MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 5
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
4. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 5
5. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 5
6. Bố cục của đề tài ............................................................................................ 6
Chương 1 ............................................................................................................... 7
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÁT LƯỢN SLƯƠNG VÀ NGƯỜI TÀY Ở
HUYỆN TRÙNG KHÁNH– CAO BẰNG ........................................................ 7
1.1
Khái quát về Hát lượn ............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 7
1.1.2. Nguồn gốc của hát lượn ....................................................................... 8
1.2. Thể loại Hát lượn Slươngcủa người Tày ở huyện Trùng Khánh –
Cao Bằng ............................................................................................................ 9
1.2.1. Lượn lề lối ............................................................................................... 9
1.2.2.Lượn quan làng......................................................................................... 9
1.2.3. Lượn slao báo – hát giao duyên: .......................................................... 10
1.3 Người Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng ...................................... 11
1.3.1 Đặc điểm địa lý – dân cư ........................................................................ 11
1.3.2. Đặc điểm kinh tế .................................................................................. 12
1.3.3 Nhà ở ...................................................................................................... 14
1.3.4 Phong tục tập qn ................................................................................. 15
1.2.5. Tín ngưỡng tơn giáo ............................................................................ 17
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CỦA HÁT LƯỢN SLƯƠNG CỦA NGƯỜI
TÀYỞ HUYỆN TRÙNG KHÁNH– CAO BẰNG........................................... 19
1
2.1
Lời ca Hát Lượn Slương ....................................................................... 19
2.1.1. Cách thức tổ chức .................................................................................. 19
2.1.2. Nội dung cuộc lượn ............................................................................... 20
2.1.3. Lời ca ...................................................................................................... 25
2.2. Âm nhạc .................................................................................................... 27
2.2.1. Làn điệu .................................................................................................. 27
2.2.2. Nhạc cụ ................................................................................................... 28
2.1.3. Không gian, thời gian diễn xướng của Hát Lượn................................ 29
2.3. Thực trạng Hát lượn Slươnghiện nay ở huyện Trùng Khánh – Cao
bằng .................................................................................................................. 30
2.3.1 Đối với những người lớn tuổi ................................................................ 30
2.3.2. Đối với thế hệ trẻ ................................................................................... 31
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN LÀN
ĐIỆU HÁTLƯỢN CỦA NGƯỜI TÀYỞ HUYỆN TRÙNG KHÁNH–
CAO BẰNG ........................................................................................................ 32
3.1 Vai trò, tác dụng của Hát lượn Slươngtrong đời sống của người
Tày ở huyện Trùng Khánh - Cao bằng ........................................................ 32
3.2 Hát lượn Slương trong hoạt động văn hóa quần chúng huyện Trùng
Khánh – Cao Bằng .......................................................................................... 33
3.3 Một vài giải pháp bảo tồn, phát triển làn điệu Hát lượn Slươngcủa
dân tộc Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng .......................................... 34
3.3.1 Bảo tồn hát Lượn ................................................................................... 34
3.3.2 Phát triển hát Lượn Slương .................................................................. 36
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 39
PHỤ LỤC ẢNH .................................................................................................. 40
2
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình nghiên cứu và khảo sát thực địa đề tài “Một số giải pháp
phát triển làn điệu Hát lượn Slương của người Tày ở huyện Trùng Khánh –
Cao bằng” đã được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn tận tình của cơ giáo Th.s
Trần Thục Qun.
Qua đây em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Giảng viên hướng dẫn
….Khoa Quản lí văn hóa nghệ thuật. Và trân trọng cảm ơn tới Trung tâm Thư
viện Trường Đại học …, Thư viện tỉnh Cao Bằng, Phịng Văn hóa thể thao
huyện Trùng Khánh, UBND huyện Trùng Khánh nơi khảo sát đề tài.
Tuy nhiên do thời gian có hạn, nên đề tài cịn nhiều thiếu sót và hạn chế.
Rất mong được sự góp ý của những người có kinh nghiệm đi trước để người
viết có hướng bổ sung, sửa đổi giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tác giả xin trân thành cảm ơn.
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hóa riêng, mỗi tộc người trong quốc
gia đó cũng có bản sắc văn hóa khác nhau. Trải qua hàng nghìn năm bắc
thuộc và hàng trăm năm đô hộ của thực dân, kẻ thù muốn truyền bá văn hóa
của chúng hịa tan văn hóa dân tộc của ta. Nhưng với một đất nước ngàn năm
văn hiến như Việt Nam chẳng những bản sắc không bị mai một mà cịn ln
gìn giữ phát triển một cách sáng tạo kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn
hóa dân tộc hiện đại. Mặc dầu vậy, quá trình đất nước chuyển đổi đi lên
chúng ta cũng gặp phải sự cản trở đó là những hiện tượng văn hóa khơng lành
mạnh du nhập vào nước ta qua nhiều con đường và sự tác động đó dẫn đến
văn hóa bị lai căng làm xóa nhịa ranh giới, dẫn đến truyền thống văn hóa và
bản sắc văn hóa của chúng ta có những thời gian, thời điểm ít được chú trọng
thậm chí có mặt bị lãng quên. Trên thực tế đã có những sản phẩm văn hóa dân
gian mà tổ tiên để lại từ hàng ngàn năm giờ đây khơng cịn nữa. Đó là chưa
nói tới nhận thức của một số người cho rằng khơi phục văn hóa truyền thống
là phục cổ, khơng phù hợp với xu thế mở cửa.
Nói đến tổ quốc, q hương thì phải nói đến nền văn hóa các tộc người.
Cao Bằng là nơi cư trú của nhiều tộc người như Tày, Nùng, Dao, Mông,
Kinh, Sán Chỉ, Lô Lô... mỗi tộc người đều có những bản sắc văn hóa riêng.
Người Tày ở Cao Bằng chiếm số lượng khá nhiều (1.190.342 người). Đời
sống tinh thần của họ rất đa dạng và phong phú, chỉ nói riêng về lĩnh vực âm
nhạc của người Tày cũng có nhiều thể loại khác nhau như hát then, hát ru, hát
lượn... nhưng trong bài viết này người viết chỉ đi sâu vào tìm hiểu về Hát lượn
Slươngcủa người Tày ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng để thấy được
những nét đẹp trong câu hát, các lọai hát lượn, tìm hiểu về thực trạng rồi từ đó
đưa ra những giải pháp để bảo tồn và phát triển Hát lượn Slươngđó là một
4
hình thức hoạt động văn hóa rất phổ biến và không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của người Tày. Thơng qua đó có thể đóng góp, bổ sung thêm tài liệu
cho việc nghiên cứu và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Tày theo nghị quyết trung ương V của Đảng đã đề ra: “ xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về người Tày và Hát lượn Slươngcủa người Tày ở huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu
- Điều tra khảo sát thực tế
- Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về Hát lượn Slươngđể biết thêm về giá trị nghệ thuật, vai trị
của nó và đưa ra những giải pháp để bảo tồn và phát triển Hát lượn Slươngcủa
người Tày
5. Đóng góp của đề tài
Hát lượn Slươnglà một thể loại dân ca của người Tày giống như hát ví,
hát ghẹo của người Kinh. Những câu hát đề cập đến mọi mặt của đời sống, ca
ngợi quê hương, đất nước, cảnh đẹp của thiên nhiên. Đó là những câu hát giao
duyên, đối đáp của những đôi trai gái, tập thể nam nữ, tình bằng hữu... Khơng
những vậy, những câu hát ấy còn là thước đo cho sự hiểu biết, thông minh,
hiếu khách... của người Tày, Nùng xưa.
Những lời ca tạo nên khơng khí phấn khởi, sảng khoái, tạo niềm vui
trong lao động, sinh hoạt, thêm tin yêu cuộc sống. Khi những buổi hát sli,
lượn được tổ chức trong cộng đồng, mọi người cùng giao lưu, gặp gỡ, tâm
tình vừa góp phần tạo nên tình đồn kết, gắn bó, vừa là dịp để người lao động
5
bảo lưu văn hóa truyền thống của mình qua các thế hệ. Việc xây dựng đề tài
này chính là để góp phần khơi phục và phát huy vốn văn hóa truyền thống tốt
đẹp ấy.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được chia thành ba
chương:
Chương I: Khái quát về Hát lượn Slương và người Tày ở huyện Trùng
Khánh – Cao Bằng
Chương II: Đặc điểm của Hát lượn Slươngcủa người Tày ở huyện
Trùng Khánh – Cao bằng
Chương III: Một số giải pháp bảo tồn và phát triển làn điệu Hát lượn
Slương của người Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÁT LƯỢN SLƯƠNG VÀ NGƯỜI TÀY Ở
HUYỆN TRÙNG KHÁNH– CAO BẰNG
1.1 Khái quát về Hát lượn
1.1.1. Khái niệm
Hát lượn là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày, nhưng đến
nay vẫn chưa có được một định nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên, qua các cơng trình
nghiên cứu của một số người đi trước, chúng tôi tập hợp được những ý kiến
sau:
Nhạc sĩ Đỗ Minh, nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, giải thích: Gọi
“Lượn Slương ” vì nó là “tiếng hát của tình thương”. Nhà nghiên cứu văn
học dân gian Vi Hồng viết: “…Slương nghĩa là thương”. Nhà dân tộc học Lã
Văn Lô nhận định: Slương là hát để “bày tỏ tâm tình của mình đối với người
yêu…”. Nhà dân tộc học Nguyễn Nam Tiến phân tích: “…gọi là Slương vì
trong rất nhiều bài lượn, đặc biệt là những câu đầu thường hay có từ Slương”
thí dụ :
Thặt cằm Slương đuổi bạn tương tri
(Có lời với bạn tương tri)
Trong cuốn “Sli Lượn, dân ca trữ tình Tày Nùng”, Vi Hồng đã đưa ra
nhận xét về nguồn gốc và ngữ nghĩa của từ “Lượn ”. Tác giả đưa ra nhiều ý
kiến giải thích khác nhau, nhưng đáng chú ý là ý kiến của cụ Nơng Văn Mơ ở
huyện Hịa An tỉnh Cao Bằng. Theo cụ Mơ thì “lượn” hay “vén” cùng có một
nghĩa - xưa kia người Tày vẫn nói “lượn lục” hay “vén lục” đều có nghĩa là
“ru con”.
Lượn thường được hiểu theo hai nghĩa hẹp và rộng khác nhau. Theo
nghĩa rộng, lượn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca người Tày, bao gồm cả then
7
(lượn then), hát đám cưới (lượn quan làng), phuốc pác (lượn phuốc pác) và
phong slư (lượn phong slư).
Theo nghĩa hẹp, lượn chỉ những điệu hát giao duyên của người Tày. Cả
hai cách hiểu đều có lý, song có lẽ phổ biến hơn cả là cách gọi tên lượn theo
nghĩa hẹp, tức là bộ phận hát đối đáp giao duyên của người Tày. Theo cách
hiểu này, lượn gồm 3 loại: lượn Cọi, lượn Slương và lượn Nàng Hai. Nếu như
lượn Cọi và lượn Nàng Hai có địa bàn chính ở phía Tây vùng Việt Bắc thì
lượn Slương lưu hành ở địa bàn Lạng Sơn là chính. Khác với lượn Cọi là loại
lượn sử dụng vần lưng để kéo dài khổ thơ, lượn Slương chỉ dùng loại thất
ngôn tứ tuyệt. Vào cuộc lượn Slương, sau những bài hát mời của chủ bản, chỉ
có một đơi trai gái hát đối đáp với nhau, các bài hát được hát lên đều do nhớ
nhập tâm hoặc ứng khẩu chứ khơng phải có thầy dẫn như lượn Cọi.
Như vậy, lượn Slương là những bài hát giao duyên lưu hành ở một vài
địa phương nhất định, mang đặc điểm riêng về thể thơ và lối hát.
Hát lượn Slương có nhiều làn điệu, thường là thể thơ thất ngơn, song
cũng có khi là thơ tự do. Mỗi người cần phải có một “vốn” lượn lớn để sẵn
sàng ứng xử một cách “thơng dịng bén giọt” mới mong chiếm được cảm tình
người mình muốn làm quen. Nếu lúng túng không đối đáp được bằng câu hát,
sẽ bị chê là ít hiểu biết, vụng về.
1.1.2. Nguồn gốc của hát lượn
Trong cuốn “Sli Lượn dân ca trữ tình Tày Nùng”, một cơng trình nghiên
cứu văn học đan gian của tác giả Vi Hồng, đã đưa ra nhận xét về nguồn gốc
và ngữ nghĩa của từ “lượn”. Tác giả đưa ra nhiều giải thích khác nhau như:
Ý kiến của các cụ nho học: Có ý kiến cho rằng “lượn” là do từ “ln” và
giải thích “ln” có nghĩa là cái bánh xe đang lăn: “ làm lượn” thì phải có bên
lượn đi lượn lại, quay đi quay lại... Khơng khác gì cái bánh xe lăn hết vòng
này lại đến vòng khác. Nghĩa là đối đáp không dứt.
8
Ý kiến cắt nghĩa từ nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc Tày thì cho rằng: “
lượn” là do từ “lặn” mà ra. “Lặn” trong tiếng Tày có nghĩa là một vịng trịn
khép kín. “Lặn” là một vịng trịn hoặc là hai lượt đi về giữa hai địa điễm giữa
hai đầu nút. Và họ giải thích: “lượn” thì phải có “câu trai câu gái” nghĩa là
từng “lặn” từng lượt.
Giống với các quan điểm của nhiều đan tộc khác trên trái đất, người Tày
xưa kia cho rằng nguồn gốc của ca hát là do Trời, Phật, Thần thánh sinh ra...
“Pụt luông” là “Bụt lớn” và các bà “Tiên” ở trên trời cao tạo ra tiếng hát. “Bụt
lớn” sai con gái mình dạy cho lồi người biết “lượn” và làm “đàn tính. Hoặc
là do người xưa đã có cơng lên trời học tiếng hay, lời giỏi, điều giỏi để tạo
thành câu thơ tiếng “lượn”.
1.2. Thể loại Hát lượn Slươngcủa người Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao
Bằng
Có ba loại Lượn chính được người Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng
sử dụng phổ biến:
1.2.1. Lượn lề lối
Lượn lề lối hay lượn nghi thức còn được gọi là lượn trên “sân khấu nhà
sàn”. Khởi đầu của lượn lề lối là những bài lượn “phuối pác – phuối rọi” diễn
ra ở “sân khấu ngoài trời”. “Sân khấu ngoài trời” là sân khấu hoàn toàn tự do
và tự phát, diễn ra bất cứ ở đâu, vào hồn cảnh nào... Ở đó họ tự do hát lên
những tình cảm tự nhiên, bộc trực như họ muốn. Chính vì thế những câu
“phuối rọi” rất phong phú sinh động và tràn làn sức sống của tuổi trẻ.
Lượn chuyển từ “sân khấu ngoài trời” đến “sân khấu nhà sàn” là một
bước phát triển mới. Về mặt nội dung phong phú hơn nhiều, với nhiều đề tài
mới được nảy sinh và phát triển. Phương pháp diễn xướng từ tự phát đến tự
giác có lề lối, có tổ chức.
1.2.2.Lượn quan làng
9
Là làn điệu chuyên dùng hát trong đám cưới của người Tày. Xưa nay
đám cưới của người Tày thường được tổ chức long trọng và gồm nhiều nghi
thức, trong đó đón dâu và đưa dâu về nhà chồng là nghi lễ trung tâm của đám
cưới. Theo tập tục của người Tày về cưới xin, nhà trai phải cử một đoàn đi
đón dâu, do một người được gọi là “Quan làng” dẫn chú rể cùng phù rể tới
nhà gái để tiến hành hơn lễ chính thức của họ hàng nhà gái. Để đón được cơ
dâu về nhà trai, ơng “Quan làng” phải trải qua những bước “thử thách”,
đương đầu bằng tài trí của mình, dựa vào kho tàng phong phú được tích lũy
qua bao thế hệ thành những bài thơ và “lượn” đám cưới mà người Tày gọi là
“lượn quan làng”.
Toàn bộ “lượn quan làng” gồm hai nhóm bài: một nhóm là những bài của
nhà trai đi đón dâu; một nhóm là những bài của nhà gái đưa dâu về nhà
chồng. Những bài lượn này là những bài được sáng tác sẵn, theo thể thơ mà
các thế hệ ông quan làng đi trước để lại cho những người sau kế thừa.
1.2.3. Lượn slao báo – hát giao duyên
Trong kho tàng ca hát cổ truyền dân gian của người Tày, bộ phận
“lượn slao báo” hát giao duyên chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống
văn hóa nói chung và trong sinh hoạt âm nhạc nói riêng. Nó phản ánh tư
tưởng, tình cảm ước mơ và nguyện vọng của con người lao động miền núi,
phản ánh cả các sinh hoạt kinh tế xã hội của người Tày.
“Lượn slao báo” tuy chủ yếu là của tầng lớp thanh niên nhưng nó bao
hàm một sinh hoạt thật sự quần chúng rộng rãi, làm say mê tuổi trẻ nhưng
cũng lôi cuốn đối với tầng lớp người trung niên. Cũng vì lẽ đó mà khơng lấy
gì làm lạ nếu có người đã có chồng, có vợ vẫn tham gia “lượn”.
Ngồi những hình thức hát giao dun trực tiếp cịn có một hình thức
giao dun gián tiếp nữa là gửi “phong slư” cho nhau. “Phong slư” là những
bức thư viết bằng thơ về tình yêu của lúa tuổi hoa niên. Khi hai người nam nữ
10
gặp nhau qua Hát lượn Slươngvà trị chuyện thì lúc họ ở xa nhau sẽ gửi cho
nhau những bức phong slư” để bày tỏ tình cảm của mình.
1.3 Người Tày ở huyện Trùng Khánh – Cao Bằng
1.3.1 Đặc điểm địa lý – dân cư
Trùng Khánh là một huyện phía đơng bắc của tỉnh Cao Bằng. Huyện lỵ
là thị trấn Trùng Khánh, cách thị xã Cao Bằng 62 km theo tỉnh lộ 206. Huyện
có cửa khẩu quốc gia với Trung Quốc, là cửa khẩu Pị Peo, thuộc xã Ngọc
Cơn, và các đường tiểu ngạch khác.
Núi đồi chiếm 2/3 diện tích tồn huyện bao gồm núi đá và núi đất. Độ
cao trung bình 300m so với mặt nước biển tạo nên địa hình khá hiểm trở và có
nhiều hang sâu.
Điều kiện tự nhiên của Trùng Khánh khá thuận lợi: khí hậu nhiệt đới gió
mùa, lượng mưa trung bình 1400mm/năm; có tổng diện tích (ha): 46.648,71
trong đó diện tích đất nơng nghiệp hơn 6.900 ha, đất Lâm nghiệp: 35.874,25
ha, đất chưa khai thác: 2.279,21 ha đã tạo cho tồn huyện có điều kiện phát
triển một nền sản xuất nông lâm nghiệp phong phú đa dạng với nhiều loại
giống cây sinh trưởng và phát triển tốt có giá trị hàng hóa cao trong đó có một
số sản phẩm như ngơ, đậu tương, mía đường...
Do đặc điểm về địa hình cao, dốc nên diện tích đất trồng lúa nước ít, và
chủ yếu là các con sơng, suối nhỏ nên ít được bồi đắp phù sa thường xuyên.
Tuy nhiên với hệ thống sông, suối đã cung cấp cá, tôm, tép cho con người.
Người dân ở đây đã biết lợi dụng sức nước để lam những cọn nước, guồng
nước để đưa nước về đến ruộng.
Động – thực vật. Trước đây rất phông phú và đa đạng do có những ngọn
núi cao và những khu rừng cổ thụ xanh tốt, với nhiều thứ gỗ quý hiếm như
nghiến, lim, lát, chò chỉ... mọc tự nhiên trên các núi đá nên có nhiều loại động
vật cư trú như gấu, hổ, hươu, nai, lợn rừng, khỉ... Nhưng cho đến nay, nhu cầu
11
của cuộc sống đòi hỏi ngày càng cao về kinh tế và do hồn cảnh gặp nhiều
khó khăn, nhiều người dân không ý thức được việc bảo vệ rừng và các loài
thú quý hiếm nên bất chấp sự ngăn cấm của chính quyền đã tìm mọi cách để
chạt phá rừng và săn bẫy thú quý để đem bán... nên giờ đây các loại động thực
vật quý ở Trùng Khánh còn rất ít.
Trùng Khánh với dân số là 27.000 người gồm nhiều tộc người sinh sống
nhưng chủ yếu là người Nùng(53,44)% và Tày (45,28)% mật độ dân số
khoảng 57 người/km2. Người Tày ở huyện Trùng Khánh từ xa xưa thường cư
trú tập trung thành từng làng bản ven các chân đồi, thung lũng, giữa các khe
núi gần với nước, ruộng, nương rẫy. Mỗi chịm xóm có năm bảy nóc nhà cũng
có chỗ chỉ có một đến hai nóc nhà. Tên làng của người Tày không phụ thuộc
vào lịch sử mà thường lấy tên đồi, núi, khe suối, cánh đồng...hay một vật thể
dân gian nào đó để đặt như Nà Quản, Nà Vị...(nà: theo tiếng Tày có nghĩa là
ruộng) hoặc Lũng Đa, Lũng Rúm, Lũng Mán...(lũng: nghĩa là khe núi). Một
làng thường không năm gọn trong một khu vực nhất định nên có quy ước để
nhận biết: xóm trên, xóm dưới, xóm ngồi, xóm trong hoặc làng trong, làng
ngồi.
1.3.2. Đặc điểm kinh tế
● Nơng nghiệp
Người Tày ở Trùng Khánh trước đây có truyền thống làm ruộng nương
do chưa biết áp dụng khoa học kĩ thuật và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là
chính nên đời sống cịn gặp nhiều khó khăn. Từ sau năm 1986, nhờ áp dụng
khoa học kỹ thuật và có phương thức canh tác hợp lí nên bây giờ chủ yếu là
làm ruộng nước với các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đáp
phai, làm cọn nước để lấy nước tới ruộng đã làm cho sản lượng thóc thu được
tăng lên và diện tích canh tác được mở rộng.
12
Ngồi trồng lúa nước thì lúa nương vẫn cịn được trồng nhưng khơng
phổ biến, bên cạnh đó cịn trồng thêm hoa màu. Ở những nơi có đủ nước thì
được cấy hai vụ lúa mùa và đơng xn cịn những đám ruộng cạn thì đồng bào
tranh thủ trồng ngơ xn. Sau khi gặt xong vụ lúa mùa thì lại tiếp tục cấy vụ
thứ hai và khi thu hoạch vụ hai thì họ lại trồng tiếp vụ hoa màu như khoai tây
và các loại rau phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày và đem ra chợ bán. Ngồi ra
họ cịn trịng xen canh gối vụ trên các loại đất. Xen canh với ngơ ở trên nương
có các loại đậu nhất là đậu tương. Khi thu hoạch ngô xong họ thường trồng
khoai lang.
Hiện nay, người Tày Trùng Khánh áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản
xuất, dùng máy bừa thay trâu bò, lao động được phân cơng hợp lí nên sản
xuất phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
● Chăn nuôi
Người Tày Trùng Khánh chủ yếu chăn nuôi các loại gia cầm như gà, vịt,
lợn, ngan, ngỗng... Còn gia súc ni chỉ dùng để lấy sức kéo và phân bón chú
không nuôi thành đàn để tăng gia và chăn nuôi chun nghiệp. Mỗi gia đình
thường có 2 – 3 con trâu hoặc bò nhiều nhất là 9 – 10 con. Bên cạnh đó có gia
đình cịn ni thêm cá kết hợp với trồng cây ăn quả và nuôi thêm gia cầm làm
thành mô hinh VAC cho hiệu quả kinh tế cao.
● Thủ cơng nghiệp
Do cuộc sống mang tính tự cấp, tự túc nên các nghề thủ cơng của gia
đình được chú ý, họ tự đan đồ dùng như cót bồ, dậu, rổ, ghế mây, ghế trúc, tự
nuôi tằm dể lấy sợi và tự dệt vải và nhuộm chàm... hầu hết các gia đình đều có
khung cửi nên phần lớn các gia đình có thể tự túc được các loại vải làm chăn
màn, quần áo, khăn mặt. Ngồi ra, họ cịn dệt thổ cẩm với nhiều hoa văn rất
đẹp và đang được coi là mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở nhiều địa phương.
13
Nhu cầu trao đổi hàng hóa phát triển nên ở làng, xã đã hình thành chợ cứ
5 ngày họp chợ một lần dể người dân có thể trao đổi, mua bán các mặt hàng
do chính họ sản xuất với nhau và với các địa phương khác.
1.3.3 Nhà ở
Nhà ở của người Tày có hai loại hình cơ bản: nhà sàn và nhà đất. Ngồi
ra cịn có nhà nửa sàn nửa đất.
Nhà ở truyền thống của người Tày là nhà sàn làm theo kiểu vì kèo, cột
bằng gỗ, mái được lợp bằng lá tranh hay ngói ta và được chia thành ba đến
năm gian. Xung quanh nhà dùng ván hay những liếp cây mai hay cây nứa để
bao quanh. Nhà sàn chủ yếu là nhà hai mái, được dựng với thiết kế hợp lý. Từ
sàn, gác, mặt sàn cho đến gầm sàn đều được sử dụng trong sinh hoạt và sản
xuất. Trong nhà, gác có thể làm ở tất cả các gian (trừ gian bàn thờ) dùng để
đặt bồ đựng các sản phẩm trồng trọt như thóc, khoai, sắn...và các dụng cụ dệt
vải... Gầm sàn là nới có thể nhốt gia súc hay để các nông cụ như cày, bừa, cối
xay...
Hiện nay, người Tày ở Trùng Khánh cũng ở nhà đất đồng thời có nhiều
thay đổi so với nhà sàn truyền thống: nhỏ về quy mô, đơn giản về kết cấu bộ
sườn, bố cục trong nhà cũng khác, kỹ thuật làm mái, dựng vì kèo hầu hết là
đục lỗ mộng tạo lỗ khí làm tường, được xây bằng gạch hay đá. Trong nhà
ngăn thành từng phòng riêng cho nam, nữ.
● Nhà mới
Người Tày cho rằng, việc làm nhà mới hết sức quan trọng trong đời sống
một con người. Khi làm nhà phải chọn đất, chọn hướng, xem tuổi, chọn ngày.
Ngày vào nhà mới cũng là ngày họ dọn về nhà mới ở. Họ mời thầy cúng về để
làm các nghi lễ vào nhà mới, trước tiên dọn một số đồ vật như bát hương để
rước tổ tiên về trông nhà và bảo vệ cho gia đình cũng như gia súc, gia cầm
khỏi ma quỷ và sinh sơi nảy nở tiếp đó là lấy thêm giá bếp, gánh nước, bình
14
vơi...họ chất một đóng củi ở giữa bếp mới rồi mời những người già của họ
hàng có tư cách đạo đức tốt, làm ăn giỏi, đông con cái mỗi người cầm một bó
đuốc đi từ bốn góc nhà ra châm vào đống lửa sau đó giữ cho lửa khơng được
tắt làm như vậy họ mong sẽ làm ăn được dễ dàng, thuận lợi và gặp nhiều may
mắn.
1.3.4 Phong tục tập quán
● Ẩm thực
Gạo tẻ là thức ăn chủ yếu trong bữa ăn hàng ngày, gạo nếp trước đây chỉ
dùng vào dịp lễ tết, hội hè, tiếp khách còn bây giờ ngồi dùng cho các việ
chính ra gạo nếp cũng được dùng trong các bữa ăn hàng ngày được chế biến
thành các loại bánh, đồ xơi, làm rượu...ngồi gạo tẻ và gạo nếp cịn có thêm
ngơ, khoai, sắn cũng được dùng để luộc ăn kèm.
Người Tày ăn hai bữa chính là bữa trưa và bữa tối, một bữa phụ vào buổi
sáng. Thực phẩm dành cho bữa ăn là rau, măng, đậu là chủ yếu. Ngồi ra con
có thịt, cá, cua, ốc...
Những ngày lễ tết, ngồi các thứ bánh cịn có thịt gà, lợn, vịt, cá rán là
những món ăn được chấ biến đặc biệt. Gạo tẻ được xay thành bột để làm bánh
đúc, bánh đa... Những món ăn truyền thống được chế biến từ gạo nếp lại càng
phong phú hơn như thóc nếp cịn non được cát về làm cốm hay gạo nếp được
đồ lên để làm xôi ngũ sắc với các màu đỏ, xanh, tím,vàng, đen, Nếp được làm
để gói bánh chưng, bánh dày, bánh khảo, bánh tép... ngoài ra còn làm bánh
trứng kiến, cơm lam.
Mọi thành viên trong gia đình đều ăn chung một mâm, khơng phân biệt
trai, gái, dâu, rể, nội, ngoại, chỉ phân biệt chủ với khách. Khách được ưu đãi
hơn, người già, trẻ con được ưu tiên khẩu phần thức ăn ngon hơn. Trong bữa
cơm khi có khách ăn cùng cịn có thêm rượu để uống để bày tỏ lòng mến
15
khách. Rượu được dùng chủ yếu trong các đám cưới, đám tang và trong dịp
tết
● Chợ
Chợ phiên của người Tày ngồi mục đích là nơi trao đổi mua bán cṇ
mang nhiều ư nghĩa khác. Người dân ngày ngày lên nương rẫy, ra đồng ruộng
nên mong đến chợ phiên để được đi chợ gặp mặt anh chị em và những người
thân quen... hay có “việc nhà việc cửa” nhắn gửi lời cho người thân ở những
bản khác biết, nhất là việc “ra thiếp báo cưới” do đường đi lại còn nhiều khó
khăn, phương tiện đi lại cịn nghèo nàn nên mỗi khi đến chợ phiên họ thường
hay rủ nhau đi chợ vì thế mà phiên chợ của người Tày rất đơng người. Do có
nhiều người từ tất cả các xã đến nên các mặt hàng trao đổi mua bán cũng khá
đa dạng để mọi người có thể trao đổi với nhau.
● Cưới xin
Trước đây, việc cưới xin là việc của bố mẹ, con cái khơng được tự do tìm
hiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy và phải nghe lời gia đình. Nếu có chuyện gì
mà khơng thơng qua họ hàng, làng xóm biết như: khơng có chồng mà mang
thai thì sẽ bị mọi người khinh bỉ và hắt hủi. Nhưng bây giờ, con cái có thể tự
do tìm hiểu với nhau, cha mẹ cũng không bắt ép con cái phải làm theo ý mình
mà cha mẹ sẽ là người định hướng giúp cho con cái có thể tìm hiểu và lựa
chon được một người ban đời tốt và phù hợp với mình. Trong thủ tục cưới xin
cuả người Tày phải trải qua các bước: tìm hiểu lá số xem họ có hợp nhau hay
khơng, tiếp đến là lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới. Sau khi cưới, trước đây cô
dâu chưa về ở bên nhà chồng mà ở nhà bố mẹ đẻ cho tới khi có mang sắp tới
ngày sinh nở hay ít nhất phải một năm sau ngày cưới thì mới về nhà chồng.
Cịn bây giờ thì cách nhìn nhận và suy nghĩ của mọi người khơng khắt khe
như trước nên cũng có người cưới xong thì về ở nhà chồng ln hay sau vài
tháng thì mới về.
16
● Sinh đẻ
Người Tày quan niệm vạn vật hữu linh, họ cho rằng mọi vật xung quanh
đều có thể tác động có lợi hay có hại cho con người nhất là những đứa trẻ mới
sinh. Vì vậy, khi đầy tháng họ mời thầy mo, then đến làm lễ đặt bàn thờ mụ,
lễ đặt tên và lam các nghi lễ khác để khơng cho ma quỷ có thể nhập vào đứa
trẻ được. Sau các nghi lễ đó, họ sẽ mời một người có đạo đức phẩm chất tốt,
có trình độ học vấn cao đến để làm lễ đi học cho đứa trẻ cầu mong rằng đứa
trẻ khi lớn lên đi học sẽ giỏi giang và đạt được kết quả tốt mà cha mẹ và họ
hàng mong muốn.
● Ma chay
Người Tày cũng như nhiều dân tộc khác đều quan niệm rằng, linh hồn
người chết khi sang thế giới bên kia họ vẫn sinh hoạt và có những nhu cầu
như người sống. Bởi thế, trước khi chôn cất người chết,họ phải lo thật chu
đáo với rất nhiều nghi lễ, phong tục. Quá trình thực hiện các nghi lễ thủ tục
trong đám tang nhất thiết phải do ơng thầy tào đảm nhiệm.
1.2.5. Tín ngưỡng tơn giáo
Người Tày hầu như khơng có một tơn giáo nào chiếm vị trí cao nhất,
khơng có một vị thần chúa tể nào. Tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng của người
Tày là tục thờ cúng tổ tiên. Trước hết, họ thờ thần gia đình là chính. Bên cạnh
đó, họ cũng thờ các thần khác như: thổ công, thổ địa và các vị thánh (gọi là
slấn), thờ thần sông, thần núi, thần cây... và tiến hành các tín ngưỡng liên
quan đến nông nghiệp.
Người Tày cũng tin vào ma quỷ gọi là “phi” theo tiếng Việt nghĩa là
“ma”. Họ cho rằng mọi người chết đi đều thành “phi” nhưng có sự phân biệt
giữa “phi” thiện và “phi” ác. Cho nên người Tày phải thờ cúng cả hai loại
“phi” này để được bình yên.
17
Với người Tày tổ tiên được thờ cúng trong từng căn nhà khơng phân biệt
gia đình đó thuộc dịng họ trưởng hay thứ. Sau khi bố mẹ qua đời, vong linh
được rước về thờ tại mỗi gia đình. Bàn thờ được đặt tại nơi trang trọng nhất
và được trang trí cẩn thận. Mỗi tháng hai lần vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch
chủ nhà thắp hương và đồ cúng lên bàn thờ.
Mỗi khi gia đình có việc như làm nhà mới, sinh đẻ, đám cưới hoặc đám
tang thì phải cúng bái và mời tổ tiên về chứng giám.
18
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM CỦA HÁT LƯỢN SLƯƠNG CỦA NGƯỜI TÀY
Ở HUYỆN TRÙNG KHÁNH– CAO BẰNG
2.1 Lời ca Hát Lượn Slương
2.1.1. Cách thức tổ chức
Cuộc lượn được tiến hành bao giờ cũng là một cuộc hát đối đáp giữa
một nhóm nam với một nhóm nữ, mỗi nhóm ít nhất là từ hai người trở lên.
Tốp nữ của nơi này hát đối đáp với tốp nam của nơi khác và ngược lại. Ở đây
tuy là hát tập thể nhưng không phải là hát đồng ca. Có những trường hợp bên
nam, bên nữ mỗi bên có gần chục người, lúc này mỗi bên có thể chia ra thành
nhóm nhỏ. Khi hát mỗi bên chỉ cần một số người hát không nhất thiết tất cả
mọi người phải lên tiếng. Hơn nữa, không phải tất cả mọi người trong nhóm
đều thuộc lịng các bài “lượn” phải dựa vào nhau mà đối đáp. Nhất là phải
lượn những câu ứng đối tại chỗ cần phải sáng tác kịp thời. Chẳng hạn như:
Nữ hỏi:
Cây gì trong trắng ngồi xanh
Cái gì sáng tỏ mặt anh, mặt nàng
Nam đáp:
Cây tre trong trắng ngoài xanh
Cái gương sáng tỏ mặt anh, mặt nàng
Tiến hành các cuộc “lượn” thường tuân theo một lề lối, có trình tự, có
mở đầu và có kết thúc, chia thành giai đoạn, mỗi giai đoạn có nội dung mục
đích riêng. Những bài có sẵn trong sách vở phải thuộc lịng, có giai đoạn phải
hát đối đáp, ứng phó theo hồn cảnh. Vì thế, để có được cuộc “lượn” thành
cơng thì địi hỏi cả hai bên nam và nữ mỗi người phải có sự tìm hiểu và sưu
tầm các bài Hát lượn Slươnghay có những câu đối khó để mà hát đối đáp với
19
nhau. Như vậy thì cuộc lượn sẽ càng trở nên hấp dẫn và thu hút được nhiều
người xem và được đánh giá cao, khẳng định sự hiểu biết của mình.
2.1.2. Nội dung cuộc lượn
● Lượn lề lối
Nghi thức tổ chức lượn lề lối có thể được chia thành 5 giai đoạn trong
một cuộc lượn:
-
Giai đoạn I:
Lượn “ mời nài” - “nghênh đón”. Giai đoạn này chủ yếu thuộc về phần chủ là người ở bản sở tại, không kể con trai hay con gái. Khi được tin có khách từ
phương xa đến, thanh niên đến liên hệ với chủ gia đình để được phép hát
lượn. Cũng khơng hiếm khi có khách, chủ nhà đi mời thanh niên trong bản
đến Hát lượn Slươngđể gia đình, làng xóm thêm vui vẻ. Dẫu cho đã có sự
thỏa thuận và được sự đồng ý của gia đình, trước khi mời khách hát thanh
niên trong bản vẫn hát xin phép gia chủ:
Cất tiếng xin thưa với chủ nhà,
Có phải về đây khách từ xa ?
Sĩ tử xin trình được hội ngộ,
Mời khách viễn phương cùng lượn ca !
Nếu được sự tán đồng của gia chủ và các bậc già cả trong thơn xóm thì
cuộc Hát lượn Slươngsẽ bắt đầu. Một buổi hội về Hát lượn Slươngbao giờ
cũng có lề lối của nó, lúc đầu là xin phép gia chủ, rồi "lượn nài" là những bài
hát lên để mời khách hát lượn. Sau khi khách đã đáp lời thì Khách và chủ hát
đi hát lại sau khi đã hỏi và làm quen xong thì lượn chuyển sang giai đoạn
khác, giai đoạn lượn mừng.
-
Giai đoạn II:
Giai đoạn khách lượn mừng người và quê chủ. Cuộc lượn hát được tiếp
tục bằng những bài chúc mừng nhau, thăm quê qn của khách; cịn khách thì
20
hát những bài mừng thăm gia chủ, bà con trong bản mường, ca ngợi cảnh vật
thiên nhiên của xứ sở mà họ đến trú ngụ. Sau đó người ta hát những bài gọi là
"lượn trầu", tức những bài mời nhau ăn trầu, hút thuốc, tiếp theo là những bài
"lượn cam, lượn kẻ" (lượn đố, lượn giải đáp), trong đó có thể có những đố
chữ (chữ nho). Sau những bài hát ấy, thường là những bài "tứ quý canh
nông", những bài giáo nam giáo nữ, những bài về sinh hoạt văn hoá, xã hội...
Chẳng hạn như khách lượn mừng:
Quê bạn đồng sáng sủa mênh mông
Xung quanh xếp núi rồng núi phượng
Ấm áp đồng bốn hương sứ vị
Lúa ăm ắp – tứ thì đủ nước
Bơng lau nhỏ hơn bơng nếp đồng người
Một bông tẻ đủ nuôi khách trọng...
Tôi là người khác xã xin mừng
Là người biệt phương xin chúc.
Chủ đáp lại bằng những lời khiêm tốn:
Giả ơn bạn khác xã khác phương
Bạn đi qua đầu mường, cuối bản
Đồng hẹp thêm thiếu chốn nghỉ ngơi
Đồng tơi những cau khơ thóc lép
Khơng xứng với lời bạn đẹp mừng
Ơn bạn cho câu thương câu quý.
Khách cứ mừng mọi thứ, mọi vật... Chủ thì lần lượt đáp lại một cách
khiêm tốn, nhún nhường. Về thời gian thig giai đoạn này kéo dài bao lâu cũng
được.
- Giai đoạn III:
21
“Lượn séc” – lượn sách sử. Giai đoạn này cả hai bên tỏ rõ cho nhau biết
về tài năng hiểu biết của mình về sách sử, về vạn vật, về con người. Họ
thường lượn những câu chuyện về các nhân vật lịch sử của dân tộc cũng như
của các dân tộc anh em, những thiên tình ca như: Lương Sơn Bá - Chúc Anh
Đài, Tống Trân - Cúc Hoa...
-
Giai đoạn IV: Lượn xe kết
Sau khi đã làm quen, rồi lượn mừng, lượn sử tương đối lâu và đây là lúc
mà bên nữ dù là khách hay chủ sẽ chủ động ngỏ lời kết bạn, tỏ tình...
Nữ: Em đây định bắc cầu sang
Sợ rằng con rắn nằm ngang giữa đường
Nếu anh cịn có lịng thương
Mong anh hãy mở con đường em qua.
Nam: Bây giờ Mận mới hỏi Đào
Vườn Đào đã có ai vào hay chưa?
Nữ: Mận hỏi thì Đào xin thưa
Vườn Đào đã có nhưng chưa ai vào.
- Giai đoạn V: Lượn tạm biệt
Đây là những bài lượn cuối cùng của một cuộc lượn. Trước khi tạm biệt
nhau về nhà bản của mình, họ lượn những bài hứa hẹn lại gặp nhau thề
nguyền chung thủy... Họ ước con đường ngắn lại, nhà gần nhau, họ mong san
núi xuống thấp, muốn quạt mây trời quang đãng để ln được nhìn thấy nhau
mãi mãi. Ví như câu hát:
Gà gáy dạo chơi ta kết giao
Trông lên trời thẳm sáng đầy sao.
Trăng lên sáng trời trăng phải lặn
Giờ này đôi ta biết làm sao ?
Hay:
22
Đôi lời nhắn bạn, ta về quê,
Vườn đào chốn đây ta phải lìa,
Nhạn nhắn én, nhạn bay về chốn,
Hẹn mùa hoa thắm bướm trở về !
Lượn quan làng:
Cuộc “lượn quan làng” được diễn ra dưới hình thức đối đáp giữa ông
“quan làng” đại diện ho nhà trai với đại diện cho nhà gái, thường là một phụ
nữ tiếng Tày gọi là “mẻ than”.
Thử thách đầu tiên với ông “Quan làng” là khi đến nhà gái thì đồn nhà
trai bị chặn lối đi. Đại diện cho nhà gái cất tiếng:
Khách đâu xa đến
Người canh đường hãy đếm
Phép lịch sự tất thảy
Việc chi nói ngay
Cho chúng tơi biết lẽ
Kể rõ ngun do
Tơi mở cửa cho
Ông “quan làng” phải diễn xướng đáp lại rằng:
Thưa cùng người ở cạnh đường
Hôm nay ngày lành tháng tốt
Tôi đến yết kiến tổ tiên
Các bạn chớ làm phiền quá đáng
Ơn người hãy rộng lượng đôi bên
Để con rể vào bái tổ tiên.
Khi được nhà gái cho phép mời vào nhà.Nhưng khi vào trong nhà để nghỉ
chân thì những người ở trong nhà lại giải chiếu mặt trái lên trên. Ông “Quan
23
làng” phải hát bài “Giải chiếu” để xác định lại với nhà gái rằng mọi sự vật đều
có trật tự nhất định của nó. Giải chiếu trái là điều ngược đời.
Thơi rầư hắn sliêu rườn thao thất
Thơi rầư hăn kiém phục piái rải
Cạ slao ón piái thẻo hẩư đây...
Dịch:
Có đời nào thấy cột nhà lộn ngược
Có đời nào thấy chiếu giải trái
Mong các em gái giải lại cho ngay.
Chiếu được giải lại ngay ngắn ông “Quan làng” chưa ngồi được bao lâu
lại phải đứng lên “lượn” bài “kính cha mẹ” họ hàng nhà gái, tha thiết cầu
mong cha mẹ họ hàng nhà gái bỏ qua cho những vụng về, khiếm khuyết của
nhà trai và cả bản thân “Quan làng” để rồi tiến hành thủ tục cho chú rể trình
tổ tiên, mời rượu họ hàng nhà gái. Khi làm lễ xong, trong lúc nghỉ ngơi “quan
làng” còn hát những bài khác thường là bày tỏ ý khiêm tốn, lễ phép kèm theo
chút hài hước làm cho đám cưới rất vui vẻ đầy ắp tiếng cười.
Khi đến giờ xuất giá thì ơng “quan làng” sẽ lượn các bài nói đến cơng ơn
ni dưỡng của cha mẹ cô dâu đã nuôi con thành người, cảm ơn gia đình, họ
hàng nhà gái đã đồng ý gả con gái cho và thay mặt cho chú rể và gia đình, họ
hàng nhà trai hứa sẽ yêu thương như cha mẹ cô dâu. Coi cô dâu như là lộc trời
ban cho, lấy được người vợ tốt về làm rạng rỡ cho cả gia đình, họ hàng nhà
trai:
Slặp lùa mừa rườn họ hàng khói đẩy xồm
Slặp lùa mừa rườn họ hàng khói chăn đây.
Dịch:
Đón dâu về nhà họ hàng chúng tơi được xem mặt
Đón dâu về nhà họ hàng chúng tôi thật vui mừng.
Không phải tại cuộc hôn lễ nào “quan làng” cũng phải lượn đúng như
những bài trên. Có cuộ hơn lễ nhà gái đặt ra những thử thách khác nhau
24
khơng nằm trong những bài có sẵn mà “quan làng” đã thuộc, nên “quan làng”
phải linh hoạt mà sáng tác kịp thời, ứng khẩu ngay tức thì.
2.1.3. Lời ca
Lượn slao báo – hát giao duyên hay còn gọi là lượn slương
Lượn slương có thể là căn cứ để xem xét một cuộc hát giao duyên theo
tục lệ cổ truyền của người Tày. Lượn slương chỉ dùng loại thất ngôn tứ tuyệt
vào cuộc lượn, sau những bài mời của chủ bản, khi vào cuộc, chỉ có một đơi
trai gái hát đối đáp với nhau, các bài hát đều hoặc nhập tâm, hoặc ứng khẩu
chứ khơng phải có thầy dẫn như lượn cọi. Lượn slương thường được tổ chức
vào ngày hội Lồng Tồng mùa xuân, hay vào những đêm trăng sáng trong dịp
nông nhàn. Theo những tài liệu sưu tầm được, sơ bộ có thể chia lượn slương
thành 3 phần: Lượn đi đường, lượn sử và lượn chúc mừng. Trong đó phần
lượn chúc mừng không phải là hát giao duyên, chỉ là lời cảm tạ của người
lượn đối với gia chủ nên nó có tính chất gắn kết khá lỏng lẻo với cuộc lượn.
Phần lượn sử với một thời gian khá lớn dành cho việc lượn về các truyện cổ
dân gian của người Tày và các tích truyện có nguồn gốc Trung Quốc thể hiện
chiều sâu của cuộc lượn slương khi tình cảm của người hát đã hết sức sâu
nặng. Nhưng chính vì tính chất và nội dung của nó, lượn sử khơng có sức thu
hút mạnh đối với người nghe. Cịn phần lượn đi đường là phần chứa đựng
nhiều tình huống bất ngờ nhất. Về mặt hình thức, đó là phút ban đầu thăm dị,
tìm hiểu, làm quen, dỗi hờn, trách móc. Về mặt nội dung, tình cảm được diễn
tả ở đây từ nỗi nhớ thương kín đáo, e ấp đến sâu sắc, mạnh bạo. Phần này rất
được người nghe yêu thích và đây chính là phần trọng tâm của một cuộc lượn
slương. Khơng có một cuộc lượn slương nào thiếu phần này dù cho hai phần
kia có thể khơng lượn đến.
Đúng như tên gọi, lượn slương (nghĩa là lượn thương) nổi bật lên mục
đích bộc bạch niềm thương nhớ nhuốm màu đau thương. Đó là nỗi buồn, nỗi
25