ quan. Điều đó từng được Erich Fromm dự
báo trong một không gian – thời gian lịch sử sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai. Ở đó, khơng ít lo ngại của Nguyễn An Ninh về mặt trái của chế độ dân


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

chủ những năm 1923 – 1928 đã trở thành sự thật không thể bác bỏ : “Những
chính thể dân chủ hiện hành tỏ ra vững mạnh và thay thế những nhà nước


quân chủ cũ nát. Thế nhưng cũng chỉ vài năm sau khi những chế độ mới đó
xuất hiện, nó đã phủ định tất cả mọi thứ mà con người hằng tin tưởng đạt
được qua bao thế kỷ tranh đấu. Vì bản chất của những chế độ này, chế độ
thực sự nắm quyền kiểm sốt tồn thể đời sống xã hội lẫn đời sống cá nhân, là
sự khuất phục của tất cả ngoại trừ một số ít người dựa vào quyền hành họ
kiểm soát được” [7, tr. 10].


Nguyễn An Ninh còn nêu lên nghịch lý của nhân dân sống trong vịng nơ
lệ của chế độ thực dân. Người dân buộc phải chối từ năng lực lý tính của
chính mình, từ chối những kinh nghiệm và tri thức sinh động của đời sống và
di sản tri thức – tinh thần đã định hình nên trình độ hiểu biết của mình, đã gọi
tên mình như gọi một thực thể sống đặc biệt trong mối tương quan với tự
nhiên ngoại tại. Thống đốc Cognacq và câu nói “Xứ này khơng nên có hạng
người trí thức” đánh động đến lương tâm và tinh thần phê phán của Nguyễn
An Ninh. Ơng khơng những không ngạc nhiên bởi phát ngôn đầy ẩn ý của
viên quan chức quyền lực kia, ơng thậm chí gắn cho ơng ta những tính từ
“khôn ngoan, sáng suốt” để rồi bần cùng hóa danh phận thống trị của ơng ta
bằng chính những phản đề của lý tính bị tha hóa tột cùng.


Lý tính dẫu có tự do hết thảy và quyền năng minh triết đến đâu, có khiến
con người ta tự do ra sao nhưng sẽ thật hoang mang khi lý tính thiếu vắng đi
những sự tưởng tượng cần thiết và sự thông minh sắc bén – những điều diễn
ra trong giai đoạn quá độ để từ những cảm quan thông thường đạt được sự
thấu tỏ lý tính, hiểu về tự do và quyền làm chủ thực sự. Nguyễn An Ninh viết:
“Sự Thông minh là cái Xấu. Sự Thông minh là con Rắn quấn xung quanh cái
cây của sự hiểu biết, nó đã làm cho chúng ta mất đi mãi mãi chốn thiên
đường. Sự Thông minh là Ivan Karamazov, kẻ đã, vì suy luận quá nhiều,
tuyên bố là “mọi thứ đều không thể bị cấm” và cuối cùng đã chết trong sự
điên rồ (...) Trí tưởng tượng là sự vô trật tự, là sự hỗn loạn, là sự tự do khơng



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

thể kiểm sốt, khơng sao làm dừng lại được, khơng giới hạn. Đó là thứ Quyền
lực đã làm cho thế giới này thành ra một thế giới đầy những ảo ảnh bất diệt,
đầy những khổ đau, đầy những tiếng thở than, khóc lóc để rồi dẫn đến màn
kịch cuối cùng bước vào cuộc chơi”[22, tr. 125]


Đối với Nguyễn An Ninh, dù là người thuộc bất cứ lực lượng xã hội nào,
đều mang số phận của những người nô lệ với những não trạng nơ lệ trong sự
hiện tồn của chính mình. Sự đối lập gay gắt giữa dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp không những khởi đầu từ những cuộc xung đột đầu tiên vào nửa
cuối thế kỉ XIX, mà còn kéo dài cho đến thời điểm của những năm 20 thế kỉ
XX. Dưới chế độ thực dân – đại diện cho vị thế ông chủ và cho vị thế của sự
áp bức, nhân dân Việt Nam chịu đựng số phận của những người mang thân
phận nô lệ, những con người đánh mất và gần như mất phương hướng lý tính
trên con đường tìm kiếm tự do mà thân thể - tâm tính bị đè nặng bởi sự ép
chặt đường sinh sống. Ơng hình dung phúng dụ thuộc địa như sau: “Ở đây
người ta không nghe thấy tiếng bước đi hay giọng nói của những ơng chủ.
Đầu óc của con người nơ lệ lúc nào cũng nơm nớp lo sợ vì giọng thét và bàn
tay của chủ, lần lần trở về với mảnh đất tổ tiên và hòa hợp với đất để làm
sống lại những ký ức của những ngày đầy nghị lực của tổ tiên, khi họ đến
chinh phục và đem cả tâm hồn mình thấm đượm mảnh đất này, mà giờ đây
các thế hệ con cháu tiếp nối và không thể đã không biết bảo vệ chỉ vì yếu
đuối, khờ khạo và dốt nát” [22, tr. 72].


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

giữa tự do và áp bức, bất công trong xã hội thuộc địa. Ông dự cảm về một
tương lai gần, mà ở đó diễn ra cuộc đụng độ không thể tránh khỏi giữa Việt
Nam – một dân tộc đấu tranh phá bỏ chế độ phản dân chủ với Pháp – một
quốc gia trở nên lầm lạc và khủng hoảng khi áp đặt ách cai trị thực dân lên
dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc thuộc địa khác.


<b>2.2.3. </b><i><b>Bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp</b></i>



Tình trạng bế tắc, đối lập càng ngày gay gắt giữa các biện pháp đấu
tranh chính trị ở Việt Nam giai đoạn 1923 – 1928 đã khiến cho Nguyễn An
Ninh cần thấy phải đưa ra lựa chọn trên những cảm nghiệm thực tiễn của tình
hình đương thời. Cách mạng và thỏa hiệp được Nguyễn An Ninh nhìn nhận là
hai con đường mang tính hệ quả luận của vấn đề dân chủ ở Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến những năm 1920. Mục đích đấu tranh dân chủ, dân quyền được
hiện thực hóa là một trong những mục đích mà thế hệ trí thức Đơng du – Duy
tân từ Bắc đến Nam đều không đạt được trong thời gian hoạt động khai phá
con đường cách mạng của mình. Dù vậy, cách mạng và thỏa hiệp là hai
phương thức, hai thái độ mà sự đối lập giữa chúng nảy sinh nên các cách nhìn
nhận về vấn đề dân chủ, góp phần định hình thực hiện những hành động phản
kháng với những cơ sở hiện tồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

Trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh, cách mạng ở Việt Nam vốn dĩ
khơng thể khơng nhắc đến diễn trình các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp. Sự tồn
tại của chúng là hiện thực tất yếu, bởi Nguyễn An Ninh chỉ rõ tính thực
chứng của lịch sử “đã chứng minh đầy đủ tính độc lập của dân tộc Việt
Nam” [22, tr.81]. Nhưng sự thật đó khơng thể hiện đầy đủ về mọi mặt để
đánh bại thế lực của chính quyền thực dân, một chính quyền “ni dưỡng
một bộ máy phương tiện đàn áp địa phương và liên bang khổng lồ. Tổ chức
mọi phương tiện đàn áp tàn khốc, nhằm dìm trong biển máu của mọi cuộc
nổi dậy, dù là nổi dậy trong hịa bình” [22, tr. 81]. Từ phân tích này,
Nguyễn An Ninh đã cho thấy hiện thực của ách cai trị thực dân vốn dĩ
khơng có thái độ dân chủ đối với những lực lượng phản kháng bằng vũ
trang lẫn những lực lượng đấu tranh hòa bình.


Cách mạng, đối với Nguyễn An Ninh, là hình thức phản kháng có tính
quyết định sau khi lịch sử trải qua hai hình thức nổi dậy và bạo loạn. Ơng tìm
thấy ở các cuộc nổi dậy chứa đựng lí do phát động nhằm chống áp bức - giải


phóng dân tộc như là những lí do cốt yếu, định hình nên cường độ và sức ảnh
hưởng sâu sắc đến mức kiên định. Nhân dân lựa chọn nổi dậy, như một phản
ứng tự nhiên để khẳng định quyền tự chủ và thái độ chấp nhận tình thế sống
còn với chế độ đang đè nén bản thân họ cũng như toàn thể dân tộc: “trên
chiến trường, họ đã bị tước đoạt quyền sống, thì giờ đây, họ chỉ nghĩa đến
việc giành lại quyền sống đó trên chiến trường mà thơi” [22, tr. 83].


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

giữa cách mạng bạo lực hay cách mạng hịa bình, Nguyễn An Ninh chủ
trương chọn cách mạng bạo lực như sự lựa chọn cuối cùng, bởi lẽ “Người ta
chỉ lên án bạo lực khi nó chưa cần thiết. Nhưng trong trường hợp đó là con
đường duy nhất thì ai cũng phải chấp nhận nó”[22, tr. 83]. Ơng cũng dẫn lời
của Gandhi để chứng minh cho sự lựa chọn của mình, rằng “Ở đâu mà có sự
lựa chọn giữa sự hèn nhát và bạo lực, tôi khuyên nên dùng bạo lực”, “Tơi
thích thấy nước Ấn Độ được tự do bằng bạo lực còn hơn bị xích lại bởi bạo
lực của bọn thống trị”[22, tr. 415]. Nguyễn An Ninh xác định con đường bạo
lực cách mạng là con đường cuối cùng, biện pháp cuối cùng khi phong trào
đấu tranh hịa bình khơng khiến thực dân Pháp chùn bước. Đây chính là biểu
hiện rõ nhất cho ý chí độc lập chính là sức mạnh to lớn của nhân dân Việt
Nam.


Phương thức thỏa hiệp, được Nguyễn An Ninh đề cập như một sự đối
lập với phương thức cách mạng. Nó nảy sinh ngay từ chính những nhóm cá
nhân người Việt có thái độ hợp tác với chế độ thực dân tại Việt Nam cũng
như chính phủ Pháp. Nguyễn An Ninh nhận định những người thỏa hiệp “hay
nói đến những tư tưởng nhân đạo của nước Pháp hòng lung lạc tình cảm các
tay thực dân, họ đã tỏ ra ngây thơ chẳng khác gì những người Âu Châu đang
tin tưởng nơi sứ mạng khai hóa của nước Pháp” [22, tr. 80]. Lập luận căn cốt
của lực lượng thỏa hiệp là chính sách “Pháp – Việt đề huề” do Toàn quyền
Albert Sarraut đưa ra. Lấy lí lẽ cho rằng người nơng dân khơng thể tha cho
anh em mình nếu họ bất công, những cá nhân ủng hộ thỏa hiệp đưa ra đề nghị


hòa giải đến từ chế độ thực dân: “chỉ cần có một chính phủ biết quan tâm đôi
chút đến công lý là sẽ dễ dàng làm lắng dịu mọi ý đồ nổi dậy” [22, tr. 84].
Nguyễn An Ninh phân tích rằng rốt cuộc, tất cả những gì mà lực lượng thỏa
hiệp làm là “cố gắng dung hòa giữa quyền lợi thực dân và nguyện vọng của
dân An Nam” [22, tr.84].


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

thỏa hiệp. Ơng chỉ ra rằng đã khơng ít lần, dân tộc Việt Nam đơn thuần hình
thành những thái độ cần thiết để “vừa hòa hợp truyền thống ấy với thời đại
mới” [22, tr. 160], tìm lại sự trật tự thay thế cho tình trạng xung đột và mâu
thuẫn của xã hội bấy giờ. Nguyễn An Ninh đưa ra công thức chung mà khơng
ít người Việt đã thực hiện nhằm cố gắng tái tạo lại tri thức và tinh thần tự
quyết đối với số phận của bản thân: “Sự sáng tạo nào cũng đòi hỏi một sức
mạnh. Sự xây dựng nào cũng địi hỏi một ý chí, một sức mạnh có kỷ luật”
[22, tr. 161]. Điều đó thất bại hồn tồn, khi chế độ thực dân đã lập tức “dã
man bóp nghẹt văn hóa, bóng tối che lấp ánh sáng và che lấp một cách thô lỗ
với một sự tàn bạo khơng làm vinh hạnh chút nào cho nịi giống con người”
[22, tr. 162]. Quan điểm bất hợp tác của Nguyễn An Ninh với thái độ thỏa
hiệp vô điều kiện của lực lượng thỏa hiệp (đại diện là Đảng Lập hiến) có phần
tương đồng với quan điểm của Thomas Paine: “Mọi biện pháp kín đáo tìm
kiếm hịa bình đã khơng mang lại hiệu quả nào cả. Những lời cầu nguyện của
chúng ta đã bị bác bỏ trong khinh miệt.” [23, tr. 64].


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

luận: “kẻ áp bức không bị trừng phạt, cịn ở phía bên kia, có những kẻ bị áp
bức bị trừng phạt” [22, tr. 437].


Mối tương quan giữa cách mạng và thỏa hiệp được Nguyễn An Ninh
xem xét cả trên phương diện nhận thức của cá nhân. Khi ơng, hồn tồn chủ
động và trực tiếp, đánh giá vị thế của trí thức Việt Nam như một đối tượng
đứng giữa sự lựa chọn giữa cách mạng và thỏa hiệp. Thái độ trịch thượng của
lối suy nghĩ cho rằng mình “ưu tú” để rồi tự hạ thấp nhân phẩm và tri thức


của mình mà đi van xin người bảo hộ chút quyền nhỏ nhoi. Sau là việc có
khơng ít trí thức trọng bằng cấp mà khơng có lý tưởng cao đẹp; họ chỉ
“chuyên đi làm chó giữ nhà trung thành cho một chế độ ô nhục” [22, tr.729].
Kế đến, ông phê phán những trí thức coi trọng tham vọng cá nhân “mà cam
tâm làm đầy tớ cho các giai cấp giàu sang trưởng giả”[22, tr. 732]. Từ những
hạn chế đó, Nguyễn An Ninh chủ trương thiết lập sự gắn kết của người trí
thức với cách mạng để từ đó cố gắng trở thành những nhà trí thức chân chính.
Vì theo Nguyễn An Ninh, cách mạng chính là cánh cửa mở ra viễn cảnh của
một xã hội mới: đó là nơi được giải phóng khỏi mọi hình thái áp bức, nơi tơn
trọng nhân phẩm con người. Bên cạnh đó, việc trí thức dấn thân vào tranh đấu
cách mạng chính là điều kiện để họ “tìm được sự che chở nhân phẩm”[22, tr.
759].


<i><b>2.2.4. Luận về phương thức thực hành dân chủ </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Ông chủ trương về việc xác lập lý tưởng một học thuyết cách mạng là
điều kiện cho sự ổn định lý thuyết, tiến tới triển khai các hoạt động cách mạng
dân chủ. Trong suy nghĩ của Nguyễn An Ninh, “bất cứ lý tưởng nào cũng
gồm một học thuyết. Không có học thuyết, lý tưởng sẽ chỉ là một giấc mơ.
Quả là thừa khi nói rằng cần phải có chiều sâu và phương để thiết lập một học
thuyết có người theo” [22, tr. 577]. Lý thuyết chính là yếu tố đầu tiên nhằm
định hướng ban đầu cho công cuộc tạo dựng các yếu tố cần thiết của một cuộc
cách mạng toàn diện, trước hết là thực hành dân chủ trong việc khơi dậy nhận
thức thực tế một cách đúng đắn cho mỗi cá nhân, cộng đồng. Ý nghĩa của việc
xác lập học thuyết cách mạng, theo Nguyễn An Ninh, là bước đi quan trọng
để từ đó tập trung vào việc xác lập tổ chức cách mạng nhằm hiện thực hóa lý
thuyết cách mạng đã được minh định lúc ban đầu.


Thực tế cho thấy, phong trào đấu tranh chống Pháp của Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, ít nhất là đến năm 1927 (thời điểm Nguyễn


An Ninh viết hai bài “Kinh nghiệm Quốc dân đảng”), luôn gặp trở ngại to lớn
đến mức khơng thể giải quyết được. Đó là xác định hệ tư tưởng (theo ngôn
ngữ của Nguyễn An Ninh là “học thuyết cách mạng”) để phát động phong
trào tranh đấu có hiệu quả. Điều đó thể hiện ở ngay trong q trình hoạt động
của thế hệ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,…đầu thế kỷ XX. Những thắng
lợi của Trung Hoa Quốc dân đảng (với chủ nghĩa Tam dân làm hệ tư tưởng)
đã trải qua nhiều thách thức, khó khăn mà đạt được những thành công như:
lãnh đạo cách mạng Tân Hợi (1911), lập nước Trung Hoa Dân quốc (1912),
phát động Chiến tranh Hộ quốc (12/1915 – 07/1916), thiết lập Mặt trận Quốc
- Cộng hợp tác (1924 – 1927),… Đó chính là minh chứng quan trọng của
Nguyễn An Ninh trong việc phát hiện, kiên trì đi theo lý thuyết cách mạng
đúng đắn để biến nó trở thành thực tiễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

áp hiện đại, ta phải có tổ chức kháng cự hiện đại” [22, tr. 83]. Chính vì sự cai
trị bằng khủng bố của thực dân Pháp, ông coi cuộc đấu tranh giữa sự cai trị
của thực dân với nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh của hai mặt đối lập
trong một không gian – thời gian cụ thể: “Chống đối lại một trật tự, phải dùng
một trật tự khác, giáng trả một sức mạnh, phải dùng một sức mạnh khác” [22,
tr. 339]. Dù rằng việc tuyên truyền, thúc đẩy sức mạnh tinh thần dựa trên
những lý tưởng cách mạng là quan trọng, nhưng với Nguyễn An Ninh, điều
đó chưa phải là tất cả yếu tố cho một cuộc cách mạng thành cơng. Ơng viết
rằng: “Có một lý tưởng chưa phải là tất cả. Còn phải nhiều hơn nữa… Cuối
cùng, để bắt đầu, cần phải có một tổ chức lâu dài và vững mạnh” [22, tr. 577].
Việc hình thành tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn là nhân tố quan trọng
về mặt tổ chức. Mục đích, theo Nguyễn An Ninh, là giúp cho nhân dân biết
đọc viết, biết tri thức, biết lĩnh hội sứ mệnh của lịch sử và đoàn kết lực lượng,
đấu tranh bằng mọi mặt (cơng khai lẫn bí mật), làm nịng cốt cho các đảng
chính trị về sau (khi có điều kiện). Năm 1928, trước những biến động của
trong và ngoài nước, Nguyễn An Ninh chủ trương thành lập Mặt trận thống
nhất nhằm “đoàn kết lại trong một nỗ lực chung để chiến đấu chống lại bạo


quyền thực dân” [22, tr. 693]. Yếu tố đồn kết có thành cơng hay khơng, cần
phải có những nhận định đúng đắn, tồn diện về các lực lượng xã hội đương
tồn tại ở Việt Nam bấy giờ, xét đến trình độ và khả năng của từng lực lượng
một để từ đó tạo dựng nên mặt trận rộng rãi, mạnh mẽ, kiên định và phát huy
sức mạnh toàn dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

ngày” [16, tr.144]. Trí thức Việt Nam khơng chỉ đơn thuần “làm giàu di sản
trí tuệ của dân tộc” [22, tr. 69] mà còn “phản chiếu lên con người của mình
một khía cạnh của tâm hồn dân tộc” [22, tr. 69]. Người trí thức, trong tư
tưởng Nguyễn An Ninh, phải là người có tài năng, trình độ đi đơi với khí
phách kẻ sĩ trước thời cuộc: “đồn kết, đủ khả năng làm cho kẻ hung dữ, kiêu
căng và vô lối phải cúi đầu” [22, tr. 340]. Đích đến của người trí thức Việt
Nam khơng dừng ở những điều kiện sống của cá nhân mà còn tiến tới “cải
thiện điều kiện sống của đồng bào mình” [22, tr. 386], tương đồng với quan
điểm quan điểm “mưu cuộc phú cường, khơng có gì khác hơn là làm lợi cho
dân” của Nghiêm Phục [Dẫn theo: 31, tr. 27]. Bởi lẽ, dù trí thức có người này
người khác, khả năng khác nhau, trình độ khác nhau song đều có chung
những giá trị của cội nguồn dân tộc: đó chính là “tính kiên cường bất khuất”,
là “dòng máu tự hào oanh liệt của các bậc tiền bối không bao giờ chấp nhận
bất cứ ai chà đạp, nhục mạ Tổ quốc mình” [22, tr. 386].


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

nêu trên, song công nhân Việt Nam chưa hề biết đến bãi cơng. Nhưng chính
vì cuộc bãi cơng của 400 thủy thủ Pháp ở Sài Gịn đã giúp cho công nhân Việt
Nam rút ra hai yếu tố đáng lưu ý góp phần vào tính hiệu quả bãi công: “sức
mạnh nằm ở số người tham gia và trong sự đoàn kết [22, tr. 550]. Ngoài ra,
Nguyễn An Ninh cũng chỉ ra thất bại của giai cấp công nhân do “thiếu tổ chức
và thiếu những thủ lĩnh có khả năng” [22, tr. 551].


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

<b>2.3. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề </b>
<b>dân chủ</b>



<b>2.3.1. Giá trị nổi bật </b>


Quan điểm của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ khơng chỉ đơn
thuần hình thành mang tính lịch sử cố định trong giai đoạn 1923 – 1928,
mà còn khơi gợi những giá trị sâu sắc và nhiều suy nghĩ của một thanh
niên yêu nước.


Về thực trạng và bản chất của dân chủ, Nguyễn An Ninh không đặt
trong một mơ típ rập khn về thứ tự duy lý khô cứng gồm các luận điểm và
luận cứ. Ơng ln đặt thực trạng dân chủ vừa ở một biểu trạng lịch sử - xã
hội cụ thể, vừa luận giải trên tinh thần trực diện vào những nghi vấn có
tính vấn đề, những hoài nghi hiếm ai đủ điều kiện để hoài nghi của cả xã
hội thuộc địa. Việc tiếp nhận tư duy phê phán, phản biện, tranh luận từ
môi trường học thuật – xã hội phương Tây và kết hợp với ngôn từ diễn đạt
của văn phong hiện đại giúp ơng nhìn nhận cuộc khủng hoảng tinh thần
của dân tộc Việt Nam như một đối tượng cần được tìm hiểu thấu đáo.
Mục đích của Nguyễn An Ninh là bằng cách truy vấn chính đối tượng mà
bản thân và cả dân tộc đã đối diện trong những năm thuộc địa, ơng có thể
tìm thấy vấn đề dân chủ và một lần nữa truy vấn chúng, truy vấn những kẻ
đã tạo ra chúng nô dịch dân tộc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

khác: một thái độ quyết liệt, trân trọng sự khơi gợi động lực tiến bộ của dân
chủ, và cả sự phê phán không khoan nhượng khi dân chủ bị phiên giải sai lầm
bởi những luận thuyết nặng tính tiền định, chủ quan.


Với bốn nội dung chính (gồm bản chất của vấn đề dân chủ thuộc địa,
quan niệm về vai trị – vị trí của quần chúng nhân dân, bàn luận về cách mạng
với thỏa hiệp và luận về phương thức thực thi dân chủ), Nguyễn An Ninh
bước đầu nhìn nhận và khắc phục những khó khăn mà thế hệ của những bậc


tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... đã chưa có điều kiện để làm
được. Bằng những tri thức tiếp nhận từ triết học phương Tây và chủ nghĩa xã
hội về tự do, Nguyễn An Ninh đã trình bày sâu sắc bối cảnh của xã hội Việt
Nam thuộc địa với sự tồn tại dai dẳng hàng loạt những biểu hiện khắc nghiệt,
chân thực của vấn đề dân chủ. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân của
lịch sử để lại, và cả những nguyên nhân của đương thời gây nên. Ông can
đảm nhận thấy Việt Nam đang ở ngã ba đường của những thách thức và thời
cơ, dân chủ và thực dân. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không chỉ là toàn bộ
chế độ thực dân mà chính giới Pháp đã áp đặt lên Việt Nam cũng như các
thuộc địa khác, mà còn chính từ những hạn chế tồn tại lâu dài trong nhận thức
của phong trào cách mạng và xã hội. Đấu tranh với hiện tại và đấu tranh với
chính những thiếu sót của chính mình, là biểu hiện cao độ sự phản tư của
Nguyễn An Ninh: điều này có sự kế thừa từ thế hệ Đông du – Duy tân đầu thế
kỉ XX và tiếp nhận từ truyền thống triết học Đông – Tây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

thức và ghi nhận của xã hội, lại trở nên trì trệ và khơng quyết liệt khi hồi
nghi mục đích tồn thể của mình để hướng đến những quyết định mang tính
bình qn, thỏa hiệp. Những giá trị của tự do, dân chủ trong tâm tưởng của
Nguyễn An Ninh không chấp nhận một dấu hiệu thỏa hiệp vô nguyên tắc mà
đòi hỏi một tinh thần dấn thân, phương pháp cụ thể và mục tiêu không vị kỷ
nước đôi.


Nguyễn An Ninh không một khoảnh khắc hay thời điểm nào gạt bỏ vấn
đề dân tộc bên cạnh vấn đề dân chủ. Ông tìm thấy ở chúng một mối quan hệ
có tính biện chứng, khơng có sự phân biệt một cách gay gắt và cũng khơng
có sự kết hợp máy móc giáo điều. Vấn đề dân chủ phản ánh tính bất định,
khơng tồn vẹn của dân chủ kể cả ở cấp độ cá nhân lẫn cấp độ tăng dần
đều của quy mô tổ chức cộng đồng người (làng xã, tỉnh, miền, dân tộc,
quốc gia, khu vực, nhân loại). Vì vậy, giải quyết vấn đề dân chủ không
chỉ ở việc gây dựng một ý thức dân chủ mạnh mẽ thiết thực đối với tinh


thần – hành động của mỗi cá nhân mà phải hướng đến việc dùng nội lực
đó thay đổi vận mệnh của dân tộc ra khỏi sự ngự trị của chế độ thực dân,
giải phóng dân tộc và phát triển quốc gia trong sự hợp tác với các nước
dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống lại sự tồn tại của mọi hình thái áp
bức, bóc lột nhân danh dân chủ.


<b>2.3.2. Hạn chế chủ yếu </b>


Với những giá trị đã được làm rõ, Nguyễn An Ninh và quan điểm của
ơng về vấn đề dân chủ cịn tồn tại những hạn chế nhất định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

có những khó khăn khơng dễ giải quyết. Mặc dù việc thể hiện ý tưởng và viết
bài trên diễn đàn công khai của báo chí, xã hội ở miền Nam có điều kiện so
với miền Bắc và miền Trung Việt Nam, nhưng điều này trở nên khó khăn khi
chính quyền thực dân Pháp thi hành và bổ sung hàng loạt các đạo luật về
Ngơn luận, Báo chí, Xuất bản,... Với quan điểm thẳng thắn và công khai,
Nguyễn An Ninh nhận thấy mức độ truyền tải nội dung và thông điệp khó có
thể trọn vẹn khi sự chi phối của chủ đề bài viết, mức kiểm duyệt của chính
quyền,...ln tồn tại thường trực.


Thực tế đúng như Nguyễn An Ninh quan niệm về sự không tồn bích
của khái niệm dân chủ, khi khái niệm này khơng phải lúc nào cũng có một sự
ổn định về tần suất và tính chất biểu hiện bằng hình thức lập luận lý thuyết lẫn
hình thức trạng thái thực tế. Điều này được ông bày tỏ và chứng minh ở nhiều
bài viết khác nhau, với những lí giải và nội dung bài viết khác nhau. Dù vậy,
thật khó để tìm thấy một khái niệm có thể coi là mang tính khái qt cao của
Nguyễn An Ninh về dân chủ, bản chất của dân chủ, biểu hiện – mục đích của
dân chủ, các khuynh hướng dân chủ,...Việc thiếu hụt các khái niệm cơng cụ
chính yếu, căn cốt khơng ít lần gây cho Nguyễn An Ninh những khoảng lặng
trong quá trình suy tư và hành động. Vì vậy, quá trình Nguyễn An Ninh định


dạng nguồn gốc những vấn đề dân chủ, biểu hiện của chúng cũng như sự liên
kết giữa các tiêu chí khác ở một mức độ tương đối khi đặt trong tương quan
với những vấn đề ông đi sâu hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

trở thành thuộc địa. Dù vậy, ông luôn mặc định niềm tin với nhân dân Pháp
và những giá trị khoa học, tiến bộ của Pháp được thế giới ghi nhận. Thành tựu
của nước Pháp khiến ông từng nuôi dự định đưa nước Việt Nam độc lập thành
một quốc gia hùng cường như một nước Pháp ở châu Á. Nguyễn An Ninh tích
cực đấu tranh tất cả những di hại mà chế độ thực dân Pháp gắn vào thực trạng
của Việt Nam, nhưng ông dường như bỏ ngỏ quan điểm của mình đối với sự
tồn tại của chế độ phong kiến. Ông khát khao xây dựng một nền văn hóa độc
lập khơi dậy những con người Việt Nam chung sống với nhau như những con
người tự do, dân chủ về sự lựa chọn và trong cách tạo lập các giá trị cho bản
thân cũng như xã hội, nhưng ơng tìm thấy một sự khó khăn khi xác định di
sản cốt lõi của văn hóa dân tộc. Nguyễn An Ninh chưa từng phủ nhận hay gạt
bỏ vấn đề dân tộc và vai trò đấu tranh của phong trào quần chúng, nhưng như
đã thấy trong giai đoạn 1923 – 1926, Nguyễn An Ninh chưa có nhiều điều
kiện để đi sâu vào hai nội dung này.


<b>Tiểu kết chƣơng 2 </b>


<b> </b>Thời gian trải từ năm 1923 đến năm 1928 không gây một ấn tượng mạnh
về số liệu, nhưng đã quyết định đến cuộc đời song hành giữa tư tưởng và hành
động của Nguyễn An Ninh. Trải qua giai đoạn học tập và trải nghiệm đời
sống và tư tưởng phương Tây, Nguyễn An Ninh lựa chọn trở về Việt Nam
nhằm khởi động cuộc đấu tranh trường kỳ của bản thân cùng với cuộc đấu
tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam. Với vốn hiểu biết của hai nền văn hóa
Đơng – Tây và chứng kiến sự khủng hoảng của xã hội đương thời, Nguyễn
An Ninh đã nhìn thấy ở thực tại đang hiện diện khát khao dân chủ từ những
cá nhân cụ thể đến những vấn đề mang tính quyết định vận mệnh của một con


người, một cộng đồng, một dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

đến gần hơn đối với quần chúng nhân dân và hiểu rõ hơn về căn bệnh lý tính
– cảm tính của Việt Nam. Con người dân chủ, đối với Nguyễn An Ninh,
không phải con người của những ngẫu tượng mà là mẫu hình có thể đạt được
ở hiện thực. Nhưng để đạt được con người dân chủ ở hiện thực, cần có một
q trình lâu dài và đầy thử thách. Tư tưởng của Nguyễn An Ninh về dân chủ
được tập trung trong bốn nội dung: bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa,
quan niệm về nhân dân, bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp. Với mỗi nội
dung, Nguyễn An Ninh luôn gắn bó mật thiết tính cấp thiết và tính nan giải
của chúng với thực tiễn của đương thời. Phần khuất lấp của chế độ thực dân
Pháp được Nguyễn An Ninh từng bước tìm thấy, phân tích, đánh giá trên tinh
thần khách quan, phê phán mạnh mẽ.


Ông nhận thấy chính sự suy đồi của cái gọi là dân chủ ở thuộc địa đã
khiến cho con người Việt Nam trở nên xa lạ, lạc lõng, lầm than ngay trên
chính mảnh đất sinh ra mình. Người Việt Nam có sự tồn tại, nhưng là tồn tại
của sự thiếu hụt yếu tố hiện thực và là tồn tại của những tha nhân – những kẻ
khác. Xã hội truyền thống trong quan điểm của Nguyễn An Ninh là một xã
hội chứa đựng những giá trị tự do về xã hội và chính trị, cũng như tự do về
đời sống vật chất và tinh thần. Ơng vẫn khẳng định mơi trường bị chi phối bởi
hệ tư tưởng cũ đã nảy sinh những hệ lụy, dẫn tới số phận của dân tộc Việt
Nam phải trải qua thách thức của lịch sử mang tên thực dân Pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

một cuộc cách mạng trong thực tiễn còn chưa thể được triển khai trên quy mơ
tồn diện, với tính chất triệt để. Tự do đó cần đến những nền tảng của tri thức,
ý chí của mỗi cá nhân và cần được hiện thực hóa bằng hành động có tính
ngun tắc, đồn kết của một tổ chức toàn thể. Nguyễn An Ninh từ đây xác
định đối tượng của cuộc đấu tranh độc lập – tự do là chế độ thực dân Pháp,
phá bỏ huyền thoại đen của quá khứ thuộc địa để Việt Nam trở thành quốc gia


của những con người thực sự nhận thức và hành động như những người dân
làm chủ sự hiện tồn và làm chủ quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<b>KẾT LUẬN </b>


Từ những ngày đầu nhập cuộc vào diễn trình lịch sử dân tộc cho đến khi
qua đời tại nhà tù Côn Đảo, Nguyễn An Ninh đã luôn xác định trong suy nghĩ
và hành động một sự dấn thân cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và dùng
hết sức mình trình bày tư tưởng, luận giải nhằm khích lệ nhân dân tiến vào
cuộc đấu tranh cách mạng. Với vai trò của một trí thức dấn thân, Nguyễn An
Ninh đã để lại những quan niệm của ông về vấn đề dân chủ như là một trong
những mối quan tâm xuyên suốt chặng đường cách mạng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Trải qua giai đoạn hình thành lý thuyết và trải nghiệm thực tiễn giai đoạn
1923 – 1928, Nguyễn An Ninh hiện thực hóa những quan niệm về vấn đề dân
chủ bằng việc đưa ra lựa chọn cho chính mình: lựa chọn kết hợp con đường
cách mạng chính trị cơng khai, đồng thời tiến hành tổ chức cho quần chúng
sẵn sàng với các cuộc đấu tranh sắp tới. Sự ra đời của Thanh niên Cao vọng
(được sáng lập bởi Nguyễn An Ninh cùng Phan Văn Hùm, Mai Văn Ngọc) đã
thực hiện quá trình đào luyện quần chúng nhân dân miền Nam rèn luyện tri
thức khoa học, mở rộng phong trào quần chúng ở miền Nam (1924 – 1928),
trở thành động lực cho phong trào cách mạng về sau và cịn là mơi trường rèn
luyện cho những nhà cách mạng trẻ tuổi, làm nòng cốt cho Đảng Cộng sản
Việt Nam về sau này như Võ Thành Mong, Võ Văn Ngân, Võ Văn Tần, Hồ
Văn Long, Trương Văn Bang, Tô Ký... Về sau, tinh thần đấu tranh dân chủ
của Nguyễn An Ninh còn được thể hiện mạnh mẽ thông qua việc thành lập
Liên danh Đệ Tam - Đệ Tứ (hay còn gọi là Sổ Lao động, nhóm La Lutte)
thành lập nhằm đoàn kết những người theo chủ nghĩa xã hội tham gia đấu
tranh dân chủ công khai (07/05/1933 – 1939), phát động phong trào “Đông
Dương Đại hội” và nhân rộng ra tồn quốc. Đó là những nỗ lực của Nguyễn


An Ninh nhằm thực hiện những tư tưởng dân chủ của mình, đẩy mạnh hơn
nữa phong trào cách mạng của dân tộc lên giai đoạn mới – giai đoạn thúc đẩy
từ vận động dân chủ sang việc khẳng định, phát động chuẩn bị cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82></div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


<i><b>SÁCH TIẾNG VIỆT </b></i>


<b>1. </b>Adler, Mortimer J. (2019), Phạm Viêm Phương và Mai Sơn dịch.
<i>Cùng suy nghĩ về những ý niệm lớn (sách tham khảo)</i>, Nxb. Hồng Đức,
Hà Nội.


<b>2. </b>Nguyễn Thế Anh (2017), <i>Việt Nam thời Pháp đô hộ</i>, Nxb. Văn hóa –


Văn nghệ, Hà Nội.


<b>3. </b>Phan Bội Châu (1990), “Tân Việt Nam”, <i>Phan Bội Châu Tồn tập, </i>
<i>tập 2</i>, Nxb. Thuận Hố, Huế.


<b>4. </b>Dỗn Chính chủ biên (2016), <i>Lịch sử triết học phương Đơng</i>, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<b>5. </b>Mai Cao Chương và Đoàn Lê Giang (1996), <i>Nguyễn Lộ Trạch – </i>
<i>Điều trần và Thơ văn</i>, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.


<b>6. </b>Engels, Friedrich (1994), “Chống Đuy-rinh”, <i>C. Mác và Ph.Ăng </i>
<i>ghen tồn tập, tập 20</i>, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<b>7. </b>Fromm, Erich (2007). <i>Trốn thoát tự do</i>, Bùi Thanh Châu dịch, Nxb.


Từ điển Bách khoa, Hà Nội.


<b>8. Trần Văn Giàu - Tổng tập, tập 3 </b>(2008), Nxb. Công an Nhân dân, Hà
Nội.


<b>9. </b> Phạm Quang Huy (2019), “Zhuangzi’s Theory of Freedom:


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

pháp)”, <i>VNU Journal of Science: Legal Studies</i>, Vol. 35, No. 3 (2019),
tr. 84 – 95.


<b>10.</b> Đỗ Minh Hợp (2014), <i>Lịch sử triết học phương Tây, tập 2: Triết </i>


<i>học phương Tây cận hiện đại</i>, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<b>11. </b>Inwood, Michael (2015), <i>Từ điển Triết học Hegel</i>, tập thể dịch giả:
Bùi Văn Nam Sơn, Cù Ngọc Phương, Đinh Hồng Phúc, Đoàn Tiểu
Long, Hoàng Phong Tuấn, Hoàng Phú Phương, Huỳnh Duy Thanh,
Lưu Quốc Khánh, Nguyễn Trúc Phương, Nguyễn Văn Sướng, Thánh
Pháp, Tôn Nữ Thùy Dương, Trần Thị Ngân Hà, Trương Trọng Hiếu,
Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb. Tri thức, Hà Nội.


<b>12. </b>Paul Kelly, Rod Dacombe, John Farndon, A.S. Hodson, Jesper
Johnson, Niall Kishtainy, James Meadway, Anca Pusca, Marcus Weeks
(2019), <i>Khái lược những tư tưởng lớn – Chính trị</i>, Bích Thu dịch, Lê
Ngọc Tân hiệu đính, Nxb. Dân trí, Hà Nội.


<b>13. </b>Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nguyễn Văn Khánh, Phạm Hồng Tung,


Phạm Xanh (2012), <i>Lịch sử Việt Nam, tập 3</i>, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.



<b>14. </b>Lenin, Vladimir Ilyich (1980), “Châu Á thức tỉnh”, đăng trên số


103 ngày 7 tháng 5 năm 1913 của báo Sự thật (Pravda), <i>V.I.Lê–nin </i>
<i>Tồn tập, tập 23</i>, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


<b>15. </b>Lenin, Vladimir Ilyich (1980), “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận


cương về vấn đề Dân tộc và Thuộc địa<i>”</i>, viết vào ngày 05/06/1920,
trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, <i>V.I.Lê–nin Tồn tập, tập 41,</i>


Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 197 – 206.


<b>16. </b>Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang (2012), <i>Lịch sử thế giới</i>, Nxb.
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.


<b>17. </b>Phan Huy Lê chủ biên, Phan Đại Doãn, Lương Ninh, Nguyễn


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<b>18. </b> Marx, Karl (1995), “Việc cấm tờ báo “Leipziger Allgemeine


Zeitung”. Đăng trên báo “Rheinische Zeitung” ngày 1, 4, 6, 8, 10, 13,
16 tháng Giêng năm 1843, <i>C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập, tập 1</i>,
Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.


<b>19. </b>Marx, Karl (1993), “Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính


trị”, <i>C.Mác và Ph.Ăng ghen Tồn tập, tập 13</i>, Nxb. Chính trị Quốc gia
Sự thật, Hà Nội.


<b>20.</b> Montesquieu (2018), <i>Bàn về tinh thần pháp luật</i>, Hoàng Thanh
Đạm dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.



<b>21. Nguyễn An Ninh – Qua hồi ức của những người thân</b> (2009), Trung
tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.


<b>22. Nguyễn An Ninh – Tác phẩm</b> (2009), Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học, Nxb. Văn học, Hà Nội.


<b>23. </b>Paine, Thomas (2018), <i>Lẽ thường</i>, Nông Duy Trường chuyển ngữ
và chú thích, Nxb. Thế giới, Hà Nội.


<b>24. </b>Peycam Philippe M.F (2015),<i> The birth of Vietnamese political </i>
<i>journalism: Saigon, 1916 – 1930. Làng báo Sài Gòn 1916 – 1930. </i>Bản


dịch của Trần Đức Tài, Nxb. Trẻ, Hà Nội.


<b>25. </b>Rousseau, Jean – Jacques (2016), <i>Khế ước xã hội</i>, Dương Văn Hóa
dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.


<b>26. </b>M. Rô-đen-tan và P.I-u-pin chủ biên (1976), <i>Từ điển Triết học</i>,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.


<b>27. </b>Lê Văn Siêu (2003), <i>Việt Nam văn minh sử - Lược khảo, tập </i>
<i>Thượng: Từ nguồn gốc đến thế kỉ thứ X</i>, Nxb. Lao động, Hà Nội.


<b>28. </b>Phạm Văn Sinh và Phạm Quang Phan đồng chủ biên (2016), <i>Giáo </i>
<i>trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin</i>, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.


<b>29. </b>Trịnh Văn Thảo (2019), <i>Nhà trường Pháp ở Đông Dương</i>, Nguyễn



</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<b>30. </b>Nguyễn Quyết Thắng (2007), <i>Văn học Việt Nam – Nơi miền đất </i>
<i>mới, tập 2</i>, Nxb. Văn học, Hà Nội.


<b>31. </b>Cố Nhi Tân (2016), <i>Tiểu truyện Danh nhân: Nghiêm Phục – Cô </i>
<i>Hồng Minh – Lương Khải Siêu – Hồ Thích</i>, Tủ sách Tiến bộ, cơ sở xuất
bản Phạm Quang Khai, thư viện Huệ Quang ảnh ấn, thành phố Hồ Chí
Minh.


<b>32. </b>Nguyễn Xuân Thọ (2016), <i>Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống </i>


<i>thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858 – 1897)</i>, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.


<b>33. </b>Nguyễn Đăng Thục (1964)<i>, Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết </i>
<i>học bình dân, </i>Nhà sách Khai Trí, Sài Gịn.


<b>34. Tứ thư Toàn tập</b> (2006), Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm
Đại Viện, Lưu Phong chú dịch, Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận
biên dịch, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.


<b>35. </b>Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2002<i>), Ngữ văn Hán Nôm, tập 2, Ngũ </i>
<i>kinh</i>, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.


<b>36. </b>Will và Ariel Durant (2015), <i>Jean – Jacques Rousseau</i>, Bùi Xuân
Linh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb. Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.


<i><b>SÁCH TIẾNG ANH </b></i>


<b> 37. </b> Heywood, Andrew (2013). <i>Politics</i>. The Palgrave Macmillian.



<i><b>CÁC TRANG INTERNET </b></i>


<b> 38.</b>
/>hoc-Viet-Nam/Mot-so-noi-dung-va-gia-tri-co-ban-ve-quyen-con-nguoi-trong-Quoc-trieu-hinh-luat-421.html


<b> 39.</b>
/>


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

<b>41.</b>


<b> 42.</b>
/>


<b> 43.</b>
/>


<b> 44.</b>


<b> 45.</b>
/>


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' Quoc-trieu-hinh-luat-421.html'> </a>
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay
  • 2
  • 31
  • 391
  • ×