ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
Ở TAM KỲ GIAI ĐOẠN 1954 - 1965
Sinh viên thực hiện : Bùi Thị Thanh Thúy
Chuyên ngành
Lớp
GV hướng dẫn
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2020
: Sư phạm Lịch sử
: 16SLS
: TS. Trương Anh Thuận
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thiện được đề tài khóa luận này em xin chân thành cảm ơn quý
thầy cô trong khoa Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Đà Nẵng đã tạo điều kiện hết
mức, đồng thời có những góp ý về đề cương để em có thể hồn thành khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn Uỷ ban nhân dân huyện Phú Ninh, cùng Cơ quan quân
sự huyện Phú Ninh và Cơ quan quân sự thành phố Tam Kỳ đã cung cấp những nguồn
tài liệu cần thiết để em có thể hồn thành nội dung khóa luận.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ Trương
Anh Thuận, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2020
Tác giả
Bùi Thị Thanh Thúy
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.............................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................4
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................4
4.1. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ..............................................................4
5.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................5
6. Đóng góp của đề tài ..............................................................................................5
7. Bố cục đề tài .............................................................................................................5
NỘI DUNG......................................................................................................................6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT TAM KỲ VÀ TIỀN ĐỀ CỦA ...................6
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở TAM KỲ (1954-1965) ........................6
1.1. Giới thiệu khái quát về vùng đất Tam Kỳ .............................................................6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên...........................................................................................6
1.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội .................................................................................7
1.1.3. Cư dân, văn hóa ............................................................................................10
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Tam Kỳ ......................................12
1.3. Tiền đề hình thành phong trào đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ (1954-1965) .......14
1.3.1. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Tam Kỳ ..........................14
1.3.2. Âm mưu và thủ đoạn của địch đối với phong trào cách mạng Tam Kỳ giai
đoạn 1954–1965 ......................................................................................................19
1.3.3. Sự chỉ đạo của Đảng về đấu tranh chính trị ở địa bàn Tam Kỳ (1954-1965)
................................................................................................................................26
Chương 2: ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ CỦA QUÂN VÀ DÂN TAM KỲ (19541965) ..............................................................................................................................31
2.1. Đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơnever .........................................................31
2.2. Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ..........................................................................35
2.3.Đấu tranh phá ấp chiến lược ................................................................................37
2.4. Đấu tranh chống bầu cử Ngô Đình Diệm ...........................................................38
2.5. Đấu tranh địi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo và chống các chính quyền
độc tài (1963-1964) ....................................................................................................39
2.6. Đấu tranh chính trị trong đồng khởi ở vùng nơng thơn và đồng bằng(1964-1965)
....................................................................................................................................41
Chương 3: TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA PHONGTRÀO
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ CỦA QUÂN VÀ DÂN TAM KỲ (1954-1965) ..............44
3.1. Tính chất của phong trào đấu tranh chính trị trên địa bàn Tam Kỳ .......................44
3.2. Đặc điểm của phong trào đấu tranh chính trị trên địa bàn Tam Kỳ(1954-1965) 46
3.3. Ý nghĩa của phong trào đấu tranh chính trị trên địa bàn Tam Kỳ (1954-1965) 50
KẾT LUẬN ...................................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................57
PHỤ LỤC ......................................................................................................................59
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, một trong nhữngnhân tố góp phần quan trọng
làm nên thắng lợi đó chính là Đảng ta đã phát huy tối đa sức mạnh đấu tranh chính trị.
Trên thực tế, đấu tranh chính trị trong cách mạng miền Nam từ năm 1954-1975 có sự
tham gia đơng đảo của các tầng lớp quần chúng nhân dân như công nhân, nông dân,
sinh viên, học sinh, trí thức, tín đồ tơn giáo, tiểu thương, tư sản dân tộc…, diễn ra dưới
nhiều hình thức như mít tinh, biểu tình, tuyệt thực, bãi khóa, đình cơng, bãi thị, tự
thiêu…,với tính chất hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp, nhằm chống lại các
chính sách thực dân mới của Mỹ và chính quyền Sài Gịn.
Trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc, đấu tranh chính trị đã hình
thành nên một đội qn chính trị hùng hậu làm lực lượng nịng cốt cho các cuộc đấu
tranh giành dân, giữ đất, nổi dậy giành quyền làm chủ, hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh
quân sự và làm chỗ dựa cho các lực lượng vũ trang tiêu hao tiêu diệt sinh lực đối
phương. Đấu tranh chính trị đã gây cho chính quyền Sài Gịn nhiều khó khăn trong
việc áp đặt chính sách cai trị trên tồn miền Nam. Đồng thời đấu tranh chính trị cũng
trở thành một nét độc đáo trong nghệ thuật chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Do bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội của từng địa phương ở
miền Nam mà đấu tranh chính trị diễn ra phong phú, đa dạng với nhiều hình thức và
cấp độ khác nhau. Đấu tranh chính trị của nhân dân Tam Kỳ đã thể hiện rõ điều đó.
Nằm trên địa phận tỉnh Quảng Nam, Tam kỳ là vùng đất có lịch sử lâu đời trước
thế kỷ XV vốn là vùng đất Chiêm Động của Champa, sau chiến thắng của vua Hồ Hán
Thương (1402) thì trở thành vùng đất thuộc Châu Hoa thuộc lãnh thổ Đại Việt. Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, Tam Kỳ trở thành đơn vị hành chính huyện. Thời kỳ
tạm chiến Mỹ-Chính quyền Sài Gịn, chúng chia Tam Kỳ thành ba đơn vị hành chính:
quận Tam Kỳ, quận Lí Tín và xã Châu Thành, sau thành thị xãTam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh
Quảng Tín. Cũng như trên chiến trường toàn miền Nam, tại chiến trường Quảng NamĐà Nẵng nói chung và Tam Kỳ nói riêng, phương châm đấu tranh chính là kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược bằng
ba mũi giáp công. Với chủ trương “Công- nơng- binh- trí”liên hiệp, đấu tranh chính trị
trên địa bàn diễn ra khá sơi nổi và đã góp phần khơng nhỏ vào thắng lợi của cách mạng
miền Nam nói chung và của Tam Kỳ nói riêng.
Tuy nhiên, đấu tranh chính trị trên địa bàn Tam Kỳ vẫn chưa được nghiên cứu
một cách có hệ thống và hồn chỉnh, các cơng trình nghiên cứu có liên quan được cơng
bố chưa nhiều. Vì vậy việc nghiên cứu phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân
Tam Kỳ trong giai đoạn từ 1954 đến 1965 là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng về
thực tiễn và khoa học.
1
Chính vì những lí do trên, tác giả quyết định chọn vấn đề “Phong trào đấu tranh
chính trị ở Tam Kỳ giai đoạn 1954 đến 1965” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đấu tranh chính trị cũng như vai trị của hình thức đấu tranh này là một vấn đề
thường xuyên được nhắc đến trong các cơng trình nghiên cứu về cách mạng Việt Nam
nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Cơng trình “Lịch sửĐảng Cộng sản Việt Nam”do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội ấn hành năm 1995 đã tái hiện về quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Liên quan đến đấu tranh chính trị, trong phần
nội dung “Kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)”
đã phân tích chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam, giúp
“hiểu sâu sắc hơn bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chính sách thực dân mới của
Mỹ”, từ đó, Đảng đề ra phương pháp đấu tranh thích hợp, “Đảng và nhân dân ta đã có
những chủ trương, phương pháp đấu tranh sát đúng, thích hợp. Phương pháp cách
mạng đúng đắn nhất để đánh bại chủnghĩa thực dân mới là kết hợp chặt chẽ lực lượng
chính trị với lực lượng qn sự và hình thức đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh
vũ trang. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng bạo lực”[6, tr.149].
Về vai trị của đấu tranh chính trị, cơng trình đã khẳng định:“Cùng với đấu tranh
quân sự đấu tranh chính trị của quần chúng cũng là hình thức đấu tranh cơ bản có tác
dụng quyết định trong tất cả các giai đoạn phát triển của cách mạng miền Nam và đối
với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”[6, tr.16]. Vai trị của đấu
tranh chính trị được luận giải qua các giai đoạn phát triển của cách mạng miền Nam.
Trong giai đoạn đầu lực lượng chính trị là lực lượng dấy lên cao trào Đồng khởi, trong
giai đoạn tiếp theo lực lượng chính trị trở thành mũi tiến công quan trọng trong việc
chống phá các ấp chiến lược, trong đấu tranh giành đất, giành dân, chống bình định.
Sách “Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Nam”do Bộ chỉ huy Quân
sự tỉnh Quảng Nam biên soạn năm 2007, ngoài tái hiện toàn bộ diễn biến, những bài
học kinh nghiệm, những thành công trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
trên địa bàn Quảng Nam, công trình đã điểm qua một số phong trào đấu tranh chính trị
của nhân dân Quảng Nam như trong đấu tranh địi thi hành hiệp định Giơnever, phong
trào chống chính sách “tố cộng”, phong trào diệt ác, phá kìm, chống phá Ấp chiến lược
của Mỹ và chính quyền Sài Gịn, đặc biệt là sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang trong từng giai đoạn cụ thể trên từng địa bàn chiến lược của Quảng
Nam,trong đó có các phong trào đấu tranh trên địa bàn Tam Kỳ, góp phần vào sự
nghiệp cách mạng của tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.
2
Cơng trình “Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1975)” đã khái
quátđiều kiện địa lý tự nhiên, con người, truyền thống yêu nước của nhân dân Quảng
Nam - Đà Nẵng, quá trình ra đời của tổ chức Đảng và sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng
Nam - Đà Nẵng đối với phong trào cách mạng tại địa phương từ năm 1930 đến năm
1975. Liên quan trực tiếp đến đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), cơng trình đã trình bày một cách sơ lược, điểm qua một cách
cơ bản, khái quát những chính sách và biện pháp của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
nhằm ngăn chặn và chống phá phong trào đấu tranh của nhân dân Tam Kỳ nói riêng và
của cả Quảng Nam-Đà Nẵng nói chung.
Cùng với đó, cơng trình đã nêu bật những chủ trương của Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.“Phải phát động
cho được quần chúng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và hợp pháp đấu tranh với
địch bằng phương châm đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang thì mới bảo
đảm được thắng lợi”[16, tr.431]. Ngồi ra, cơng trình cũng đã đề cập khái lược một số
phong trào đấu tranh chính trị ở Quảng Nam- Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng bộ trong giai đoạn 1954-1965 như phong trào đấu tranh đòi thi hành hiệp định
Genève và chống “tố Cộng” (1954-1956), phong trào đấu tranh bảo vệ lực lượng cách
mạng (1956-1959), giải phóng miền núi (1959-1960), chống phá ấp chiến lược (19611964), giải phóng nơng thơn đồng bằng (1964-1965).
Trong cơng trình “Lịch sử Đảng bộ Huyện Phú Ninh giai đoạn 1954-1975” của
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Ninh xuất bản vào tháng 9 năm 2011, bên cạnh
việc nghiên cứu sự ra đời của huyện Phú Ninh, tác giả đã một phần nêu được các hình
thức đấu tranh chính trị trên địa bàn huyện, qua đó cho thấy được truyền thống đấu
tranh của nhân dân huyện Phú Ninh trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước.
Cơng trình “Lịch sử Đảng bộ huyện Tam Kỳ (1930-1954)” của Thành ủy Tam
Kỳ- Huyện ủy Núi Thành- Huyện ủy Phú Ninh biên soạn, đã nêu khá rõ ràng về vùng
đất Tam Kỳ và quá trình ra đời của Tam Kỳ ( Thành phố Tam Kỳ hiện nay), đặc biệt là
sự ra đời của Đảng bộ Huyện ủy Bắc Tam Kỳ. Đây chính là căn cứ, cơ sở cách mạng
có nhiệm vũ lãnh đạo, giáo dục, tuyên truyền trong quần chúng nhân dân trên địa bàn
tiến hành các cuộc đấu tranh chính trị, chống lại chính sách của Mỹ và chính quyền Sài
Gịn.
Tuy nhiên, một cơng trình hồn chỉnh về phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng nhân dân Tam Kỳ trong giai đoạn 1954-1965 vẫn chưa ra đời mà hầu hết các
cơng trình chỉ mới điểm qua mà chưa nói lên được tính chất, qui mơ cũng như ý nghĩa
của các cuộc đấu tranh chính trị đối với sự phát triển của phong trào cách mạng trên
địa bàn Tam Kỳ cũng như trên toàn tỉnh Quảng Nam.
3
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ trong
giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1965.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu đấu tranh chính trị trên địa bàn Tam Kỳ trong
giai đoạn 1954-1975 trên phạm vi hành chính hiện nay của thành phố.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống q trình đấu tranh chính trị, góp phần nhận thức đầy đủ
hơn về cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1965) của quân và dân Tam Kỳ. Qua đó, bổ
sung tư liệu cho cơng tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương, cung cấp luận cứ
khoa học nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng và phát huy sức
mạnh nhân dân trên địa bàn thành phố Tam Kỳ trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, đề tài làm rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tam Kỳ, nhất là
chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với Tam Kỳ từ năm 1954 đến năm
1965 có ảnh hưởng đến đấu tranh chính trị.
Thứ hai, tác giả tái hiện diễn biến đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ giai đoạn 1954-1965 qua các phong trào tiêu biểu dựa theo mục tiêu,
đối tượng đấu tranh.
Thứ ba, tác giả đi sâu phân tích tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của đấu
tranh chính trị ở Tam Kỳ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1954-1965.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu giải quyết vấn đề trong đề tài, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu
chủ yếu sau:
Thứ nhất là nguồn tư liệu gốc đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phong trào đấu
tranh chính trị trên cả nước nói chung và ở Tam Kỳ nói riêng trong giai đoạn 19541965, bao gồm các văn kiện của Đảng, Nhà nước, tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, các báo cáo, tổng kết, nghị
quyết, công văn, chỉ thị,... của các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức cách mạng ở
Trung tâm Lưu trữ tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Bộ Chỉ huy qn sự.
Thứ hai là các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã xuất bản và các bài
viết đăng trên báo, tạp chí liên quan đến chiến tranh Việt Nam nói chung, về cuộc
4
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Quảng Nam nói riêng, các cơng trình
nghiên cứu về lịch sử địa phương, lịch sử đảng bộ các cấp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng vững trên nền tảng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp sử dụng hai phương pháp chủ đạo của Sử học là phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgic, đồng thời vận dụng các phương pháp khác như
phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh…., nhằm rút ra những thông tin cần
thiết nhất phục vụ nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
Việc hồn thành nghiên cứu đề tài sẽ có một số đóng góp trên phương diện khoa
học và thực tiễn sau:
Một là làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến đấu tranh chính trị và diễn biến, tính
chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ giai đoạn 1954-1965, cũng như tái hiện khách quan và có hệ thống
diễn biến đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ trong giai đoạn này, nhằm cung cấp thêm
nguồn tài liệu về phong trào đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ từ năm 1954 đến năm 1965,
phục vụ đắc lực cho việc giảng dạy lịch sử địa phương trong trường trường trung học
cơ sở và trung học phổ thông trên địa bàn.
Hai là giúp nhận thức rõ hơn về truyền thống yêu nước, cách mạng của nhân dân
Tam Kỳ, sự nhạy bén trong chủ trương lãnh đạo đấu tranh chính trị của Đảng bộ địa
phương này, sự đa dạng, linh hoạt, quyết liệt về hình thức của đấu tranh chính trị trên
địa bàn, sự hưởng ứng và phối hợp giữa Tam Kỳ với địa phương khác trong đấu tranh
chính trị cũng như kết quả của đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ thời kỳ 1954-1965, góp
phần nâng cao niềm tự hào về truyền thống của quê hương và giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thế hệ trẻ Tam Kỳ. Những bài học kinh nghiệm được rút ra trong khóa luận
góp phần phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Tam Kỳ hiện nay.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về vùng đất Tam Kỳ và tiền đề của phong trào đấu
tranh chính trị ở Tam Kỳ (1954-1965)
Chương 2: Đấu tranh chính trị của quân và dân Tam Kỳ (1954-1965)
Chương 3: Tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của phong trào đấu tranh
chính trị của quân và dân Tam Kỳ (1954-1965)
5
NỘI DUNG
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT TAM KỲ VÀ TIỀN ĐỀ CỦA
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở TAM KỲ (1954-1965)
1.1. Giới thiệu khái quát về vùng đất Tam Kỳ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thành phố Tam Kỳ nằm vào khoảng 150 5’’ đến 15015’’ vĩ độ bắc, 180 5’’ kinh
độ đơng, phía bắc giáp huyện Thăng Bình, phía đơng giáp biển Đơng, phía nam giáp
huyện Núi Thành, phía tây và tây nam giáp huyện Tiên Phước. Diện tích tự nhiên
34.318ha, bao gồm Tam Kỳ (9.202ha) và Phú Ninh (25.179ha), trong đó đất nơng
nghiệp 27%, lâm nghiệp 52%, đất chun dùng 10% và các loại đất khác chiếm
khoảng 11%. Thành phố Tam Kỳ là tỉnh lỵ và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của tỉnh Quảng Nam. [2, tr.9]
Tam Kỳ là thành phố có đường bờ biển dài 47km, với hai cửa biển An Hòa (còn
gọi là cửa Đại Áp hay cửa Hiệp Hòa) và cửa Lở. Bờ biển Tam Kỳ phía Bắc thẳng và
bằng, phía Nam có mũi Bàn Than nhơ ra, có nhiều đá ghềnh. Bên ngồi là thềm lục địa
nơng, rất thuận lợi để ni trồng và khai thác hải sản. Có nhiều sơng, suối và vũng
đầm. Các sông Tam Kỳ, sông Bà Bầu, sông Bến Ván (An Tân) đều phát nguyên từ
mạn thấp triền núi Ngan của dãy Trường Sơn. [26, tr. 15]
Ngoài ra cịn có sơng Ơng Bộ, sơng Bàn Thạch nối liền vùng đầm An Hà với
sông Ba Kỳ, sông Cây Trâm nối liền với sông ông Bộ với sông Bến Ván. Sơng Trường
Giang nối hai cửa biển An Hịa và Cửa Đại (Hội An), chảy dọc theo bờ biển. Trước
đây vùng Tam Kì cịn có nhiều suối lớn như La Gà (Tam Vinh), Suối Đá (Tam Dân),
Hóc Mơ (Tam Mỹ Tây) và các vùng đầm như An Hà (nay thuộc địa phận hai xã Tam
Phú, Tam Thăng), Vũng Lấm (Tam Anh), Vũng Chang (Tam Hịa), trong đó vũng An
Hịa lớn nhất, giáp với các xã Tam Hòa, Tam Hải, Tam Giang, Tam Hiệp, Tam
Quang. Nói chung, các sơng ở Tam Kỳ khơng có đầu nguồn xa, nhưng lại có độ dốc
lớn, mùa nắng mau cạn và bị thủy triều từ biển xâm thực sâu.
Nằm ở đồng bằng ven biển, Tam Kỳ hình thành ba vùng rõ rệt. Vùng ven biển
gồm các xã dọc sơng Trường Giang và phía Đơng. Vùng đồng bằng gồm các xã nằm
dọc đường quốc lộ 1A và có đường sắt chạy qua. Vùng giáp ranh miền núi (bán sơn
địa) gồm các xã Tam Sơn, Tam Trà, Tam Lãnh, Tam Thạnh, Tam Mỹ Tây và các thơn
phía Tây xã Tam Dân. [26, tr. 16]
Tam Kỳ tiếp giáp dãy núi Ngan, nối từ dãy Trường Sơn trùng điệp, ăn ra hướng
biển Đông, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Nam-Ngãi. Trong đó, có hai ngọn
6
núi cao nhất là núi Hố Giàn cao 707m và núi Chúa cao 600m. Ngồi ra, cịn có nhiều
núi thấp xen kẽ với đồng ruộng và khu dân cư như núi Quảng Phú, An Hà (Tam Phú),
Bàn Than (Tam Hải), Phú Xuân (Tam Quang), Trà Quân (Tam Xuân 1), Chà Vu (Tam
Lộc), Chóp Chài (Tam Đại), Chà Vó (Tam Vinh), núi Quánh (Tam Ngọc), Hố Giang
(Tam Hiệp), núi Miếu (Tam Anh Bắc), núi Dàng (Tam Dân), Cà Tý (Tam Thành).[26,
tr.16]
Tam Kỳ thuộc vùng khí hậu duyên hải. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 260C,
lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 249mm, giờ nắng trung bình trong ngày từ 59 giờ, độ ẩm trung bình trong năm 84%[26, tr.16]. Do vậy, bão lụt hạn hán thường
xuyên xảy ra, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế-xã hội của người dân địa phương.
Tam Kỳ cũng là nơi có nguồn tài nguyên, sản vật tương đối phong phú. Ngoài
lúa, khoai, sắn cịn có đậu phụng, thơm (dứa), chè, hạt tiêu, thuốc lá, tôm, mực, rau
câu, các loại cá. Ở vùng núi có các loại cây dược liệu, trầm hương, gỗ quý. Một số loại
có giái trị xuất khẩu như“Thơm Chiên Đàn, chè Đức Phú, mức chợ Chùa, nước mắm
An Hòa, thuốc lá Trường Xuân”[26, tr.19] đã nổi tiếng một thời trên thị trường miền
Trung. Trong lịng đất Tam Kỳ có nhiều khống sản như vàng, đồng, chì, sắt, kẽm,
nước khống, đá ong, đá gramit, nhất là vàng sa khoáng nằm rải rác ở nhiều nơi.
1.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội
Ngành kinh tế chủ yếu ở Tam Kỳ là nông nghiệp, kết hợp ngư nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, sản xuất hàng hóa chậm phát triển. Vùng biển có nhiều thủy sản hải sản,
nghề đánh cá, chế biến mắn và làm muối đã có từ lâu đời, nhưng trước năm 1975trình
độ tổ chức đánh bắt còn lạc hậu, nên sản lượng thấp và bấp bênh. Từ sau ngày giải
phóng đến nay, những ngành nghề này được phát triển khá nhanh. Vùng đồng bằng
nhỏ hẹp chủ yếu là đất bạc màu, cằn cỗi. Trải qua nhiều thế hệ, người nông dân Tam
Kỳbằng sức lao động của mình, cần cù và sáng tạo đã biến những vùng cát trắng khô
cằn, bạc màu, chua mặn, triền đồi, hốc núi, bãi sông thành ruộng đất canh tác, từng
bước cải tạo và mở rộng vùng đất gieo trồng. Trước đây, phần lớn diện tích canh tác
sản lượng rất thấp và bấp bênh. Từ sau ngày giải phóng đến nay, sản xuất nơng nghiệp
ở Tam Kỳ có nhiều tiến bộ đáng kể.
Nghề thủ công ở Tam Kỳ đã có từ rất lâu, nhất là các nghề khai thác quặng, nấu
sắt, rèn nơng cụ và vũ khí ở Cà Chớ, Xuân Trung (Tam Thái), Hồng Lư (phường Hòa
Hương), nghề trồng bông dệt vải ở Bãi Dương, Cây Duối (Tam Phú), nghề ươm tơ dệt
lụa ở xóm Hàng (Hịa Hương), nghề làm nước mắm ở An Hòa (Tam Hải), Tam Ấp
(Tam Tiến), nghề làm muối ở Diêm Trường (Tam Giang), Diêm Điền (Tam Tiến),
xóm Nại (Tam Hịa), nghề làm lát, dệt chiếu ở Thạch Tân (Tam Thăng), nghề khai thác
đá ong ở Phú Xuân (Tam Quang), Đức Bố (Tam Anh Bắc), nghề mộc ở Vân Hà (Tam
Thành), nghề đan lát mây tre ở Thạnh Đức (Tam Vinh) [26, tr.18]. Ngoài ra cịn có
7
nghề đãi vàng, xuất hiện từ thời Lê- Mạc và được duy trì ở giai đoạn triều Nguyễn, cho
đến khi thực dân Pháp xâm lược thì chúng tập trung khai thác vàng tại Bồng Miêu
(1895)[26, tr.18]. Do chính sách độc quyền về kinh tế của thực dân Pháp, một số nghề
truyền thống bị mai một, nhất là nghề trồng bông, dệt vải và khai quặng, nấu sắt.
Những năm dưới chế độ thực dân mới, ngành tiểu thủ công nghiệp địa phương bắt đầu
phát triển. Từ ngày giải phóng đến nay, tiểu thủ công nghiệp Tam Kỳ mới thực sự trở
thành ngành sản xuất chính và mang tính tập trung.
Ngành thương nghiệp dịch vụ, trước đây chủ yếu là buôn bán nhỏ, do một số Hoa
kiều nắm giữ, tập trung ở khu vực chợ Vạn, Tam Kỳ và An Tân. Chợ Vạn là đầu mối
thương mại lớn của Quảng Nam, chỉ đứng sau Hội An.
Về xã hội, dưới sự cai trị của thực dân Pháp, chúng đã ráo riết thực hiện “chính
sách ngu dân” rất thâm độc, bãi bỏNho học, bắt dân ta học tiếng Pháp thay cho tiếng
Việt, hạn chế học hành. Do đó trên 90% dân sốTam Kỳ mù chữ. Từ sau phong trào
Duy Tân, cả huyện Tam Kỳ mới có có một trường tiểu học Pháp-Việt tại thị trấn. Ở
nơng thơn, rải rác một số nơi có trường sơ học, ở tổng và một số xã lớn hoặc liên xã có
một số trường lớp dự bị, đồng ấu tư thục, trường công hương. Thực dân Pháp gây ra
tâm lý vong bản, tự ti cho nhân dân, lợi dụng các tơn giáo, duy trì những tập tục lạc
hậu, mê tín dị đoan và nền ln lý lỗi thời:“tam tịng tứ đức”, “tam cương ngũ
thường”, xem như một thứ luật lệ để giải quyết những tranh chấp trong cuộc sống, chi
phối mọi mặt đời sống của nhân dân, trói buộc người phụ nữ vào tôn ti trật tự ấy. Nạn
cờ bạc rượu chè, thuốc phiện phát triển, làm nhiều người phải khuynh gia bại sản.[26,
tr. 25]
Việc chăm sóc sức khỏe nhân dân khơng được chính quyền thực dân quan tâm.
Mãi đến năm 1936, Tam Kỳ mới có một nhà thương. Tuy vậy, việc chữa bệnh cho
nhân dân chủ yếu dựa vào thuốc nam, thuốc bắc hoặc cúng bái. Tình trạng ăn ở mất vệ
sinh, dịch bệnh tràn lan, nạn “hữu sinh vơ dưỡng” phổ biến[26, tr.25].
Kết hợp phương thức bóc lột đế quốc, tư bản với các phương thức bóc lột phong
kiến, thực dân Pháp đã chiếm đoạt, khai thác mỏ vàng ở Bồng Miêu (1985), mỏ kẽm ở
Đức Bố (Tam Anh Bắc) (1898) và chiếm hàng nghìn mẫu đất lập đồn điền chè, trồng
cây ăn quả ở Đức Phú (Tam Sơn), Phước Lợi, Trung Đàn. Số ruộng đất còn lại, địa
chủ, hào lý bao chiếm phần lớn. Đa số nông dân lao động phải cày thuê, cuốc mướn
với chế độ tơ chính, tơ phụ và lợi tức rất nặng nề.
Ngồi việc chiếm đoạt tài ngun, bóc lột nhân cơng, thực dân Pháp còn nắm độc
quyền một số ngành hàng như muối, rượu, thuốc lá, thuốc phiện, chè, quế, độc quyền
về ngoại thương, chèn ép nội thương. Chính sách thuế khóa nặng nề, nhất là thuế thân
(cịn gọi là thuế đinh), một loại thuế rất dã man, đánh vào nam giới từ 18 đến 60 tuổi,
chỉ trừ chức sắc, lý hương. Ngồi ra cịn có nhiều loại thuế khác như thuế điền thổ,
8
thuế chợ, thuế sông, thuế môn bài, thuế ghe thuyền, thuế nhà, thuế trâu, bò, thuế rừng,
thuế củi v.v. Các loại nơng lâm thổ sản, ngồi thuế trực thu, khi mang đi bán bọn
thương chánh còn đánh nhất loạt 20% trên giá trị. Đó là cịn chưa kể nạn “phù thu lạm
bổ” của bọn quan nha, hào lý. Hàng năm mùa thu thuế là một tai họa trút lên đầu người
dân nghèo, nhiều người phải điêu đứng, cầm nhà bán đất để nộp thuế. Nếu chậm trễ bị
đánh đập, phạt vạ, thậm chí cịn bị bắt bớ, cầm tù. Hàng năm người dân cịn phải đi
làm xâu cơng ích và tư ích (làm phục dịch tại xã), nhất là nạn bắt xâu đi làm đường,
xây dựng công sở. Đi làm xâu thì cơm nhà, ốm đau tai nạn khơng thuốc men, lại bị bọn
cai, đốc đánh đập dã man.
Chính sách kinh tế-xã hội của chế độ thực dân phong kiến làm cho các tầng lớp,
giai cấp trong xã hội cũng có sự phân hóa. Bên cạnh giai cấp địa chủ, nông dân, đã
xuất hiện các giai cấp mới như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tiểu tư sản càng
ngày càng đơng, với tính chất và xu hướng chính trị khác nhau. Địa chủ ở Tam Kỳ tuy
ít (khoảng 100 hộ, phần đông là địa chủ nhỏ) nhưng vẫn duy trì tính chất bóc lột địa tơ
nặng nề. Họ chiếm gần 30% ruộng đất ở địa phương. Có địa chủ chiếm từ 500 đến
1000 mẫu ruộng tốt như Lê Khâm Duy (Bác Kiện) ở Hòa Hạ, Tam Thanh (1000 mẫu),
Hồ Lượng ở Khánh Thọ, Tam Thái (500 mẫu). Riêng một vùng nhỏ ở chợ Quán
Rường, Tam An, đã có 9 địa chủ [26, tr.27]. Về xu hướng chính trị, một số ít địa chủ
dơ quyền lợi, ơm chân làm tay sai cho đế quốc-phong kiến, chống lại phong trào yêu
nước của nhân dân ta.
Tư sản ở Tam Kỳ rất nhỏ và yếu ớt, vì kinh tế cơng thương nghiệp kém phát
triển. Phần lớn là người Hoa sinh sống lâu đời ở thị trấn Tam Kỳ, An Tân và một số
nơi khác. Tư sản người Việt bị tư sản người Pháp chèn ép, có ý thức dân tộc, nhưng
một số dễ thỏa hiệp và rơi vào chủ nghĩa cải lương.
Tiểu tư sản ở Tam Kỳ phát triển từ sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, họ gồm: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, những người làm nghề tự do, viên
chức, giáo chức và học sinh bậc trung học. Giới cơng chức bị bạc đãi, kìm hãm sự phát
triển tài năng, chỉ một số ít được người Pháp nâng đỡ, mua chuộc, nên thái độ chính trị
lưng chừng, cịn nói chung tiểu tư sản ở Tam Kỳ đều có tinh thần yêu nước, chống
thực dân và phong kiến. Một số giáo chức, học sinh sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin,
trở thành cán bộ cách mạng, tiêu biểu như Khưu Thúc Cựu là người góp phần truyền
bá chủ nghĩa Mác Lênin trên mảnh đất Tam Kỳ.
Nông dân ở Tam Kỳ là lực lượng đông đảo nhất, chiếm đại bộ phận dân cư trong
huyện, bị đế quốc, địa chủ phong kiến và tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, chịu nhiều
cảnh bất công nhất trong xã hội. Chính sách khai thác tài ngun và nhân cơng rẻ mạt,
sưu cao thuế nặng của Pháp cùng với lối bóc lột địa tô cho vay nặng lãi của giai cấp
địa chủ và tư sản đã làm cho nông dân Tam Kỳ bị bần cùng hóa. Số đơng khơng có
9
ruộng, phần lớn phải làm thuê, ăn cơm vay, cày ruộng rẻ. Một số ít phải bỏ quê hương,
đi vào các đồn điền, hầm mỏ trở thành công nhân hoặc đi lập nghiệp ở các tỉnh phía
Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số cịn cực khổ trăm bề. Nơng dân ở Tam Kỳ cũng
như nhân dân cả nước tha thiết yêu nước, khát khao độc lập tự do, đấu tranh kiên
cường, bất khuất, không ngại gian khổ hy sinh, dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của
thời đại, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào yêu nước, cũng như phong trào
cách mạng sau khi có Đảng lãnh đạo.
Đội ngũ cơng nhân ở Tam Kỳ được hình thành từ ngày Thực dân Pháp tiến hành
khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Hầu hết xuất thân từ nông dân và một số thợ thủ công,
tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản do chế độ bóc lột của thực dân phong kiến. Họ vào
làm ở mỏ vàng Bồng Miêu, mỏ kẽm Đức Bố, các đồn điền chè Đức Phú, Trung Đàn và
ngành đường sắt. Nhiều người vừa làm thợ vừa làm ruộng. Đến đầu năm 1928, ở Tam
Kỳ đã có gần 1500 công nhân, chưa kể số đi làm đường sắt. Cũng như công nhân cả
nước công nhân Tam Kỳ vừa là người bị mất nước vừa là người nô lệ làm thuê, là đại
diện của phương thức sản xuất tiên tiến. Hơn ai hết họ là những người căm thù sâu sắc
mọi ách áp bức, bóc lột và mọi bất cơng xã hội, vì vậy họ sớm giác ngộ tinh thần đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, gắn bó mật thiết với nơng dân trong phong trào
cách mạng, tiếp thu trào lưu tư tưởng tiến bộ của thời đại, tư tưởng cộng sản và trở
thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
1.1.3. Cư dân, văn hóa
Cũng như nhiều địa phương khác ở Nam Trung Bộ, cư dân Tam Kỳ chủ yếu là
nông dân nghèo ở các tỉnh Bắc và Bắc Trung Bộ di cư vào. Một số người do đấu tranh
chống triều đình phong kiến bị bắt đày vào đây, một số khác là tù binh trong cuộc nội
chiến Trịnh- Nguyễn. Họ được tổ chức khai khẩn ruộng đất theo chế độ “binh điền”.
Đến vùng đất mới hoang vu, chiến tranh liên miên, lại bị bọn quan lại áp bức, bóc lột,
họ phải chịu đựng và vượt qua muôn vàn gian khổ hiểm nguy, bền bỉ chống chọi với
thiên nhiên, gan góc đấu tranh với bất cơng xã hội. Đời nọ kế tiếp đời kia, đã hun đúc
nên những truyền thống tốt đẹp. Đó là lịng u nước nồng nàn, tính cộng đồng dân tộc
và tinh thần đồn kết tương thân, tương ái, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, ý chí
đấu tranh kiên cường, bất khuất chống áp bức và bất công xã hội, thể hiện khá đầy đủ
phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Dân cư Tam Kỳ ln có sự biến động, cho đến nay có khoảng 196.000 người,
hầu hết là người Kinh. Mật độ trung bình khoảng 571 người trên km2. Một bộ phận
dân cư tập trung tại thành phố Tam Kỳ, cịn lại sống thành làng, xóm ở các khu vực
ven biển, ven các cánh đồng70% dân cư làm nghề nơng và ngư nghiệp, cịn lại làm
nghề thủ cơng mỹ nghệ, buôn bán, khai thác lâm thổ sản. Nền kinh tế đa dạng kết hợp
10
chặt chẽ giữa nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, ngư nghiệp và các
dịch vụ khác, phân bố đều ở khắp các vùng.[2, tr.20-21]
Vùng đất Tam Kỳ từ rất sớm đã có con người sinh sống. Các di chỉ Bàu Dũ, Bàu
Nê (ở phía Đơng Nam sơng Tam Kỳ), Bàu Trám (Tam Anh Bắc), khu mộ Chum Tam
Mỹ, Tam Giang,…gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng. Trải qua hàng ngàn
năm lao động và chiến đấu, xây dựng và phát triển, các thế hệ người dân Tam Kỳ đã
sáng tạo, vun đắp, lưu truyền một nền văn hóa phong phú và đa dạng, vừa thể hiện đặc
điểm văn hóa của cả nước, vừa thể hiện được đặc trưng văn hóa của địa phương. Đặc
sắc là văn hóa Champa và sự kết hợp văn hóa Việt- Chăm. Vượt qua sự tàn phá của
chiến tranh, thời gian và thiên nhiên, trên đất Tam Kỳ vẫn còn lưu giữ nhiều di tích nổi
tiếng. Đó là những đình làng được xây dựng từ xa xưa để thờ cúng tổ tiên hoặc tế lễ,
hội hè như đình Chiên Đàn (xã Tam Đàn), đình Phương Hịa, Mỹ Thạch (phường Tân
Thạnh),...có giá trị cao về kiến trúc lịch sử. Đó là những di tích đặc trưng với lối kiến
trúc mang đậm chất nghệ thuật Champa, như tháp Chiên Đàn, phế tích An Mỹ, Tháp
Lạn (Tam An), Khương Mỹ, Phú Hưng (Tam Xuân 1),...Những đình, đền, tháp đó
cũng thể hiện sự sinh động, nét tài hoa của những người thợ thủ công Tam Kỳ trong
lịch sử. Tam Kỳ cịn có một số cảnh đẹp gắn liền với các di tích lịch sử, như chùa
Hang (Tam Nghĩa), cửa biển An Hòa và mũi Bàn Than.[26, tr.20-21]
Nhân dân Tam Kỳ nổi tiếng bởi lòng hiếu học. Ngay từ đầu thế kỷ XIX (năm
1824), Tam Kỳ đã lập trường huấn học đặt tại làng Chiên Đàn (Tam Đàn), sau dời về
làng Tam Kỳ. Tam Kỳ cũng quê hương của nhiều nhà nho yêu nước, trong đó có các
cụ Trần Văn Dư (Tam An), Phan Châu Trinh (Tam Lộc), Dương Đình Thưởng, Dương
Đình Thạc (Tam Sơn), Phan Bá Phiến (Tam Tiến)…Dưới thời thực dân Pháp cai trị,
cùng với các trường làng, Tam Kỳ cịn có trường Pháp-Việt vừa dạy tiếng Việt, vừa
dạy tiếng Pháp. Học sinh trường này về sau có nhiều người tham gia các phong trào
yêu nước chống Pháp và trở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng bộ
Tam Kỳ.
Tam Kỳ còn là địa phương có phong trào sáng tác văn thơ khá phong phú, do các
nhà Nho yêu nước khởi xướng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Văn thơ yêu nước
chủ yếu tập trung vào việc tố cáo, vạch mặt chính sách đơ hộ dã man của thực dân,
phong kiến, đồng thời kêu gọi các tầng lớp nhân dân đứng lên cứu nước thông qua các
phong trào Cần Vương, Duy Tân, nổi bật nhất là thơ văn của các cụ Trần Văn Dư,
Phan Châu Trinh. Bên cạnh văn thơ yêu nước, nói lên nỗi thống khổ của nhân dân, ở
Tam Kỳ cịn phát triển các hình thức hát bộ (gánh hát Khánh Thọ nổi tiếng ở Quảng
Nam), hát phường cấy, hát đưa đị, hát ru em…Các sinh hoạt văn hóa ở Tam Kỳ vừa
mang tính đặc trưng văn hóa Trung Bộ vừa phản ánh sắc thái riêng của một vùng quê
giàu truyền thống đấu tranh cách mạng.
11
Nhờ có đức tính cần cù, nhẫn nại, chịu khó học hỏi, kết hợp với trí thơng minh,
nhanh nhẹn, tháo vác và khéo tay nên đời sống của đại đa số nhân dân các vùng chênh
lệch nhau rất ít. Trong tiến trình lịch sử nhìn chung có biến động, phân hóa xã hội
nhưng chỉ có một số bộ phận nhỏ cấu kết với thực dân, đế quốc để bóc lột, đàn áp nhân
dân, làm tay sai cho giặc. Dù phải sống trong chế độ bất công và tàn bạo nhưng tuyệt
đại đa số nhân dân đều giàu lòng yêu quê hương đất nước, luôn tỏ thái độ chống đối
bọn hào cường phong kiến, chống áp bức bóc lột, chống mọi luật lệ phi lí, khơng phù
hợp lịng người, sẵn sàng tham gia đấu tranh giữ gìn, bảo vệ truyền thống văn hóa dân
tộc, bảo vệ sự tồn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Tam Kỳ
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, địa giới và tổ chức hành chính Tam
Kỳ đã phải nhiều lần thay đổi. Tháng 6 năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh Tông tiến
hành cuộc nam chinh đại thắng, lập ra đạo thừa tuyên Quảng Nam, lúc bấy giờ vùng
đất Tam Kỳ có tên gọi là xứ Hà Đông. Đến năm 1490, vua Lê Thánh Tơng tổ chức lại
hệ thống hành chính và thành lập huyện Hà Đông[2, tr.12]. Đến giai đoạn triều
Nguyễn, năm 1841, dưới thời Thiệu Trị, huyện Hà Đông trực thuộc phủ Thăng Hoa có
diện tích khá rộng. Năm Thành Thái thứ 18 (1906), huyện Hà Đông tách khỏi phủ
Thăng Bình nâng lên thành phủ Hà Đơng, và sau đổi thành phủ Tam Kỳ. Tên gọi Tam
Kỳ có từ đây.[2, tr.12]
Năm 1920, sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội, phủ Tam Kỳ cịn
lại có 7 tổng. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ thống nhất gọi tên
huyện trực thuộc tỉnh. Tháng 2 năm 1946, Trung ương có chủ trương về việc giải tán
cấp tổng, thành lập cấp xã trực thuộc huyện. Qua hai lần sáp nhập xã, huyện Tam Kỳ
còn 15 xã lớn gồm: Tam Nghĩa, Tam Hải, Tam Hiệp, Tam Anh, Tam Sơn, Tam Xuân,
Tam Tiến (nay thuộc huyện Núi Thành), Tam Thăng, Tam Thanh, Tam Thái, Tam
Lãnh, Tam Dân, Tam Phước, Tam An và Tam Chánh (nay thuộc thành phố Tam Kỳ).
“Ngày 30/01/1951, Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ ra nghị
định số 241-MLS thành lập thị xã Tam Kỳ, có cơ cấu hành chính gồm 5 xã: Hịa
Khương, Phước Hòa, An Xuân, An Sơn, An Mỹ. Ngày 01/11/1951, đổi tên thành “Xã
đặc biệt Tam Kỳ” trực thuộc tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng.”[2, tr.12-13]
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau khi tiếp quản vùng tự do Tam Kỳ,
Mỹ-Diệm chia Tam Kỳ thành 4 khu hành chính. Thành phố Tam Kỳ và huyện Phú
Ninh ngày nay có 3 khu. Tháng 11 năm 1955, địch phân chia lại địa giới hành chính,
Tam Kỳ có 32 xã và xây dựng bộ máy chính quyền cai trị với danh nghĩa là hội đồng
hương chính. Ngày 24/06/1958, chính quyền Sài Gịn ra nghị định số 335-NC/P6 phân
chia lại địa giới hành chính, lấy chữ Kỳ thay cho chữ Tam của mỗi xã. Quận Tam Kỳ
có 24 xã gồm Kỳ Sanh, Kỳ Hà, Kỳ Liên, Kỳ Khương, Kỳ Chánh, Kỳ Thạnh, Kỳ An,
12
Kỳ Thịnh, Kỳ Lý, Kỳ Mỹ, Kỳ Bình, Kỳ Trung, Kỳ Hưng, Kỳ Bích, Kỳ Anh, Kỳ Phú,
Kỳ Hương, Kỳ Long, Kỳ Quế, Kỳ Sơn, Kỳ Nghĩa, Kỳ Trà, Kỳ Yên và Tam Kỳ[2,
tr.13] Ngày 31 tháng 07 năm 1962, chính quyền Sài Gịn ra sắc lệnh số 162-NV tách
Quảng Nam thành hai tỉnh là Quảng Nam và Quảng Tín. Địa giới tỉnh Quảng Nam từ
Quế Sơn trở ra cho đến huyện Hịa Vang, địa giới tỉnh Quảng Tín từ huyện Thăng
Bình trở vào phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi, quận Tam Kỳ là tỉnh lị tỉnh Quảng Tín.
Ngày 19 tháng 07 năm 1963, chúng lại điều chỉnh địa giới hành chính của một số
quận, trong đó tách các xã phía nam gồm Kỳ Trung, Kỳ Hưng, Kỳ Bích, Kỳ Thạnh,Kỳ
Chánh, Kỳ Hòa, Kỳ Hà, Kỳ Xuân, Kỳ Liên, Kỳ Khương, Kỳ Sanh thành lập quận mới
Lý Tín, trung tâm quận Lý Tín đóng tại Vân Trai xã Kỳ Khương. Quận Tam Kỳ gồm
có các xã: Tam Kỳ, Kỳ Hương, Kỳ Nghĩa, Kỳ Anh, Kỳ Phú, Kỳ Bình, Kỳ Lý, Kỳ An,
Kỳ Mỹ, Kỳ Thịnh, Kỳ Long, Kỳ Quế, Kỳ Sơn, Kỳ Trà, Kỳ Yên và xã Phước Long của
quận Tiên Phước chuyển giao cho Tam Kỳ. Trung tâm quận Tam Kỳ đóng tại Châu
Thành [2, tr. 13-14]
Về phía ta, ngày 20 tháng 11 năm 1962, để thuận lợi cho chỉ đạo chiến tranh,
Khu ủy 5 quyết định chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Đà từ huyện Duy
Xuyên cho tới huyện Hòa Vang và tỉnh Quảng Nam từ huyện Quế Sơn vào đến giáp
tỉnh Quảng Ngãi. Tháng 4 năm 1963, Tỉnh ủy Quảng Nam chia huyện Tam Kỳ thành
ba đơn vị hành chính là huyện Nam Tam Kỳ, thị xã Tam Kỳ và huyện Bắc Tam Kỳ.
Địa bàn thị xã Tam Kỳ có xã Châu Thành, Kỳ Hương và các thôn Trường Xuân Đông,
Trường Xuân Tây, Phú Ninh của xã Kỳ Nghĩa. Huyện Bắc Tam Kỳ có các xãKỳ Phú,
Kỳ Anh, Kỳ Lý, Kỳ Bình, Kỳ Mỹ, Kỳ An, Kỳ Phước, Kỳ Thịnh, Kỳ Nghĩa, Kỳ Thọ,
Kỳ Long, Kỳ Quế, Kỳ Sơn[2, tr.14]. Năm 1966, do nhu cầu tác chiến của huyện Bắc
Tam Kỳ, ta chia xã Kỳ Anh thành hai xã là Kỳ Anh Đông và Kỳ Anh Tây, xã Kỳ
Thịnh thành hai xã là Kỳ Quý và Kỳ Thịnh, Kỳ Long thành hai xã Kỳ Long, Kỳ Ngọc.
Đầu năm 1968, sau khi thành lập mặt trận Chu Lai, tỉnh quyết định cắt ba xã Kỳ Hưng,
Kỳ Bích, Kỳ Trà của Nam huyện Tam Kỳ về trực thuộc sự chỉ đạo, chỉ huy của thị xã
Tam Kỳ. Cuối năm 1970, các xã này trở lại huyện Nam Tam Kỳ. [2, tr.14]
Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, tháng 5 năm 1975 ta sáp nhập huyện
Bắc Tam Kỳ và thị xã Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ. Tháng 11 năm 1975, sáp nhập
huyện Nam Tam Kỳ, huyện Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ. Tồn huyện có thị xã Tam
Kỳ và các xã Tam Nghĩa (Kỳ Liên), Tam Quang (Kỳ Hà), Tam Hải (Kỳ Hòa), Tam
Giang (Kỳ Xuân), Tam Hòa (Kỳ Vinh), Tam Anh (Kỳ Chánh, Kỳ Thạnh), Tam Sơn
(Kỳ Trà), Tam Trà (Kỳ Yên), Tam Xuân (Kỳ Hương, Kỳ Bích), Tam Tiến (Kỳ Trung),
Tam Thanh (Kỳ Anh Đông), Tam Thăng (Kỳ Anh Tây), Tam Phú (Kỳ Phú), Tam An
(Kỳ Lý, Kỳ Hương), Tam Thành (Kỳ Bình), Tam Phước (Kỳ An, Kỳ Mỹ), Tam Lộc
(Kỳ Phước), Tam Vinh (1/2 Kỳ Thịnh, Kỳ Quý), Tam Đàn (1/2 Kỳ Lý và ½ Kỳ
13
Thịnh), Tam Dân (Kỳ Long, Kỳ Ngọc), Tam Lãnh ( Kỳ Sơn, Kỳ Quế), Tam Thái (Kỳ
Thọ, Kỳ Nghĩa), cắt một số thôn của xã Kỳ Nghĩa thành lập xã Tam Ngọc[2, tr.14-15]
Năm 1984 các xã phía Nam sơng Tam Kỳ được tách ra để thành lập huyện mới
Núi Thành. Thị xã Tam Kỳ có các phường Tân Thạnh, Phước Hòa, Hòa Hương, An
Sơn, An Xuân, An Mỹ, Trường Xuân và các xã Tam Thanh, Tam Thăng, Tam Phú,
Tam An, Tam Thành, Tam Phước, Tam Lộc, Tam Đàn, Tam An, Tam Vinh, Tam Dân,
Tam Lãnh, Tam Thái, Tam Ngọc. Năm 2005, thị xã Tam Kỳ được tách làm hai đơn vị
hành chính là thị xã Tam Kỳ, huyện Phú Ninh và thành lập thêm một số xã, phường
mới. Thị xã Tam Kỳ có các xãTam Thanh, Tam Phú, Tam Thăng, Tam Ngọc, các
phường An Phú, Tân Thạnh, Phước Hòa, Hòa Hương, An Xuân, An Sơn, An Mỹ,
Trường Xuân, Hòa Thuận. Huyện Phú Ninh có các xã: Tam An, Tam Thành, Tam
Phước, Tam Lộc, Tam Đàn, Tam Dân, Tam Lãnh, Tam Thái, Tam Vinh, Tam Đại.
Ngày 29 tháng 09 năm 2006, thị xã Tam Kỳ được chính phủ nâng cấp thành thành phố
Tam Kỳ trực thuộc tỉnh Quảng Nam.[2, tr.15]
Cho đến nay, thành phố Tam Kỳ đang từng ngày thay da đổi thịt với nhịp sống
năng động, nhiều cơng trình đã, đang và được xây dựng trên vùng đất vốn cằn cỗi góp
phần nâng cao điều kiện kinh tế- xã hội của nhân dân Tam Kỳ.
1.3. Tiền đề hình thành phong trào đấu tranh chính trị ở Tam Kỳ (19541965)
1.3.1. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Tam Kỳ
Truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường và bất khuất chống áp
bức và giặc ngoại xâm của nhân dân Tam Kỳ đã có từ lâu đời. Ngay sau khi mở đất
nhân dân Hà Đông dưới sự lãnh đạo của Thổ quan Đại tri châu Hà Đông Đặng Tất
cùng lúc vừa chống lại quân lấn chiếm Chiêm Thành vừa tham gia nghĩa quân, đóng
góp lương thực, tiến ra Nghệ An tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi chống quân
Minh xâm lược (thế kỷ XV)[26, tr.30]
Những năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, nhân dân Hà Đông đã liên tục
chống lại ách thống trị hà khắc của chính quyền chúa Nguyễn. Cuối thế kỷ XVIII,
cùng với các địa phương khác ở miền Trung, nhân dân Hà Đông đã hăng hái gia nhập
nghĩa quân Tây Sơn, đánh đuổi quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng đất nước.
Trong những đạo quân của nhà Tây Sơn có một cơ (tương đương với một trung đồn
ngày nay) người Hà Đơng, được mang phiên hiệu “Tiền cơ trung nghĩa” (Tức là đơn vị
tiên phong của nghĩa quân Tây Sơn)[2, tr.22]. Theo gia phả và sắc phong của vua
Quang Trung hiện còn tại tộc họ Lê ở thôn Phú Xuân Trung, phường Trường Xuân, có
Lê Văn Thủ được sắc phong “Tài hầu” và con là đô đốc Lê Văn Long được phong “Võ
tướng hữu quân”. Tại Chiên Đàn (Tam Đàn) có Kiều Phụng được phong là Đô đốc. [2,
tr. 22]
14
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân Hà
Đông đã huy động lực lượng hàng trăm thanh niên khỏe mạnh, sử dụng mọi vũ khí, tổ
chức các đội dân binh hăng hái kéo ra Đà Nẵng sát cánh cùng quân đội triều đình do
Nguyễn Tri Phương chỉ huy rào làng đắp lũy, lập phòng tuyến chặn đánh tiêu hao sinh
lực địch gây cho chúng nhiều tổn thất.
Ngày 13 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, hô hào nhân
dân cả nước phò vua giúp nước. Các cụ Võ Mậu (Hòa Tây), Võ Bản, Võ Lệ (Chiên
Đàn), Xã Xước (An Mỹ-Tam An), Thất Nguyên (Khánh Thọ-Tam Thái), hưởng ứng
và chiêu mộ binh sĩ thành lập nghĩa hội, tự nguyện đóng góp lương thực, tiền của, xây
dựng căn cứ chiến đấu dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Tiến sĩ Trần Văn Dư[2, tr.22].
Ngày 6 tháng 9 năm 1885, nghĩa qn tấn cơng chiếm thành La Qua, đầu não của
chính quyền đương thời, sau đó bị quân Pháp đánh chiếm lại. Tháng 10 năm 1885,
quân Pháp tấn công căn cứ Hà Đơng, nghĩa qn chiến đấu dũng cảm, mưu trí, gan dạ,
nhiều lần phục kích, chặn đánh tại suối đá (Tam Dân), Đá Rồng, Truông Mua (Tiên
Phước) gây thiệt hại nặng nề cho chúng. Tuy nhiên, các loại vũ khí của địch quá mạnh,
trình độ tổ chức chỉ huy của nghĩa quân còn kém, lại sơ hở trong tổ chức canh phòng
nên căn cứ cuối cùng của Nghĩa hội tại Trà My bị thất thủ. Tiến sĩ Trần Văn Dư bị
địch bắt và bị hành quyết tại Vĩnh Điện. Hai cụ Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến
lên thay, chuyển toàn bộ lực lượng về Trung Lộc (Quế Sơn) thành lập dân tỉnh, tiếp tục
cuộc chiến đấu. [2, tr.23]
Những năm 1906-1908, tại Tam Kỳ, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp lãnh đạo cuộc vận động Duy Tân theo chủ thuyết “Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”, nhằm vận động cải cách văn hóa, xã hội gắn liền với vận
động lòng yêu nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách ngoại xâm.
Cuộc vận động Duy Tân được dấy lên từ đất Tam Kỳ đã nhanh chóng lan ra tồn tỉnh
Quảng Nam và các tỉnh Nam Trung Bộ. Từ nông thôn đến thành thị đều được nhân
dân hưởng ứng mạnh mẽ, tích cực bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, hăng hái cắt tóc ngắn,
tổ chức học chữ Quốc ngữ, lập hội buôn bán, hội làm nông, cải cách lối sống, xây
dựng hương ước, chống tệ cúng tế,chống hào cường, quan lại ức hiếp nhân dân. Đẩy
mạnh việc canh tân sản xuất, khai khẩn hàng trăm mẫu ruộng bỏ hoang để trồng lúa,
bắp, sắn, khoai. Tuyên truyền tư tưởng bài Pháp, động viên tinh thần yêu nước, căm
thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát ách ngoại xâm. Thực dân Pháp hoảng sợ trước
phong trào này và chúng cho đó là “Giặc đồng bào”, “Đảng cắt tóc”[2, tr.23-24]
Những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức khai thác thuộc địa. Chúng mở
đường Tam Kỳ đi Bồng Miêu để khai thác mỏ vàng được thuận lợi. Nhân dân lao động
Tam Kỳ bị bắt đi làm đường nơi rừng sâu nước độc, bị đói khát, bệnh tật, lại bị Đề đốc
Trần Tuệ và bọn tay chân đánh đập hành hạ đủ điều, uất ức chất chồng. Được sự cổ vũ
và lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, nhân dân Tam Kỳ nhất tề đứng lên hưởng ứng
15
cuộc đấu tranh. Từ hình thức làm đơn liên danh ký chỉ đưa đến phủ, tỉnh đã dẫn đến
cuộc biểu tình bạo động với quy mơ tồn tỉnh. Tối 30 tháng 3 năm 1908, trên 3000
người từ khắp nơi trong phủ kéo đến bao vây phủ đường Tam Kỳ, đòi hỏi tội Đề đốc
Trần Tuệ. Đồn trưởng Đại lý phải cho lính đến bảo vệ đưa Trần Tuệ về đồn. [26, tr.3334]
Sau cuộc biểu tình, địch đã đàn áp dã man phong trào ở Tam Kỳ.Trần Thuyết,
người dẫn đầu cuộc biểu tình, cùng nhiều người bị bắt. Chúng kết án tử hình Trần
Thuyết và xử chém ở đầu cầu Tam Kỳ. Một số sĩ phu yêu nước bị giam tại nhà lao tỉnh
hoặc đày đi Lao Bảo.[26, tr.34]
Mặc dù bị địch đàn áp dã man, nhân dân Tam Kỳ quyết không chịu khuất phục.
Từ đầu năm 1915, dưới sự lãnh đạo của Thái Phiên và Trần Cao Vân, nhân dân Tam
Kỳ đã tham gia tích cực phong trào Việt Nam Quang phục Hội, ráo riết chuẩn bị để nổi
dậy khởi nghĩa. Ở các xã trong phủ đều tổ chức lực lượng dân binh, có nơi quân số đến
đại đội, nhất là các vùng Ngọc Mỹ, Kim Đới, Quý Thượng (Tam Phú). Đáng chú ý là
phong trào này có cả cơng nhân mỏ vàng Bồng Miêu, mỏ kẽm Đức Bố và đồn điền chè
Đức Phú bỏ cơ sở về tham gia. Các xã cánh Nam tham gia hăng hái, tổ chức nhiều đội
dân binh, rèn giáo mác. Một số nơi như Bái Dương, Cây Duối (Tam Phú), Xóm Hàng
(Hịa Hương) cịn huy động cả phụ nữ dệt vải, may quân trang, các xóm lị rèn ở Xn
Trung (Tam Thái), Phú Ninh (Tam Ngọc) bí mật rèn vũ khí.[26, tr.35]
Các nhà giàu cũng được vận động đóng góp lúa gạo, tiền bạc. Theo kế hoạch,
cuộc khởi nghĩa nổ ra ở các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi vào đêm
mùng 1 tháng 4 âm tức ngày 3 tháng 5 năm 1916 sau khi vua Duy Tân rời bỏ kinh
thành Huế. Nhưng bị bại lộ nên các nơi không tiến hành khởi nghĩa. Riêng phủ Tam
Kỳ và tỉnh Quảng Ngãi vẫn thực hiện đúng kế hoạch. Chiều ngày 3 tháng 5, tất cả lực
lượng dân binh ở các nơi đều tập trung tại điểm xuất phát nghe “tuyên cáo khởi binh”
và làm lễ “tế cờ xuất quân”. Đêm ngày 3 tháng 5 năm 1916, dưới sự chỉ huy của
Chánh lãnh binh Trần Huỳnh (tức Phó Bẻm) và Phó lãnh binh Trần Ni, Nguyễn Tình,
lực lượng dân binh vũ trang bằng gươm giáo, cùng với hàng ngàn quần chúng kéo đến
bao vây tấn công phủ đường và đồn Đại lý Tam Kỳ.
Cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại nhưng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước của
nhân dân những năm đầu thế kỷ XX, thể hiện ý chí chống chế độ thống trị của thực
dân Pháp và quân chủ độc lập cho Tổ quốc, mưu cầu quyền sống cho nhân dân. Cuộc
khởi nghĩa dưới danh nghĩa vua Duy Tân, tiếp nối phong trào yêu nước theo xu hướng
dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX tuy bị thất bại nhưng Lênin, người thầy của cách mạng
thế giới, đã đánh giá cao cuộc khởi nghĩa này. Người viết: “Nhân dân vùng lên đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp...báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng Á
16
Đơng”1. Coi đó là một cuộc nổi dậy tiêu biểu của nhân dân các nước thuộc địa chống
ách thống trị của thực dân– quân chủ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang phục Hội, cùng với cả nước,
phong trào yêu nước của nhân dân Tam Kỳ trong tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Phong trào tạm thời lắng xuống, nhưng những cốt cán
của phong trào khơng nản chí. Họ dựa vào các hoạt động kinh tế như hội buôn nông
lâm sản được tổ chức tại An Tân do Võ Dương (Nghiệm) phụ trách, các hiệu bán thuốc
bắc...để liên lạc, gặp gỡ nhau bàn luận thời cuộc, truyền tụng văn thơ yêu nước của cụ
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhằm nuôi dưỡng và khơi dậy lòng yêu nước. Lúc
này nhà riêng của Võ Dương (Khương Mỹ- Tam Xuân 1), Trần Văn Trinh (Bàn ThanTam Hải), là nơi thường diễn ra các cuộc tọa đàm nói trên.[26, tr.37]
Những năm 1920-1925, các loại sách báo có nội dung tiến bộ đã thâm nhập vào
Tam Kỳ, một số thanh niên trong “Nhóm đọc sách báo mới” đã tiếp thu được cách tư
tưởng cách mạng vô sản, khơi dậy lòng yêu nước và mở ra được một thời kỳ lịch sử
mới. Tháng 2 năm 1925, tại Tam Kỳ xuất hiện một tổ chức hoạt động chính trị dưới
danh nghĩa “Hội đức, trí, thể dục”, do đốc học Trần Cảnh làm hiệu trưởng, đã lôi kéo
500 thanh niên tiến bộ, giáo chức, học sinh và những người có tinh thần yêu nước
tham gia sinh hoạt. Cũng trong thời gian này có trên 200 cơng nhân mỏ vàng Bồng
Miêu đã đình cơng, đấu tranh địi tăng lương, chống đuổi thợ, đòi thực hiện chế độ bảo
hiểm trong lao động nặng nhọc như khoan nổ mìn, buộc chủ phải chấp nhận yêu sách.
Đây là tiếng chuông báo hiệu một phong trào yêu nước mới đang hình thành trên mảnh
đất Tam Kỳ đầy những biến động trong giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Cuối năm 1925, ở Tam Kỳ đã diễn ra cuộc vận động chính trị lớn, hàng ngàn
người đã tham gia kí đơn địi ân xá cụ Phan Bội Châu. Tháng 3 năm 1926, Đốc Cảnh
và một số giáo viên, thanh niên tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh tại trường tiểu
học Pháp-Việt có hàng ngàn người tham gia, sau đó phong trào để tang diễn ra rầm rộ
trong một thời gian dài.
Đầu năm 1928, tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Quảng Nam ra
đời, hội tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, góp phần vào làm cho hệ tư tưởng vô
sản thâm nhập và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Tháng 5 năm 1930,
tổ chức Đảng đầu tiên của phủ Tam Kỳ ra đời gánh vác trọng trách lịch sử giải phóng
nhân dân khỏi ách đơ hộ của thực dân và ách áp bức bóc lột của phong kiến. Đây là
mốc son đánh dấu sự thay đổi về chất, chấm dứt sự khủng hoảng vai trò lãnh đạo, bế
tắc về đường lối cứu nước, mở ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam
1
Lênin (1963), Phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc phương Đơng, NXB Sự thật, Hà Nội, dẫn theo Ban
chấp hành Đảng bộ huyện Phú Ninh (2011), Lịch sử Đảng bộ Huyện Phú Ninh giai đoạn 1954-1975, Ban Thường
vụ huyện ủy, Sở Thông tin và Truyền thông Quảng Nam, tr.46
17
nói chung, của Tam Kỳ nói riêng. Từ đây, nhân dân đã có hạt nhân lãnh đạo phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 8 năm 1933, phủ ủy lâm thời Tam Kỳ được thành lập lại, khẩn trương phát
triển các tổ chức, cơ sở đảng, nâng cao ý thức giác ngộ chính trị cho quần chúng; bằng
các hoạt động tuyên truyền giáo dục, mittinh, diễn thuyết, treo băng cờ, khẩu hiệu, dán
áp phích, rải truyền đơn kêu gọi, cổ động nhân dân đoàn kết đấu tranh chống thực dân
Pháp và bọn quan lại phong kiến.
Cuối năm 1941 đầu 1942, phong trào cách mạng phát triển mạnh, phủ ủy Tam
Kỳ chỉ đạo tăng cường đưa đảng viên vào làm nòng cốt trong các tổ chức quần chúng,
tập hợp thành đội ngũ. Phủ ủy coi trọng vấn đề xây dựng lực lượng tự vệ, làm nịng cốt
cho việc khởi nghĩa giành chính quyền, chỉ đạo các chi bộ tuyển chọn một số hội viên
cứu nước hăng hái, trung kiến nhất thành lập các đội “Thanh niên xích vệ”, trang bị
gậy gộc, giáo mác làm nhiệm vụ bí mật bảo vệ cán bộ, bảo vệ các cuộc mittinh, diễn
thuyết, các cuộc họp kín của Đảng. Bị địch theo dõi và phát hiện, chúng tung lực lượng
đánh phá, nhiều cán bộ phủ ủy Tam Kỳ sa lưới mật thám, cơ sở đảng bị vỡ nặng,
phong trào quần chúng bị tổn thất nghiêm trọng.
Tháng 8 năm 1942 cơ sở đảng trên địa bàn phủ Tam Kỳ được phục hồi, phong
trào cách mạng dần dần phát triển, các tổ chức thanh niên, phụ nữ cứu quốc lần lượt
hình thành. Tháng 11 năm 1943, địch lại mở đợt khủng bố mới, phủ ủy và các chi bộ
hầu hết bị địch bắt, Tam Kỳ lại gặp khó khăn, phong trào cách mạng phải tạm lắng.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, trực
tiếp nắm quyền cai trị Đông Dương. Tại Tam Kỳ quân Nhật chiếm giữ cơ quan đầu
não của Pháp và Nam triều, tước vũ khí của lính khố xanh ở các đồn Đại Lý, Thương
Chánh, phủ đường và kho bạc, bắt các tên chỉ huy quân Pháp đem về giam tại Đà
Nẵng. Sau một thời gian Nhật đảo chính, các đồng chí tù chính trị lần lượt vượt ngục
hoặc ra tù về khá đông, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của địa
phương.
Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta cho đến khi khởi nghĩa giành
chính quyền, nhân dân thành phố Tam Kỳ đã liên tiếp đứng lên chống kẻ thù chung và
đã có những đóng góp tích cực trong tiến trình lịch sử dân tộc. Tinh thần yêu nước
nồng nàn, ý chí quật cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, tình yêu dân tộc, khát
khao độc lập tự do, là cội nguồn sức mạnh, là tiền đề thuận lợi, để khi Đảng lãnh đạo
nhân dân sẵn sàng đi theo Đảng đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong
kiến thực dân thối nát, giành chính quyền về tay nhân dân, viết tiếp những trang sử hào
hùng, vinh quang cho quê hương.
18
1.3.2. Âm mưu và thủ đoạn của địch đối với phong trào cách mạng Tam Kỳ
giai đoạn 1954–1965
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam. Ngày 21 tháng 7 năm 1954,
Hiệp định Giơnever về chấm dứt chiến tranh lập lại hịa bình ở Đơng Dương được kí
kết. Quy định nước Việt Nam tạm thời chia cắt thành hai miền, vĩ tuyến 17 (sông Bến
Hải, Quảng Trị) làm ranh giới tạm thời. Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, miền
Nam tạm thời do địch quản lý, hai năm sau tức vào khoảng tháng 7 năm 1956, dưới sự
giám sát của Ủy ban quốc tế, chính quyền của hai nước sẽ thực hiện hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước.
Tuy nhiên với âm mưu xâm lược nước ta từ lâu, nhân cơ hội này Mỹ quyết định hất
cẳng Pháp thay Pháp xâm lược Việt Nam. Sự kiện đầu tiên cho thấy âm mưu này chính
là ngày 16 tháng 6 năm 1954, Mỹ ép Pháp và Bảo Đại buộc thủ tướng bù nhìn Bửu
Lộc từ chức và đưa Ngơ Đình Diệm, tay sai của Mỹ lên thay. Ngày 7 tháng 7 năm
1954, nội các mới được thành lập do Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng. Ngày 8 tháng 9 năm 1954, Mỹ lập ra tổ chức “Hiệp ước Đông Nam Á” đặt
miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo hộ của Mỹ.[16, tr.362]
Âm mưu của Mỹ là tiêu diệt phong trào u nước của nhân dân ta, thơn tính miền
Nam, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam
châu Á, lấy miền Nam làm căn cứ để tiến cơng miền Bắc, hịng đè bẹp và đẩy lùi chủ
nghĩa xã hội ở vùng này và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Được Mỹ lựa chọn xây dựng thành căn cứ liên hợp hải, lục, không quân vừa làm
lá chắn bảo vệ miền Nam, vừa làm bàn đạp tiến công xâm lược miền Bắc, chiến trường
Quảng Namtrở thành nơi tập trung nhiều lực lượng phản động, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Quốc dân Đảng cấu kết với kẻ thù ra sức đánh phá phong trào
cách mạng, gây nhiều nợ máu với nhân dân. Sau tháng 7 năm 1954, chúng dựa vào
Pháp, thân Mỹ để chống cộng. Là địa bàn quan trọng của Quảng Nam, Tam Kỳ cũng
không thể tránh khỏi những âm mưu của địch. Ngô Đình Diệm dựa vào quân đội tiếp
quản những vùng các lực lượng vũ trang ta vừa rút đi. Tập hợp bọn địa chủ phản động,
tề điệp, Quốc dân đảng có mối thâm thù với cách mạng làm nền tảng cho chế độ thực
dân mới và thiết lập bộ máy thống trị ở cơ sở. Cải tổ quân đội Sài Gòn do Pháp xây
dựng thành quân đội Việt Nam cộng hòa của Mỹ, sử dụng làm công cụ bạo lực đàn áp
nhân dân. Ngày 31 tháng 8 năm 1954, địch tập trung hai tiểu đoàn bảo an trong quân
đội Liên hiệp Pháp cùng với hàng trăm cảnh sát, công an, mật vụ và nhân viên hành
chính về tiếp quản địa bàn huyện Phú Ninh. Quân bảo an đóng tại những nơi tập trung
đông dân cư như: nội ô thị xã Tam Kỳ, chợ Quán Rường, ngã ba Trường Chẩn (Tam
19
An), chợ Cẩm Khê (Tam Phước), ngã ba An Lâu (Tam Lãnh) để kiểm sốt tình hình.
Ngụy quyền phản động quận Tam Kỳ được thành lập, do tên Phan Thiệp, Quốc dân
đảng làm quận trưởng, trụ sở đóng tại đồn Đại Lý của Pháp trước năm 1945.
Khác với các huyện vùng bị chiếm, Tam Kỳ là vùng tự do, địch chưa có chính
quyền ở cơ sở, chưa nắm được các phần tử phản động, nên chúng phân tán các tiểu
đoàn bảo an, các đơn vị cảnh sát hỗ trợ cho bọn hành chính thiết lập quyền kiểm sốt ở
xã, thơn. Đặc biệt chúng dựa và bọn Quốc dân đảng trên địa bàn huyện để thành lập bộ
máy tay sai ở cơ sở; chọn những tên có ốn thù giai cấp, hoặc lưu manh côn đồ bổ
nhiệm vào các chức vụ chủ tịch, cảnh sát trưởng. Đây là những tên tay sai cực kỳ nguy
hiểm bởi từ lâu chúng luôn ngấm ngầm bám gót thực dân Pháp họat động, chống phá
cách mạng; nay gặp chủ mới chúng nhảy ra tranh giành quyền lực, gây nên tình hình
rất phức tạp và quyết liệt trong giai đoạn mới.[2, tr.94-95]
Từ ngày 1 tháng 9 năm 1954, chúng tập trung lực lượng tổ chức hành qn vào
tiếp quản các huyện phía Nam, Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Tiên Phước. Địch lập
sẵn bộ khung chính quyền và đưa về các quận đều là bọn Quốc dân đảng phản động.
Dưới quận chúng thành lập cấp khu, dưới khu là cấp xã, trong thôn lập các tổ tiên gia
để quản lý chặt chẽ người dân. Mỗi khu đều có nhà giam. Địch mở mittinh, tổ chức
nhân dân học tập đề cao Ngơ Đình Diệm, nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuyên tạc
đường lối cách mạng. Chúng lập danh sách và bắt đảng viên trình diện xuất thú, ai
chưa trình diện, chúng dùng loa truyền thanh kêu gọi và cho người đến từng nhà bắt đi.
Đến trung tuần tháng 9 năm 1954, địch thành lập trên địa bàn huyện 4 khu hành
chính: Khu nam đóng tại chợ Kỳ Chánh (Tam Anh, huyện Núi Thành ngày nay); khu
trung thành đóng ở Châu Thành (thành phố Tam Kỳ); khu tây đóng ở chợ Khánh Thọ
(Tam Thái); khu bắc đóng ở chợ Cẩm Khê (Tam Phước huyện Phú Ninh). Mỗi khu
quản lý từ 5 đến 6 xã và khẩn trương hình thành chính quyền xã, ấp, liên gia để kèm
kẹp, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân.
Tháng 10 năm 1954, địch bắt đầu đánh phá phong trào cách mạng ở Tam Kỳ, ráo
riết truy bắt cán bộ cốt cán ở lại bám trụ tại địa phương, mang đi thủ tiêu. Đầu tiên
chúng bắt và bí mật giết thầy giáo Phan Xuân Hỷ, nguyên là hiệu trưởng trường cấp II
của huyện tại xã Tam Thái, được phân công hoạt động trong phân bộ Đảng xã hội thị
xã Tam Kỳ. Phát hiện đồng chí Trần Châu, Phó Bí thư huyện ủy đang trên đường đi
công tác, địch tập trung lực lượng vay bắt và sau đó mang đi thủ tiêu tại Thăng Bình.
Tiếp theo, chúng bắt đồng chí Phạm Ngơn, xã đội trưởng dân quân xã Tam Dân đem đi
chông sống. Các đồng chí Huỳnh Kim Thanh, Đào Bính (Tam Vinh), Nguyễn Ngọc
Liễn (Tam Thăng) bị chúng bắt tra tấn, các đồng chí kiên cường chịu đựng, khơng khai
báo tổ chức, giữ vững thanh danh người đảng viên cộng sản và anh dũng hy sinh. Đây
20
là những cán bộ đầu tiên của huyện hy sinh chỉ sau gần hai tháng Hiệp định Giơnever
có hiệu lực.
Những tháng cuối năm 1954, địch ở Tam Kỳ nêu khẩu hiệu “diệt cán trừ cộng”,
“dĩ dân diệt cán”. Chúng bắt hàng trăm người có con em đi tập kết, những người tham
gia kháng chiến cũ, giam đầy nhà gian của các khu, xã để tra tấn, thanh lọc, truy tìm
cán bộ, đảng viên. Ở vùng biển Tam Thanh, tên Phạm Tồn Thắng chỉ huy bọn “cơng
an di động” vây bắt 5 cán bộ của ta trên đường vào Bình Định để tập kết ra Bắc, tra tấn
dã man và mang đi thủ tiêu. Bọn Quốc dân đảng lồng người vào bộ máy cai trị ở các
cấp để đàn áp, khủng bố có tính chất phục thù vơ cùng khốc liệt. Phần lớn các chi bộ
hoạt động bí mật, hợp pháp bị vỡ, đảng viên bị bắt. Tư tưởng của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân diễn biến theo một chiều hướng phức tạp, thậm chí đã có người
đầu hàng, khuất phục, làm tay sai cho địch.
Sang năm 1955, sau khi đặt được bộ máy hành chính, Mỹ Diệm bắt đầu thực hiện
chiến dịch “Tố cộng”, “Diệt cộng”. “Tố cộng” là âm mưu lâu dài của Mỹ-Diệm nhằm
tấn cơng tiêu diệt Đảng Cộng sản, xóa sạch mọi ảnh hưởng của Đảng trong dân. Chúng
mở liên tục các chiến dịch “Tố cộng” như “Chiến dịch Phan Châu Trinh”, “Chiến dịch
Trịnh Minh Thế” (7/1955), “Chiến dịch Thanh Minh tố cộng” (cuối 1955), “chiến dịch
càn quét vi trùng cộng sản” (4/1956). [ 16, tr.369-370]
Tại Tam Kỳ chúng đưa về mỗi xã một “đồn cơng dân vụ”, gồm những tên tay
sai khét tiếng ác ôn, bọn này được huấn luyện các biện pháp truy tìm, phát triển cơ sở
cách mạng, tra khảo người bị bắt. Được sự hỗ trợ và phối hợp của lính bảo an, chúng
đánh phá, khủng bố, đàn áp hết sức quyết liệt phong trào cách mạng, để thực hiện cái
gọi là “quét sạch địa bàn”, “tẩy não cộng sản”. Trước tiên bọn “công dân vụ” về từng
thôn, xã phân loại nhân dân làm 3 loại: Loại “công dân bất hợp pháp” gồm đảng viên,
cán bộ quân đội, công an trong kháng chiến cũ, những gia đình có con em tập kết ra
Bắc, những người có tinh thần yêu nước, tham gia cách mạng, chúng cho là có hại cho
nền an ninh quốc gia nên cần phải truy diệt. Loại “công dân bán hợp pháp” gồm những
quần chúng tham gia kháng chiến, có liên quan trong tổ chức mới của cách mạng,
người có mối quan hệ thân thích với những gia đình có con em tham gia kháng chiến,
cần ngăn chặn để khỏi theo cách mạng. Loại “công dân hợp pháp” gồm những gia đình
có người là Quốc dân đảng, địa chủ, tay sai trong bộ máy tay sai được chúng tin tưởng.
Dựa vào sự phân loại này, chỉ trong một thời gian ngắn chúng đã bắt hàng trăm
người thuộc loại “bất hợp pháp” và “bán hợp pháp” vào các trại tập trung ở các khu,
quận, tỉnh để “tố cộng”. Các trại tập trung được gọi là “trường cải huấn”, nhưng thực
chất đây là nơi hành hạ thân xác, hủy hoại tinh thần của những người bị bắt đi “tố
cộng”. Đầu tiên chúng tuyên truyền các loại tài liệu phản động. Những cán bộ, đảng
viên kiên cường không khai báo chúng tra tấn bằng nhiều cách như: Cột tay chân rút
21