ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài
CƠNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO “DI CHÚC”
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bảo Tiên
Lớp 16SGC
Giảng viên hƣớng dẫn: TS.Vƣơng Thị Bích Thủy
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2020
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài
CƠNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO “DI CHÚC”
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bảo Tiên
Lớp 16SGC
Giảng viên hƣớng dẫn: TS.Vƣơng Thị Bích Thủy
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khố luận tốt nghiệp với đề tài “Công tác xây dựng Đảng theo
“Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” là cơng trình nghiên
cứu của cá nhân tơi, khơng sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của riêng mình!
Ngƣời cam đoan
Nguyễn Thị Bảo Tiên
Lời cảm ơn!
Có được kết quả này, trước hết em xin gửi lời cảm ơn đến các
thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Sư
phạm – Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện giúp đỡ cho em nghiên
cứu và hồn thành khóa luận.
Đặc biệt, em xin chân thành bày tỏ tấm lòng cảm ơn sâu sắc
đến cơ giáo TS. Vương Thị Bích Thủy, người đã dày công dạy dỗ
em trong suốt thời gian qua, đã động viên, khuyến khích, giúp đỡ
và hướng dẫn em hồn thành khóa luận này.
Tuy nhiên, với lượng thời gian có hạn, khóa luận khơng tránh
khỏi những sai sót và hạn chế. Vì vậy, em mong nhận được sự góp
ý chân thành của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Bảo Tiên
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình ảnh 1.1
Bác Hồ viết “Di chúc”
Hình ảnh 1.2
Tồn văn bản “Di chúc” chính thức cơng bố của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đang dùng hiện nay
Hình ảnh 1.3
Đảng Cộng sản Việt Nam theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Hình ảnh 1.4
Đồn viên và thanh niên theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Hình ảnh 1.5
Nhân dân lao động theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hình ảnh 1.6
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước theo “Di chúc” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hình ảnh 1.7
Việc riêng theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hình ảnh 2.1
50 năm thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hình ảnh 2.2
50 năm thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 2019)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................................3
5. Bố cục của đề tài ........................................................................................................3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ..................................................................................4
NỘI DUNG ...................................................................................................................11
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG “DI CHÚC” CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH .................................................................................................11
1.1. Tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ..............................................11
1.1.1. Hồn cảnh ra đời Bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh .............................11
1.1.2. Nội dung cốt lõi của “Di chúc” ...........................................................................17
1.1.3. Giá trị lịch sử của “Di chúc” ...............................................................................23
1.2. Tƣ tƣởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ..........27
1.2.1. Về truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng ...............................................28
1.2.2. Về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình trong Đảng ......................................................................................................30
1.2.3. Về chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên .....................32
Kết luận chương 1 .........................................................................................................35
CHƢƠNG 2. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO “DI CHÚC” CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .....................................37
2.1. Khái quát về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng .............................................38
2.2. Thực hiện công tác xây dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay..............................................................................................44
2.3.1. Tăng cường xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng ..............................46
2.3.2. Thực hành dân chủ và nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong Đảng ...48
2.3.3. Chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên .........................53
Kết luận chương 2 .........................................................................................................57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .....................................................................................58
PHỤ LỤC .....................................................................................................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................68
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời và sự
nghiệp cách mạng của Người để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta di sản tư
tưởng vô cùng quý báu, được phản ánh trong các tác phẩm, văn phẩm, bài nói và bài
viết của Người. Đặc biệt, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại Bản “Di
chúc” lịch sử thấm đượm và kết tinh trong đó tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Người. Nghiền ngẫm trong suốt bốn năm (1965-1969), chắt lọc tình cảm và suy nghĩ
trong cả cuộc đời, “Di chúc” là lời nhắn nhủ, dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về Đảng cầm quyền và sự cần thiết
phải làm tốt công tác xây dựng Đảng; về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về
quản lý xã hội và các chính sách xã hội đối với con người sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi.
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945) và trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân xâm lược (chống Pháp (1946 – 1954) và chống Mỹ (1955
– 1975)), công tác xây dựng Đảng là một nội dung cơ bản trong đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, công tác xây
dựng Đảng càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Điều đó được thể hiện trong
nhiều nghị quyết quan trọng, trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến các Nghị quyết
của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, như Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khóa VIII về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay” (năm 1999); Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” (năm 2012); Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
(năm 2016)…vv…
Thực hiện công tác xây dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong những năm qua, cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả
tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao;
phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được
giữ vững, niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp đã trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý
1
thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ
nhân dân, được nhân dân tin yêu. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới trong
33 năm qua là thành quả của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta trong đó có sự đóng
góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi
mới vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm và yếu kém. Một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong đó có những cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống với những mức độ và biểu hiện khác nhau. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt niềm tin, dao động, hoài
nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; một số cán bộ có chức quyền
bị thối hóa, biến chất, tham nhũng, hối lộ, quan liêu, xa rời quần chúng. Trong công
tác quản lý đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật; vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, coi nhẹ tự phê bình và phê bình, gây mất đồn kết
ở một số địa phương. Những hạn chế, yếu kém nói trên đã làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và là nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và sự thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay.
50 năm qua, Tư tưởng về xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã và đang soi sáng con đường đi lên của đất nước và sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta. Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Di chúc” là
những chỉ dẫn quan trọng cho việc Đảng xác định đường lối, phương hướng, nhiệm
vụ, hoạch định chính sách, xây dựng chương trình hành động cho toàn Đảng, toàn dân,
đưa đất nước ta phát triển bền vững. Những chỉ dẫn của Người đã trở thành nguồn cổ
vũ lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Kỷ niệm 50 năm thực hiện “Di chúc”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có cơ sở vững chắc để khẳng định muốn xây
dựng chỉnh đốn Đảng có hiệu quả, ngăn ngừa được suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa thì phải thực sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.
Kỷ niệm 50 năm thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp để chúng
ta ôn lại, thấm nhuần và thực hiện tốt những lời căn dặn tâm huyết cuối cùng của
Người. Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng theo “Di chúc”, cần quán triệt việc học tập và thực hiện tốt những nội
2
dung cơ bản trong Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI, khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quán triệt và thực hiện những
chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong “Di chúc”, coi trọng công
tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong thời
kỳ mới là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Công tác xây dựng Đảng
theo “Di chúc”của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Qua việc phân tích nội dung, ý nghĩa và giá trị của tư tưởng xây dựng Đảng trong
tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đề tài đề xuất các giải pháp tiếp tục
thực hiện công tác xây dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phân tích làm rõ nội dung và giá trị của tư tưởng xây dựng Đảng trong
tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, làm rõ các giải pháp tiếp tục thực hiện công tác xây dựng Đảng theo “Di
chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng xây dựng Đảng trong tác phẩm “Di
chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Đề tài nghiên cứu tư tưởng xây dựng Đảng trong tác phẩm “Di chúc” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh (1965 – 1969) và vận dụng vào công tác xây dựng Đảng trong giai
đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp: hệ thống hóa, khái qt hóa, phân tích,
so sánh, tổng hợp, logic và lịch sử.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương, 5 tiết:
3
Chương 1: Tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chương 2: Cơng tác xây dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu; trong những năm qua đã có khá nhiều cơng
trình, tác phẩm, bài báo, bài viết liên quan đến vấn đề này được công bố. Những thành
quả đạt được rất đáng trân trọng, với nhiều đóng góp có giá trị lý luận to lớn và giá trị
thực tiễn sâu sắc. Tiếp cận nguồn tài liệu nghiên cứu đề tài, chúng tơi nhận thấy có các
hướng nghiên cứu chính sau đây:
* Thứ nhất, những cơng trình khoa học nghiên cứu về tác phẩm “Di chúc” và
tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tiêu biểu trong số đó trước hết phải kể đến tác giả Vũ Kỳ với cuốn sách “Bác
Hồ viết Di chúc và Di chúc của Bác Hồ” [39]. Đây là cuốn hồi kí quý giá của tác giả
Vũ Kỳ kể về những ngày tháng được sống và làm việc cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, về
quá trình ra đời, thời điểm viết “Di chúc” của Người. Tác giả khẳng định “Di chúc”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vơ giá, mãi mãi khắc sâu trong tâm
khảm mỗi người dân Việt Nam. Tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa với “Di chúc Chủ tịch
Hồ Chí Minh soi sáng con đường cách mạng Việt Nam” [40]. Cuốn sách gồm 3
phần: “Di chúc” Chủ tịch Hồ Chí Minh – sự kết tinh bản lĩnh và trí tuệ của Người;
Nửa thế kỷ thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Tiếp tục thực hiện “Di
chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Tác giả đã khẳng định giá trị lịch
sử và ý nghĩa hiện thực mà “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho tồn Đảng,
tồn dân và toàn quân ta; đồng thời nêu lên những định hướng tiếp tục thực hiện “Di
chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới.
Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản cuốn sách “Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nguồn sáng dẫn đường” [45]. Cuốn sách có giá trị
như một cơng trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền, một tác phẩm
bàn về xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một phác thảo lớn
về chiến lược phát triển và hội nhập của đất nước ta. Đó là tầm vóc vĩ đại của trí tuệ,
tư tưởng, tâm hồn, đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh. Bản “Di chúc” của Người được
xem là cương lĩnh chiến lược, là chương trình hành động soi sáng con đường cách
4
mạng Việt Nam.
Tác giả Phạm Ngọc Anh trong “Nghiên cứu, học tập Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [2] đã tập hợp các bài viết của học viên lớp cao học Hồ Chí Minh học
(K20) thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu về những nội dung
cốt lõi trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các bài viết trong cơng trình này
giúp người đọc thấy rõ hơn tình cảm của Người đối với toàn Đảng, toàn dân ta cùng
những tư tưởng, nghĩ suy, tâm nguyện thiết tha của Người về những vấn đề hệ trọng
của đất nước: về Đảng, về giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau... Cuốn sách giúp bạn đọc hiểu thêm về dự báo
của Người về tình hình thế giới và trong nước; niềm mong ước cuối cùng của Người
về một nước Việt Nam “hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội phối hợp với Bảo tàng Hồ
Chí Minh xuất bản cuốn “Giá trị nhân văn của Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
[3]. Cuốn sách này nằm trong bộ sách “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” được phát hành nhằm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-52016 của Bộ Chính trị (khóa XII). Đây là tác phẩm có giá trị thực tiễn sâu sắc, phản
ánh tầm tư duy chiến lược và tình cảm thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với toàn
Đảng, toàn dân ta. Với hơn 300 trang sách, 24 bài viết đã tập trung làm rõ những giá
trị nhân văn cơ bản của “Di chúc” về vấn đề đoàn kết quốc tế; về quyền bình đẳng đối
với phụ nữ; về vấn đề bảo vệ môi trường... Trong tác phẩm “Xây dựng đất nước phồn
vinh theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” [42], tác giả Bùi Đình Phong đã giới
thiệu những nội dung cơ bản của “Di chúc”. Đi từ phân tích một số khía cạnh trong
văn bản “Di chúc” đến quá trình hơn 30 năm đổi mới, tác giả đã làm rõ quá trình Đảng
và Nhà nước ta từng bước thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu
xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh theo mong ước của Người.
Nhà nghiên cứu Hoàng Chí Bảo với bài viết “Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người” [4], đề cập đến những tư tưởng
lớn về đạo đức, về thực hành đạo đức cách mạng và phong cách Hồ Chí Minh trong
“Di chúc” của Người. Bài viết đã nhận định Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách Hồ Chí
Minh là một chỉnh thể tồn vẹn, chân thực, sống động, uyên bác, uyên thâm nhưng vô
cùng giản dị, gần gũi với con người, với đời sống thường nhật. Tác giả Phạm Ngọc
Trâm trong bài viết “Đại đồn kết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” [44], đã
khẳng định tư tưởng đại đoàn kết trong “Di chúc” là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
5
trong đường lối cách mạng Việt Nam. Tác giả Trần Thị Phúc An với bài viết “Thực
hiện dân chủ theo Di chúc của Bác Hồ - Yếu tố quyết định thắng lợi của Đảng” [1]
cho thấy dù 50 năm đã trôi qua, nhưng những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong “Di chúc” vẫn tiếp tục soi sáng cho Đảng và nhân dân Việt Nam trong
công cuộc xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, tiến bộ và văn minh. Bài viết “Công
tác bồi dưỡng thanh niên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” [5] của Nguyễn
Quang Bình đã đề cập đến cơng tác bồi dưỡng, giáo dục thanh niên cho cách mạng
được đề cập phong phú, toàn diện trong “Di chúc” của Người.
Tác giả Nguyễn Văn Cơng trong các bài viết của mình “Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết Di chúc” [8]; và “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh văn kiện lịch sử vô giá của
Đảng và nhân dân ta” [9] đã nêu lên q trình Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Di chúc”.
Qua đó khẳng định, “Di chúc” của Người có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; là
những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả Hà Đăng với “Bản Di
chúc bất hủ” [11]; Trần Hoàng với bài viết “Chữ “dân” và Di chúc Bác Hồ” [21];
nhóm tác giả Hạ Chí Nhân, Nguyễn Xuân Thu với “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh –
Lời căn dặn bất hủ” [41]. Các tác giả với các bài viết trên đã khái quát lại những lời
căn dặn trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; những lời căn dặn đó ln là kim
chỉ nam cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước.
Kỉ niệm 50 năm thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhiều Hội
thảo Khoa học các cấp đã tổ chức trong phạm vi cả nước, kết quả của Hội thảo được
xuất bản thành những Kỷ yếu Khoa học có giá trị. Tiêu biểu trong số đó là: Kỷ yếu
Hội thảo Khoa học “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Ánh sáng của trí tuệ và
niềm tin” [38] của Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện chính trị Khu vực II) và
Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh); Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh” [37] của Khoa Lý luận chính trị và Khoa Kinh tế chính trị, Trường
Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng; Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh” [6] của Ban Bí thư Trung
ương Đồn, Ban Tun giáo Trung ương và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
phổi hợp tổ chức. Hàng trăm bài tham luận của các nhà khoa học trong các Kỷ yếu nói
trên đã đề cập về các nội dung trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ý nghĩa
của việc vận dụng những nội dung của “Di chúc” vào công cuộc đổi mới đất nước.
6
Bên cạnh đó, có rất nhiều bài viết khác đăng tải trên các báo và các phương tiện
truyền thông của các cơ quan Đảng và Nhà nước như “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh định hướng cho cách mạng Việt Nam cả hôm qua, hôm nay và cho cả ngày mai”
của tác giả Vũ Văn Phúc. Nhóm tác giả Vũ Văn Phúc và Bùi Thế Đức với bài “50 năm
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những nỗ lực và thành tựu tự hào”.
Nguyễn Trọng Phúc với “Đọc lại Di chúc của Bác, nghĩ về trách nhiệm nêu gương”,
tác giả Hồng Chí Bảo với “Những tư tưởng lớn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”. Nguyễn Xuân Trung với bài “Đoàn kết quốc tế theo Di chúc của Bác Hồ”…
Các tác phẩm, cơng trình, bài viết nói trên đã nghiên cứu một cách có hệ thống,
khái quát những nội dung cốt lõi trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kết quả
nghiên cứu từ những cơng trình nói trên đã khẳng định “Di chúc” là tác phẩm có giá trị
lý luận và ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc, giúp cho Đảng và nhân dân ta nhận thức
sâu sắc và toàn diện hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề cần
phải tiếp tục nghiên cứu trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng
cuộc đổi mới đất nước.
* Thứ hai, những cơng trình khoa học nghiên cứu về thực hiện công tác xây
dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Thơng tấn xã Việt Nam phối hợp với Viện Hồ Chí Minh và Bảo tàng Hồ Chí
Minh biên soạn, xuất bản cuốn sách ảnh “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (1969-2019)” [46]. Cuốn sách đã giới thiệu tới người đọc bút tích “Di chúc”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Bằng những hình ảnh sinh động, phong phú, cuốn sách đã tổng kết những
thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam qua 50 năm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta phấn đấu thực hiện tâm nguyện của Người trước lúc đi xa. Cuốn sách giúp chúng ta
ôn lại những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự soi lại mình, thêm ý chí, quyết
tâm và sức mạnh cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung tâm Giới thiệu sách Thành Phát phối hợp với Nhà xuất bản Hồng cho ra
mắt cuốn “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 29/91969 –
29/9/2019” [48]. Cuốn sách gồm 9 phần, đề cập đến những nội dung cơ bản về tiểu sử
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; bút tích và tồn văn “Di chúc” của Người; khẳng định
công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản “Di chúc” trường tồn cùng lịch sử.
Cơng trình này cũng đã khái qt những thành tựu đạt được và bài học qua 50 năm
thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục
7
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Một số bài viết đăng trên các tạp chí như “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
việc xây dựng Đảng về đạo đức” của tác giả Lê Trọng Tuyến [47] đã cho thấy một
trong những giá trị tư tưởng thể hiện sâu sắc trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Đây là tư tưởng có giá trị thực tiễn sâu sắc,
góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện
nay. Tác giả Phạm Ngọc Hòa với “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi soi đường
cho cơng tác xây dựng Đảng hiện nay” [20] đã đề cập đến một số vấn đề như: tư
tưởng về xây dựng Đảng; sự cần thiết phải làm tốt công tác xây dựng Đảng; một số
giải pháp nhằm xây dựng Đảng ta ngày càng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt theo
“Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác giả Lê Văn Phục với “Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay” [43] trình bày tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng Đảng và việc vận dụng tư tưởng của Người
trong “Di chúc” vào xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Có khá nhiều bài báo nghiên cứu về Tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng tải trên các phương tiện truyền thơng và Internet. Tiêu
biểu trong số đó là: “Đề cương tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương [49]; Lại Quốc Khánh với bài viết “Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đồn kết trong Đảng thời kỳ đổi mới” [50];
bài viết “Từ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về cơng tác xây dựng Đảng” của
tác giả Nguyễn Viết Thông [51]…Những bài viết này đã nghiên cứu Tư tưởng xây
dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay. Các tác giả khẳng định rằng,
những lời căn dặn trong “Di chúc” không chỉ là tâm tư, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mà cịn là những chỉ dẫn có giá trị lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng
đất nước ngày nay.
Thực hiện những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Di chúc”, từ Đại hội
lần thứ VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết về công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng như: Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI): “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”
(năm 1988); Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và
chỉnh đốn Đảng” (năm 1992); Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 - khoá VIII) về “Một
số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” (năm 1999);
8
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (năm 2006) … Những nghị quyết này
là cơ sở để Đảng lãnh đạo toàn dân tiếp tục thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong thời kỳ đổi mới. Trong năm 2016, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ [19]. Nghị quyết
này đã nhận diện đúng và lần đầu tiên chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Xem xét, đối chiếu những biểu hiện cụ thể này hoàn toàn thuộc về tư
cách, đạo đức cách mạng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong “Di chúc”.
Trong kỷ yếu Hội thảo Khoa học “50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [37] của Khoa Lý luận chính trị, Khoa Kinh tế chính trị, Trường Đại học
Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, tác giả Võ Anh Tuấn với cơng trình “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đồn kết thống nhất trong Đảng”; tác giả Trần Ngọc Ánh trong “Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác, xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay”; “Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết trong nội bộ Đảng trong “Di chúc” vào công tác
xây dựng Đảng hiện nay” của tác giả Trịnh Sơn Hoan và Trịnh Quang Dũng; tác giả
Lê Minh Thọ với bài viết “Xây dựng chỉnh đốn Đảng trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay”; “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
soi đường cho công tác xây dựng Đảng hiện nay” của tác giả Trương Quang Khải và
Phạm Ngọc Hòa; tác giả Phạm Huy Thành với “Văn hóa chính trị trong tác phẩm “Di
chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh”...Các bài viết trên đã đề cập đến việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng rất khó khăn và phức tạp, địi hỏi phải thể chế hóa sự lãnh đạo của
Đảng bằng những quy phạm pháp luật cụ thể. Các bài viết, cơng trình trên đã làm rõ
nội dung và ý nghĩa của công tác xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, làm cơ sở cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh thời kỳ đổi mới.
Nhìn chung, các tác phẩm, cơng trình, bài viết nói trên đã nghiên cứu một cách
có hệ thống, khái quát những cống hiến sáng tạo về tư tưởng lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã cho thấy tầm quan trọng của Tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc”,
định hướng và gợi mở cho Đảng và nhà nước ta nhiều vấn đề quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Những cơng trình nghiên cứu của các
9
tác giả nói trên đã đạt được kết quả rất đáng ghi nhận, là đóng góp có giá trị đối với
việc nghiên cứu Tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đây cũng là điều kiện thuận lợi và là nguồn tài liệu tham khảo q báu giúp cho chúng
tơi trong q trình nghiên cứu đề tài này.
Trong nhiều năm qua, sự vận dụng tư tưởng xây dựng Đảng trong “Di chúc” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cơng tác xây dựng Đảng trong tình hình mới đã được nhiều
tác giả quan tâm. Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả hết sức phong phú, đa
dạng, mang tính tổng hợp cao. Tuy nhiên, trong tổng thể đó vẫn cịn nhiều vấn đề cần
phải được tiếp tục nghiên cứu và phát triển thêm, đặc biệt là vấn đề thực hiện công tác
xây dựng Đảng theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đây chính là động lực khích lệ chúng tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài này.
10
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG “DI CHÚC” CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.1. Tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam, là người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Trải qua hơn 60
năm đấu tranh cách mạng bất khuất kiên cường, đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự
nghiệp đấu tranh vì tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
Trước khi vĩnh biệt chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần
vô cùng quý giá hội tụ những tinh hoa, đạo đức nhân văn, nội dung tư tưởng cốt yếu
định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước, thương dân, toàn tâm toàn ý phục
vụ nhân dân của vị lãnh tụ vĩ đại, là di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cương lĩnh
xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc. Điểm chung nhất toát lên khi nghiên
cứu “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bản “Di chúc” chứa đựng cả hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết quốc tế, về xây dựng Đảng,
về đạo đức cách mạng...
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hình ảnh 1.1. Bác Hồ viết “Di chúc”
(Nguồn: />11
* Hoàn cảnh quốc tế
Trong những năm 1960 – 1964, tình hình Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa
gặp nhiều khó khăn, mặc dù vậy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng và
nhân dân ta vẫn nhận được sự ủng hộ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và bạn
bè quốc tế. Liên Xô lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam
và khẳng định vai trò của họ khi đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
Giữa lúc đế quốc Mỹ đang mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên khắp lãnh thổ
miền Nam Việt Nam, Liên Xơ đã cử đồn đại biểu cấp cao của Đảng và Chính phủ
sang thăm và cam kết viện trợ quân sự cho nước ta và đề nghị các nước xã hội chủ
nghĩa thống nhất hành động để đối phó tình hình trên.
Cũng trong thời gian này, Nhà nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung
Quốc) đang thực hiện cuộc “Đại cách mạng văn hóa”; giữa Liên Xơ và Trung Quốc có
sự bất hịa, mặc dù trước đó Trung Quốc đã giúp đỡ và ủng hộ chúng ta rất lớn trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược; tuy nhiên do sự bất hịa nên Trung
Quốc khơng hưởng ứng lời đề nghị của Liên Xô. Lợi dụng mâu thuẫn trên, đế quốc
Mỹ đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và phá hoại miền Bắc, chúng
còn mở rộng hành động can thiệp, xâm lược ở hai nước Lào và Campuchia. Tình hình
này đã làm cho cuộc đấu tranh của quân và dân ta gặp nhiều khó khăn và phức tạp
hơn, đòi hỏi Đảng ta phải phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, tự chủ, tự lực, tự
cường, nhận định, phân tích, so sánh tương quan lực lượng giữa ta với quân địch, để
đề ra đường lối, phương châm, phương pháp sáng tạo đúng đắn để giải phóng đất
nước, đưa cách mạng đến thành cơng.
Tháng 3/ 1965, Mặt trận đồn kết nhân dân ba nước Đơng Dương hình thành và
là một lực lượng mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của ba nước
Việt Nam – Lào – Campuchia.
Cũng trong thời gian này tại nước Mỹ, “…nhiều đoàn thể và nhân sĩ Mỹ đang địi
Chính phủ họ chấm dứt ngày cuộc chiến tranh phi nghĩa và rút ngay quân đội Mỹ ra
khỏi miền Nam Việt Nam” [35, tr.532], thậm chí có một số cơng dân Mỹ đã tự thiêu
để phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, phong trào đấu tranh vì hịa bình, dân chủ của nhân dân thế giới diễn ra mạnh
mẽ. Đế quốc Mỹ đã nhận được sự phản ứng quyết liệt, làn sóng đấu tranh dưới nhiều
hình thức ủng hộ chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, phong trào phản đối
12
chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
* Hoàn cảnh trong nước
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết “Di chúc”. Đúng thời điểm
này, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta bị thất bại
hoàn toàn bởi sự tấn công quyết liệt của quân và dân ta. Ngoan cố và liều lĩnh, đế quốc
Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, chính quyền Giơnxơn thực hiện chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” hịng tiêu diệt bộ đội chủ lực của Quân giải phóng miền
Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của
Mỹ đánh phá huỷ diệt miền Bắc vào ngày 7/2/1965. Đây là giai đoạn Mỹ tiến hành
chiến tranh xâm lược ở mức độ cao trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, chúng ồ ạt đưa
quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Tình hình này đặt cách
mạng nước ta đứng trước thử thách khó khăn và vơ cùng khắc nghiệt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta khơng bất ngờ trước việc đế quốc Mỹ
mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. Trước đó, vào tháng 3/1964, trước âm
mưu của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị chính trị
đặc biệt tại Hà Nội [35, tr.271]. Người khẳng định: nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đụng đến
miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại thảm hại. Người kêu gọi đồng bào miền
Bắc ra sức thi đua “mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam
ruột thịt” [35, tr.278]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Chấp hành Trung ương
Đảng thể hiện ý chí của tồn dân tộc ta, sẵn sàng chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm
lược để bảo vệ miền Bắc và chi viện tích cực cho cách mạng miền Nam.
Cuối tháng 3 - 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III họp Hội nghị
Trung ương lần thứ 11, bàn về tình hình, nhiệm vụ cấp bách trước mắt và xác định
đường lối chống Mỹ cứu nước cho cả miền Nam và miền Bắc. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ 11 chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ sẽ tăng cường hoạt động với mức độ ác
liệt và thâm độc hơn (càn quét, đánh phá bằng không quân và pháo binh, khủng bố,
mua chuộc, v.v.) để cố giành lại một số mục tiêu chiến lược đã mất và cải thiện tình
hình qn sự và chính trị của chúng. Đồng thời, chúng mở rộng hoạt động không quân,
ném bom, bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm cho ta giảm sức tấn công chúng ở
miền Nam, hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, dùng sự đe dọa mở rộng
chiến tranh tạo ra một dư luận trên thế giới ép ta phải nhân nhượng chúng, ngừng cuộc
đấu tranh cách mạng yêu nước ở miền Nam…” [9, tr. 97 – 98]. Trước tình hình đó,
thực hiện đường lối của Đảng thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
13
11, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ
xâm lược; Người kêu gọi và lãnh đạo quân dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Đầu năm 1965, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã chuyển
sang trạng thái thời chiến với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa là hậu phương lớn để miền Nam tiếp tục kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà quân Mỹ là nòng cốt diễn ra ở miền Nam qua hai
mùa khô 1965 – 1966, 1966 – 1967 và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không
quân, hải quân Mỹ đã đứng trước nguy cơ phá sản hồn tồn. Trong thế thắng đó,
Đảng ta chủ trương đánh một đoàn chiến lược vào ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương chiến lược này, Tết Mậu Thân 1968, ta mở cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến cơng
đã làm thất bại hồn tồn chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc
chúng phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari.
Tuy nhiên, do bản chất xâm lược và hiếu chiến, ngoan cố, chúng bắt đầu áp dụng
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam.
* Q trình Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Di chúc”
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang vào giai đoạn
gay go, phức tạp với nhiều khó khăn chồng chất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảm thấy
sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
bắt đầu viết những dòng đầu tiên của “Di chúc” vào lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965.
Mở đầu tập tài liệu, Người viết: “Việt Nam dân chủ cộng hòa/ Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc”. Cho đến tấn bây giờ 3 mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn là đích đến
của tồn thể dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Di chúc” trong khoảng
thời gian từ 1965 – 1969. Trong quá trình viết “Di chúc”, Người đã thể hiện tinh thần
và trách nhiệm của một lãnh tụ cách mạng kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Những năm tháng cuối cùng của cuộc đời mình, Người
đã toàn tâm, toàn ý, tập trung thời gian, dồn mọi sức lực và trí tuệ để truyền tải những
nội dung cơ bản, những quan điểm cốt yếu trong tư tưởng của Người để hoạch địch
đường hướng tương lai phát triển cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào
trong “Tài liệu Tuyệt đối bí mật”.
Các năm 1966, 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có những bản viết riêng.
Bước sang năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yếu đi nhiều, các bác sĩ không để
14
Người đánh máy chữ vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe nên Người viết tay 6 trang
nhằm bổ sung một số đoạn. Trong đó, Người viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói “về
việc riêng” đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn
nói về những cơng việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình liệt sĩ,
thương bệnh binh, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông
nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc,
khôi phục và phát triển kinh tế, văn hố, củng cố quốc phịng, chuẩn bị thống nhất đất
nước.
Ngày 10/5/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lại toàn bộ đoạn mở đầu “Di chúc”,
gồm một trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19/5/1969, Người còn
tiếp tục sửa chữa bản “Di chúc” của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ ngày
19/5/1969, là kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 79 của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
lần cuối cùng tất cả các bản “Di chúc” đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong bì
và cất đi…[39].
Bản “Di chúc”của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang
của Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14, 5 cm x 22 cm. Ngày 19/8/1989, Bộ
Chính trị ra Thơng báo số 151-TB/TW “Về một số vấn đề liên quan đến “Di chúc” và
ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh” khẳng định “Di chúc” cơng bố chính thức
năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo
bản Người viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về
việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số
vấn đề trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được Đảng ta công bố, như:
việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác
xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khố VI) đã quyết định cơng bố tồn bộ
các bản viết “Di chúc” của Người.
15
Hình ảnh 1.2. Tồn văn bản “Di chúc” chính thức cơng bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang dùng hiện
nay
(Nguồn: />
16
1.1.2. Nội dung cốt lõi của “Di chúc”
Bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vơ giá, được
viết từ trái tim, trí tuệ và tư tưởng của một vĩ nhân. “Di chúc” của Người là sự hội tụ
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, hòa quyện, chắt lọc tinh hoa văn hóa của
nhân loại; đã đi vào lịch sử và trở thành một tài sản vô giá của dân tộc ta. “Di chúc”
của Người là sự kết tinh trí tuệ của một nhà tư tưởng lỗi lạc, bởi trong đó thể hiện tâm
huyết của một con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”; là tầm cao của một con người
đã dành cả cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân
dân Việt Nam, vì hịa bình, tiến bộ trên tồn thế giới.
Sự kết tinh trí tuệ trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trước
hết trong ngơn từ diễn đạt. Là người Việt Nam yêu nước, hơn ai hết Hồ Chí Minh am
hiểu mục đích, giá trị của thể loại “Di chúc” theo truyền thống văn hóa phương Đơng.
Đồng thời, Người hiểu rõ cuộc đời của mỗi con người, ai cũng phải tuân theo quy luật
của tạo hóa: “sinh, lão, bệnh, tử”. Tuy nhiên, trong “Di chúc”, người ta khơng thấy có
chỗ nào “lâm ly, tử biệt”, mà được diễn đạt, thể hiện một cách tự nhiên, thanh cao, cơ
đọng và giản dị về ngơn từ, như cách nói của Người, “tơi để sẵn mấy lời này, phịng
khi tơi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác” [36, tr.611].
“Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tâm nguyện, là tình cảm, ý chí, trách nhiệm
đối với Tổ quốc, đối với nhân dân và sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trước hết nói về Đảng
Trong Bản “Di chúc”, khi viết những điều căn dặn cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhắc tới sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người coi việc giữ gìn sự đồn
kết thống nhất trong Đảng là yêu cầu hàng đầu, là nhân tố quan trọng đảm bảo cho
Đảng thực sự vững mạnh và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Để thực hiện tốt sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng, Người không quên nhắc nhở “Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình” [36, tr.622]. Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đồn
kết thống nhất trong Đảng. Người khẳng định: “Phải có tình đồng chí thống nhất trong
Đảng”, Người coi đó là nhân tố quan trọng để đoàn kết trong Đảng, coi trọng tình cảm
đồng chí và giai cấp trong Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
17
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [36, tr.621]. Các phẩm chất
đạo đức cách mạng mà Bác nhấn mạnh ở trên chính là những phẩm chất làm cho Đảng
ta thật sự trong sạch - “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” [36, tr.622], để dẫn dắt
dân tộc ta tiến lên.
Hình ảnh 1.3.: Đảng Cộng sản Việt Nam theo “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Nguồn: />
Trước đây, khi chưa có chính quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng giành chính
quyền, khi giành chính quyền thì Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Về trách nhiệm
của một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu Đảng cầm quyền không
xứng tầm, chưa là tinh hoa của đất nước thì sự nghiệp cách mạng khơng thể thắng lợi.
Đây chính là tầm nhìn xun lịch sử của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng
định: người đảng viên “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành
của nhân dân” [36, tr.622]. Là người lãnh đạo, đảng viên phải có trí tuệ hơn người,
minh mẫn, sáng suốt; biết nhìn xa trơng rộng và trọng dụng những người hiền tài, đức
độ. Nghĩa là người lãnh đạo phải vừa “hiền” lại vừa “minh”. Đảng phải tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, phải “lo trước cái lo của thiên hạ, vui
sau cái vui của thiên hạ”. Có như vậy Đảng mới vì dân và phục vụ nhân dân.
Tháng 5/1968, khi xem lại “Di chúc”, Người thấy cần phải viết thêm mấy điểm
không đi sâu vào chi tiết. Người căn dặn: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của
18