ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
Biên soạn: TS. TẠ MINH
Lưu hành nội bộ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2007
Phần 2: Một số chuyên ngành Xã hội học cụ thể;
LỜI NÓI ĐẦU
Phần 3: Phương pháp và kỹ thuật điều tra Xã hội
Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về xã hội, về
hệ thống các mối quan hệ xã hội của con người. Tuy còn là
một ngành khoa học mới mẻ ở nước ta, nhưng trong sự tồn
tại và phát triển, xã hội học đã và đang trở thành ngành khoa
học có vị trí quan trọng đối với tất cả các lónh vực của đời
sống xã hội. Những tri thức nhập môn Xã hội học và phương
pháp luận của nó ngày càng trở nên thiết thực và có tác dụng
không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần X (18/04/2006 – 25/04/2006) của Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến vai trò của các ngành
khoa học, trong đó có khoa học xã hội – có ý nghóa cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội nước ta
hiện nay.
Trong quá trình biên soạn cuốn Xã hội học Đại cương,
chúng tôi dựa vào chương trình giáo dục Đại học đại cương
do Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định năm 1995. Chúng tôi
cũng đã cố gắng tham khảo, chọn lọc nhiều nguồn tài liệu
của các tác giả trong và ngoài nước, đã dựa vào thực tiễn
sinh động của đời sống xã hội ở nước ta trong hơn hai mươi
năm đổi mới. Đặc biệt, chúng tôi đã tham khảo những tài
liệu của Giáo sư, Tiến só Phạm Tất Dong, Phó giáo sư - Tiến
só Nguyễn An Lịch, Phó giáo sư - Tiến só Nguyễn Minh Hòa,
Tiến só Vũ Quang Hà cùng một số tài liệu của các tác giả
khác.
học.
Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ lòng cám ơn Phó giáo
sư - Tiến só Trần Thị Kim Xuyến, Trưởng Khoa Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia TP.HCM đã đọc và đóng góp những ý kiến quý
báu, được thực hiện trong Lời giới thiệu cho lần xuất bản đầu
tiên của cuốn sách này. Chúng tôi cũng xin cám ơn Tiến só
Trương Văn Vỹ, Thạc só Lê Văn Bửu, Thạc só Tăng Hữu Tân
và các bạn đồng nghiệp, đã động viên khích lệ và có những
ý kiến đóng góp về mặt kết cấu và nội dung của tài liệu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong khi biên soạn, cuốn sách
này không tránh khỏi những thiếu sót, mong sự lượng thứ của
độc giả và mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía
độc giả và các đồng nghiệp để sách Xã hội học đại cương
được hoàn thiện hơn trong lần tái bản.
Tác giả
ThS. Tạ Minh
Cuốn Xã hội học Đại cương gồm ba phần:
Phần 1: Khái quát lịch sử hình thành và phát triển Xã
hội học;
3
4
BÀI 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ HỘI HỌC
PHẦN I
I. SỰ RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI HỌC
Xã hội học là một ngành khoa học xã hội nghiên cứu
về con người với tư cách là chủ thể xã hội. Nghiên cứu cách
thức ứng xử và quan hệ của con người trong các nhóm xã
hội, trong các cộng đồng và các tổ chức hình thành nên xã
hội.
XÃ HỘI HỌC
LÀ MỘT KHOA HỌC
Thuật ngữ Xã hội học có nguồn gốc từ chữ La tinh
Societas nghóa là xã hội và chữ Hy Lạp Logos có nghóa là
học thuyết. Xã hội học cũng có nghóa là lý thuyết về xã hội.
Đây là một ngành khoa học mới ra đời, còn rất non trẻ so với
các khoa học xã hội khác. Lần đầu tiên thuật ngữ Xã hội học
được công bố năm 1839 bởi Auguste Comte (1798 - 1857),
một nhà triết học người Pháp, người sáng lập ra “chủ nghóa
thực chứng”. Ông cũng là người đầu tiên khởi xướng ra
ngành khoa học này, và được coi là cha đẻ, là thuỷ tổ của
ngành Xã hội học.
Hơn một thế kỷ qua, Xã hội học đã có những bước phát
triển quan trọng và nó đã thu được một số thành tựu to lớn
trên thế giới, có tác dụng không nhỏ trong đời sống xã hội.
Đặc biệt Xã hội học được áp dụng và phát triển mạnh ở các
nước công nghiệp phát triển. Lý luận Xã hội học đã thâm
nhập vào các lónh vực của đời sống xã hội, trở nên thân
thuộc với mọi tầng lớp nhân dân thông qua hệ thống giáo
dục của các trường đại học và cao đẳng. Đây cũng là môn
5
6
khoa học bắt buộc đối với sinh viên ở bậc đại học và cao
đẳng.
Sự phát triển của Xã hội học luôn gắn liền với sự phát
triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì
yêu cầu hiểu biết về Xã hội học càng cần thiết, vì nó luôn
trang bị những tri thức tiến bộ cho sự phát triển của nhân loại,
của đời sống xã hội con người cùng với mối quan hệ của nó.
Cùng với các ngành khoa học khác, Xã hội học đã chỉ ra
những con đường, những biện pháp, cách thức hoàn thiện,
phát triển các mặt của đời sống xã hội cho phù hợp với quy
luật vận động của xã hội.
Ở Việt Nam, khoa học xã hội còn rất mới mẻ nhưng nó
đã có những tác dụng nhất định trong việc nhận thức và ứng
dụng vào quản lý xã hội, quản lý đất nước, trong sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trên tất cả các lónh
vực của đời sống xã hội. Hơn lúc nào hết, trong điều kiện
hiện nay, muốn hoàn thành sự nghiệp đó cần phải phát huy
được vai trò của nhân tố con người, trong đời sống xã hội cần
phải không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ xã hội, Marx
đã cho rằng: Sự phát triển của xã hội, thể hiện ra trước hết là
hiện thực cải tạo thực tiễn của con người và hoạt động của
quần chúng nhân dân lao động được quy định bởi tiến trình
của lịch sử.
Là một môn khoa học về xã hội, môn khoa học nghiên
cứu về các quan hệ xã hội, nó ra đời do yêu cầu của bản
thân sự vận động xã hội, đặc biệt là trong những bối cảnh xã
hội có nhiều biến động. Là môn khoa học nghiên cứu về con
người, về cách ứng xử và quan hệ của con người trong các
nhóm, các tổ chức xã hội, sự ra đời của Xã hội học nhằm đáp
ứng ba nhu cầu căn bản sau đây:
7
Thứ nhất, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhận
thức xã hội. Con người là một thực thể xã hội, con người tồn
tại và phát triển trong xã hội. Và, trong tiến trình lịch sử con
người luôn muốn tìm hiểu thực chất mối quan hệ giữa người
với người trong đời sống xã hội. Do vậy, xã hội được tạo ra
bởi các quan hệ xã hội. Đó là mối quan hệ giữa người với
người được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Trong việc giải quyết những vấn đề của đời sống xã hội, cải
tạo xã hội thì con người phải nhận thức được xã hội, hiểu biết
được xã hội và phải có những kiến thức phong phú về một xã
hội hết sức đa dạng. Xã hội học phải nhận thức và nghiên cứu
xã hội mới có phương cách để biến đổi chúng nhằm mục đích
phục vụ con người. Khi nhận thức một xã hội cụ thể phải dựa
theo quan điểm lịch sử, cụ thể và căn cứ vào những tiêu chí
văn hóa, dân cư, dân tộc và đường lối, chính sách của một
quốc gia cụ thể. Đồng thời cũng cần phải phản ánh trung thực,
thực trạng xã hội rất phức tạp, đa dạng và phải tính đến đặc
điểm đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cụ thể trong điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt
động thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống của xã hội là hết sức
phong phú. Xã hội học luôn gắn liền với sự vận hành của
một xã hội cụ thể, luôn gắn liền với quá trình hoạt động thực
tiễn của con người trên tất cả các lónh vực của đời sống xã
hội. Xã hội học là một khoa học xuất phát từ thực tiễn và chỉ
có dựa vào thực tiễn thì nó mới thực hiện được các nhu cầu
khác.
Thứ ba, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của bản thân sự vận động của xã hội ngày càng đa
dạng, phong phú và hết sức phức tạp nhằm giải quyết những
vấn đề do cuộc sống của xã hội đặt ra.
8
II. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI
HỌC
1. Điều kiện kinh tế xã hội
Để cho Xã hội học ra đời thì nó phải hội đủ ba điều
kiện và tiền đề. Đó là điều kiện kinh tế - xã hội, là điều kiện
cơ bản nhất, nó phản ánh thực trạng kinh tế - xã hội trong
điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể – những diễn biến và biến
động diễn ra trong đời sống xã hội tư bản chủ nghóa. Đó là
cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ từ những năm giữa thế
kỷ XVIII ở châu Âu đã thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ
nghóa phát triển. Đó là quá trình công nghiệp hóa hiện đại,
đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh từ giữa
thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, đã thúc đẩy sự phát triển đô
thị một cách nhanh chóng, từ đó đã hình thành nên các trung
tâm công nghiệp, trung tâm thương mại và kéo theo sự hình
thành các tầng lớp dân cư mới, hình thành nên các nhóm xã
hội, các cộng đồng xã hội khác nhau.
Cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ, đô thị được hình
thành, tạo ra những sự chuyển dịch dân cư hết sức to lớn,
mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc và những quan hệ xã
hội hết sức phức tạp. Đồng thời, do ảnh hưởng của cuộc cách
mạng công nghiệp, chủ nghóa tư bản phát triển ở một trình
độ nhất định đã dẫn tới sự thay đổi chung về cơ cấu xã hội,
làm tan vỡ xã hội nông thôn truyền thống thời phong kiến,
làm thay đổi cả lối sống dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo và
sự bất bình đẳng xã hội. Trong xã hội thì tình trạng nghèo
nàn, quẫn bách, cùng cực của tầng lớp lao động, lao động bị
bóc lột và lạm dụng nhất là đối với phụ nữ và trẻ em. Các
khu nhà ổ chuột của dân nghèo xuất hiện, cùng với sự đồi
bại của bộ máy quan liêu.
9
Sự phát triển của đô thị đã làm đảo lộn trật tự và thói
quen của cộng đồng. Sự cách biệt giữa thành thị và nông
thôn đã làm thay đổi mối quan hệ đã ổn định từ lâu mà con
người đã gắn bó với cộng đồng. Sự thay đổi đó làm cho con
người băn khoăn về tương lai, suy nghó về sự ổn định của trật
tự xã hội.
Các yếu tố trên đã đặt ra cho các nhà khoa học cần
phải nghiên cứu để giải quyết những bức xúc ấy, để tìm hiểu
xã hội và xem bản chất xã hội là gì. Đó là một trong những
điều kiện để Xã hội học ra đời.
2. Điều kiện chính trị
Cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, và đặc biệt là
ở nước Anh (1642 - 1648), báo hiệu giờ cáo chung của chế
độ phong kiến châu Âu đã đến. Tiêu biểu là cuộc Đại cách
mạng Tư sản Pháp (1789 - 1794), ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống xã hội - đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến
châu Âu. Đó là một cuộc cách mạng triệt để, đập tan chế độ
quân chủ chuyên chế của xã hội phong kiến, là hồi chuông
kết thúc đêm trường Trung cổ ở châu Âu. Nó đã đưa ra các
vấn đề về xã hội mới mẻ: Tự do - Bình đẳng - Bác ái... Nó
tạo ra bầu không khí tự do cho nhóm trí thức và làm xuất
hiện những tư tưởng tiến bộ, họ có cách nhìn khoa học đối
với xã hội - tự nhiên, họ giải thích thế giới một cách khoa
học, giải thích xã hội bằng những quy luật của chính nó. Đây
là một tiền đề ra đời của xã hội học nhằm xem xét quá khứ,
giải quyết hiện tại, dự báo cho tương lai và mô tả, xem xét
xã hội trên cơ sở khoa học.
Như vậy, những biến đổi chính trị - xã hội đã làm thay
đổi thế chế chính trị, trật tự xã hội ở châu u, quyền lực
chính trị đã chuyển sang tay giai cấp tư sản, đã góp phần
10
củng cố và phát triển chủ nghóa tư bản. Trong bối cảnh đó,
các nhà tư tưởng xã hội và các nhà xã hội học đã ra sức miêu
tả, tìm hiểu các quá trình, hiện tượng xã hội để giải thích
những biến động đang diễn ra trong xã hội.
3. Tiền đề khoa học - trí thức
Cùng với những biến động diễn ra trong đời sông kinh
tế - chính trị - xã hội, đó là sự phát triển tri thức của nhân
loại thời cổ như toán học của Pithagore, hình học của Ocloid,
vật lý của Arsimes đã được khôi phục lại sau đêm trường
Trung cổ. Về khoa học xã hội cũng như những tư tưởng của
Aristote, Platon, Decarte, đã được các nhà tư tưởng kế thừa
và phát huy. Do sự phát triển của trí thức nhân loại dẫn tới
sự phân hóa các ngành khoa học khác nhau. Trong đó có
ngành xã hội học. Nó là một nhu cầu, một tiền đề để xã hội
học ra đời.
Tóm lại, cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ vào
giữa thế kỷ XVIII đã tạo nên một sự đảo lộn ghê gớm trong
xã hội. Sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho chủ
nghóa tư bản phát triển. Sự phát triển của kinh tế đã tạo nên
các đô thị lớn, tạo nên sự chuyển dịch dân cư khổng lồ cùng
với mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc căng thẳng. Các
quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, đa dạng, xã hội biến động,
khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội luôn diễn ra. Để quản
lý một xã hội như vậy đòi hỏi phải có một ngành khoa học đóng
vai trò như một bác só khám bệnh cho cơ thể sống xã hội và tiến
tới giải phẫu các mặt, các lónh vực... Xã hội học ra đời đáp ứng
những nhu cầu bức xúc đó.
11
4. Ý nghóa của sự ra đời xã hội học
Sự ra đời của xã hội học đã có một vị trí và ý nghóa cực
kỳ quan trọng đối với đời sống xã hội. Xã hội học cùng với
các ngành khoa học khác trang bị cho chúng ta những tri thức
khoa học, những hiểu biết để nhận thức các quy luật khách
quan của thực tiễn xã hội, qua đó nhận biết sự vận động của
hệ thống các mối quan hệ xã hội của các nhóm và cộng đồng
xã hội. Đồng thời xã hội học trang bị những tri thức nhằm
hiểu biết về con đường và các biện pháp để đạt được mục
đích cải tạo thế giới, cải tạo hiện thực phục vụ con người,
đặc biệt những nội dung tri thức của Xã hội học giúp cho mỗi
cá nhân nhận thức và tránh được bốn điều:
Chớ nói điều trái lễ
Chớ nghe điều trái lễ
Chớ xem điều trái lễ
Chớ làm điều trái lễ
III. NHỮNG NHÀ XÃ HỘI HỌC TIỀN BỐI
1. Xã hội học của Auguste Comte (1798–1857)
Ông là nhà lý thuyết xã hội, nhà thực chứng luận người
Pháp, người đầu tiên đưa ra thuật ngữ Xã hội học. Ông học ở
trường từ năm 1807 và đã đậu các kỳ thi Toán học và các
môn Xã hội nhân văn một cách xuất sắc. Ông đã có thời gian
là thư ký cho Saint-Simon, chủ nghóa xã hội không tưởng
Pháp, từ 1817 đến 1824. Ông đã chịu sự ảnh hưởng của Triết
học Ánh sáng (Phục hưng) và cũng là người chứng kiến
những biến động chính trị xã hội, các cuộc cách mạng công
nghiệp và những cuộc xung đột giữa khoa học và tôn giáo ở
Pháp. Các tác phẩm chính: Triết học thực chứng, xuất bản
12
1830 - 1842 (nhiều tập) và Hệ thống Chính trị học thực
chứng, xuất bản 1851 - 1854.
Phương pháp luận cơ bản của A.Comte là coi Xã hội
học là khoa học về các quy luật tổ chức xã hội. Xã hội học
phải hướng tới sự tìm ra những quy luật khái quát phản ánh
mối quan hệ căn bản nhất của các sự vật, các hiện tượng
trong xã hội. Xã hội học phải có nhiệm vụ góp phần tổ chức
lại xã hội và lập lại trật tự xã hội dựa vào các quy luật tổ
chức và biến đổi xã hội bằng phương pháp luận của chủ
nghóa thực chứng.
Tư tưởng chủ yếu trong xã hội học của Auguste Comte
là sự đoạn tuyệt với tư duy tự biện thuần túy và nó đã hình
thành nên những tri thức thực chứng để xem xét, nhìn nhận
những vấn đề xã hội liên quan đến con người. Ông luôn nhấn
mạnh đến vị trí vai trò của tổ chức xã hội và lập lại trật tự xã
hội theo đúng khuôn mẫu hành vi.
Theo ông, Xã hội học cũng giống như Khoa học tự
nhiên, như Vật lý, Sinh học trong việc vận dụng các phương
pháp luận nghiên cứu để tìm ra bản chất của xã hội, ông gọi
Xã hội học là Vật lý Xã hội. Ông phân loại các phương pháp
Xã hội học thành bốn nhóm:
Quan sát;
Tónh học xã hội nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu
xã hội, các thành phần và mối liên hệ của chúng: đơn vị cơ
bản nhất, sơ đẳng nhất của xã hội chính là gia đình và ông
đưa ra cách giải quyết nhấn mạnh tới vai trò của Nhà nước,
yếu tố văn hóa, tinh thần xã hội.
Động học xã hội là nghiên cứu các quy luật biến
đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Ông
đưa ra quy luật ba giai đoạn để giải thích sự phát triển của
hệ thống cơ cấu xã hội:
Thần học;
Siêu hình;
Thực chứng.
Ông cho rằng mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển
của mỗi giai đoạn sau. Ở giai đoạn thực chứng, nhờ nắm vững
và giải thích có khoa học sự vận hành của xã hội mà con
người kiểm soát, quản lý bằng cách tuân thủ và vận dụng
được các quy luật của Tónh và Động học xã hội và các nhà trí
thức có khả năng đóng vai trò thủ lónh, lãnh đạo và quản lý xã
hội. Xã hội học có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu nhận thức, nhu
cầu giải thích những biến đổi xã hội, góp phần lập lại trật tự
ổn định xã hội.
2. Xã hội học của Karl Marx (1818 - 1883)
Thực nghiệm;
So sánh;
Phân tích lịch sử.
Vật lý Xã hội học của ông được hợp thành từ hai bộ
phận chính: Tónh học xã hội và Động học xã hội (cơ thể xã
hội).
13
Là nhà triết học, nhà lý luận của phong trào Cộng sản
và công nhân thế giới và là nhà sáng lập chủ nghóa cộng sản
khoa học, là nhân vật đóng vai trò quan trọng trong lịch sử
phát triển của Xã hội học, Marx không để lại một lý thuyết
hoàn chỉnh về Xã hội học nhưng toàn bộ di sản đồ sộ của
Marx đã ảnh hưởng rất lớn đến Xã hội học, đặc biệt là học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội.
14
Marx đã chứng kiến một trật tự xã hội tư bản với một
thiểu số người là giai cấp tư sản bóc lột, áp bức, thống trị đa
số người khác là giai cấp công nhân. Từ đó, Marx đã có hệ
thống quan điểm phản ánh sâu sắc những biến đổi của thế
kỷ 19 với các cuộc cách mạng chính trị, công nghiệp hóa tư
bản chủ nghóa.
Marx đã phân tích sự vận động xã hội, đã chỉ ra quy
luật phát triển lịch sử của xã hội. Marx cho cơ sở của sự
phân hóa xã hội thành các giai cấp là các mối quan hệ xã
hội, ở đó hàm chứa những xung đột đối kháng. Mâu thuẫn
giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực của lịch sử, của sự
phát triển xã hội.
Cuộc đời của Marx là quá trình kết hợp giữa nghiên
cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. Với hai phát kiến vó đại
của Marx và Engels là lý luận về giá trị thặng dư và chủ
nghóa duy vật lịch sử, Marx đã chuyển từ chủ nghóa duy tâm
sang chủ nghóa duy vật, từ người dân chủ sang người cộng
sản. Lý luận chủ nghóa duy vật lịch sử là lý luận và phương
pháp luận của Xã hội học mác-xít.
Nghiên cứu Xã hội học cần phân tích con người sản
xuất ra các phương tiện để sinh tồn như thế nào? Những điều
kiện nào cản trở những năng lực của con người trong xã hội?
Marx cho rằng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ dẫn đến
sự bất bình đẳng và phân tầng xã hội. Do vậy, cần phải xóa
bỏ chế độ sở hữu tư nhân và thay vào đó là chế độ sở hữu xã
hội (toàn dân và tập thể) để xây dựng xã hội công bằng, văn
minh.
Về quy luật phát triển của lịch sử, Marx đã chỉ rằng
lịch sử xã hội loài người trải qua năm hình thái kinh tế - xã
hội:
15
Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản nguyên thủy;
Hình thái kinh tế - xã hội Chiếm hữu nô lệ;
Hình thái kinh tế - xã hội Phong kiến;
Hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghóa;
Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghóa.
Quy luật phát triển lịch sử xã hội được làm sáng tỏ qua
hệ thống các khái niệm, phạm trù của chủ nghóa duy vật lịch
sử như: Tư liệu sản xuất, Quan hệ xã hội, Lực lượng sản
xuất, Phương thức sản xuất, Hình thái kinh tế - xã hội... Đặc
biệt là quan niệm về bản chất của xã hội và con người được
bắt nguồn tư trong quá trình sản xuất, trong các hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất để phát huy năng lực của con
người trong xã hội.
Ngoài ra, Marx còn đề cập đến một loạt vấn đề xã hội
như khái niệm tha hóa, mối quan hệ giữa đời sống kinh tế
với các định chế xã hội khác, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng, phân hóa xã hội, hôn nhân gia đình,
đô thị, nông thôn qua một loạt tác phẩm, tiêu biểu là:
Hệ tư tưởng Đức, 1845;
Sự khốn cùng của Triết học, 1847;
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, 1848;
Tư bản luận, 1867, 1885, 1894.
3. Xã hội học của Herbert Spencer (1820 - 1903)
Ông là nhà Xã hội học người Anh sống trong tình hình
chính trị - xã hội Anh thế kỷ 19 không có nhiều biến động
gay gắt như ở Pháp. Ông đã phát triển “Lý thuyết Xã hội”
vào năm 1876. Do ảnh hưởng thuyết tiến hóa Darwin (1809 16
1882), ông đưa ra quan điểm tiến hóa xã hội. Ông giải thích:
chỉ có các cá nhân nào, hệ thống xã hội nào có khả năng
thích nghi nhất với môi trường xung quanh thì mới có thể tồn
tại được trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Spencer coi xã hội như là một cơ thể sống, cũng như
mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội vận động và phát triển theo
quy luật. Ông cho rằng nguyên lý cơ bản nhất của Xã hội
học là nguyên lý tiến hóa. Các xã hội loài người phát triển
tuân theo những quy luật tiến hóa từ xã hội có cơ cấu nhỏ,
đơn giản, chuyên môn hóa thấp, không ổn định, dễ phân rã
đến xã hội có cơ cấu lớn, phức tạp, chuyên môn hóa cao, có
sự liên kết bền vững và ổn định.
Ông cho rằng các hiện tượng, quá trình xã hội luôn gắn
liền với các cá nhân với tất cả các đặc điểm về động cơ, nhu
cầu, tình cảm, trí tuệ và hành động phức tạp, đa dạng.
Nguyên lý cơ bản của Xã hội học là nguyên lý tiến hóa
xã hội. Sự tiến hóa xã hội tất yếu sẽ đưa ra xã hội tiến lên từ
xã hội thuần nhất, đơn giản đến xã hội phức tạp, đa dạng, từ
trạng thái bất ổn định, không hoàn hảo đến trạng thái cân
bằng, hoàn hảo.
Ông phân chia xã hội thành hai loại:
Xã hội quân sự với đặc trưng là cơ chế tổ chức, điều
chỉnh mang tính tập trung, độc đoán để phục vụ mục tiêu
quốc phòng và chiến tranh;
Xã hội công nghiệp với đặc trưng là cơ chế tổ chức
ít tập trung và ít độc đoán nhằm phục vụ mục tiêu sản xuất
hàng hóa và dịch vụ.
Tóm lại, Spencer đã để lại nhiều ý tưởng quan trọng
được tiếp tục phát triển trong các trường phái, lý thuyết Xã
hội học hiện đại. Ông dùng lý thuyết tiến hóa để giải thích
17
sự biến chuyển xã hội, ông cho rằng tiến hóa là một quá
trình tự nhiên và sự tiến hóa không làm cản trở bước tiến của
nhân loại.
4. Xã hội học của Emile Durkheim (1858 - 1917)
Ông là nhà Xã hội học nổi tiếng người Pháp, là nhà
khoa học chuyên ngành đầu tiên trong lịch sử Xã hội học,
người đặt nền tảng xây dựng chủ nghóa chức năng và chủ
nghóa cơ cấu và là nhà Xã hội học cả từ cơ sở khoa học lẫn
chính trị. Ông là người có công đầu tiên đưa khoa học xã hội
học vào nghiên cứu giảng dạy trong các trường Đại học ở
Pháp. Trong thời kỳ làm việc ở Bordeaux, ông đã cho ra đời
ba tác phẩm quan trọng:
Sự phân công lao động xã hội,
Các quy tắc của phương pháp Xã hội học,
Tự tử.
Durkheim quan niệm về Xã hội học:
Là khoa học nghiên cứu sự kiện xã hội, xã hội học, sử
dụng phương pháp thực chứng (quan sát) để nghiên cứu, giải
thích nguyên nhân và các chức năng của sự kiện xã hội, chịu
ảnh hưởng nhiều về lý luận của các nhà tư tưởng châu u
như Staint-Simon, A.Comte, H.Spencer... Ông chủ trương Xã
hội học phải trở thành khoa học về các quy luật tổ chức xã
hội. Ông quan niệm xã hội biến đổi từ xã hội đơn giản (cơ
học) đến xã hội phức tạp (hữu cơ). Xã hội học của ông xoay
quanh mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Muốn Xã hội học trở thành khoa học thì cần phải xác
định đối tượng nghiên cứu một cách khoa học. Phải coi xã
hội, cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội, đạo đức, truyền thống,
18
phong tục, tập quán, ý thức tập thể... là các sự kiện xã hội,
các sự vật, các bằng chứng có thể quan sát được.
Trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội
học là sự kiện xã hội, ông đã đề ra các qui tắc của phương
pháp xã hội học, đặc biệt là phương pháp luận cấu trúc - chức
năng để từ đó phát hiện ra nguyên nhân, chức năng hệ quả
của các sự kiện xã hội đối với sự vận động ổn định trật tự của
hệ thống xã hội.
Phương pháp nghiên cứu Xã hội học của Durkheim:
– Sự kiện xã hội được hiểu theo hai nghóa: thứ nhất,
các sự kiện xã hội vật chất như nhóm, dân cư và tổ chức xã
hội; thứ hai, các sự kiện xã hội phi vật chất như hệ thống
chính trị, chuẩn mực, phong tục tập quán xã hội;
bản:
– Theo Durkheim, sự kiện xã hội có ba đặc trưng cơ
Sự kiện xã hội là những gì bên ngoài cá nhân, các
cá nhân không chỉ sinh ra trong môi trường đã có sẵn các sự
kiện như các thiết kế, chuẩn mực, giá trị, niềm tin, cơ cấu xã
hội..., họ còn được học tập, chia sẻ và tuân thủ các chuẩn
mực xã hội;
Các sự kiện xã hội bao giờ cũng là chung đối với
nhiều cá nhân, nó được toàn cộng đồng xã hội chia sẻ, chấp
nhận;
Các sự kiện xã hội bao giờ cũng có sức mạnh kiểm
soát, hạn chế, cưỡng chế hành động và hành vi của các cá
nhân.
Các khái niệm cơ bản trong Xã hội học Durkheim:
19
– Khái niệm đoàn kết xã hội: Khái niệm này gần giống
khái niệm hội nhập xã hội hiện nay đang sử dụng. Dùng khái
niệm này chỉ mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội, giữa cá
nhân - cá nhân, giữa cá nhân - nhóm xã hội. Nếu không có
đoàn kết xã hội thì cá nhân riêng lẻ, biệt lập, không tạo
thành xã hội với tư cách là một chỉnh thể (trong tác phẩm
“Phân công lao động xã hội”, ông cho rằng, đoàn kết là
phương thức của những mối quan hệ, là một kiểu quan hệ,
một hình thức của khả năng xã hội. Ông phân biệt rõ hai
hình thức đoàn kết: đoàn kết máy móc và đoàn kết có tổ
chức, trong đó đoàn kết máy móc sẽ dần bị thay thế bởi đoàn
kết có tổ chức).
– Đoàn kết cơ học là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự
thuần nhất đơn điệu của các giá trị, niềm tin, cá nhân gắn bó
với nhau vì có sự kiểm soát của xã hội và vì lòng trung thành
của cá nhân đối với truyền thống, tập tục và quan hệ gia
đình...
– Đoàn kết hữu cơ là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự
phong phú, đa dạng của các mối liên hệ, tương tác giữa các
cá nhân với các bộ phận cấu thành xã hội.
Tóm lại, Xã hội học của Durkheim nghiên cứu các sự
kiện xã hội. Ông đã xây dựng được cơ sở lý thuyết Xã hội
học. Ông cho rằng xã hội tiến bộ được là do có sự góp phần
chung của niềm tin, giá trị của mỗi thành viên. Ông quan
niệm các chuẩn mực xã hội, quy tắc xã hội luôn có tác dụng
điều tiết hành vi và thái độ của cá nhân thông qua những giá
trị mà cá nhân đã nội tâm hóa. Tác phẩm Tự tử không chỉ
thuần túy mang tính cá nhân mà nó còn mang cả yếu tố xã
hội nữa.
20
5. Xã hội học của Max Weber (1864 - 1920)
Ông là nhà Xã hội học người Đức, đã có những đóng
góp rất lớn về mặt phương pháp luận đối với Xã hội học hiện
đại trong bối cảnh lịch sử xã hội và triết học Đức cuối thế kỷ
19 với những cuộc tranh luận về bản chất phương pháp khoa
học xã hội - khoa học tự nhiên (KHXH - KHTN):
Ông quan niệm, về phương pháp luận của xã hội
học thì đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên là các sự
kiện vật lý của giới tự nhiên, còn đối tượng nghiên cứu của
khoa học xã hội là hoạt động xã hội của con người.
Tri thức khoa học tự nhiên là sự hiểu biết về giới tự
nhiên có thể giải thích nó bằng các quy luật khách quan,
chính xác, còn tri thức khoa học xã hội là sự hiểu biết về xã
hội do con người tạo ra.
Khoa học tự nhiên chỉ cần quan sát các sự kiện của
tự nhiên và tường thuật lại kết quả quan sát là đu; còn khoa
học xã hội, ngoài phạm vi quan sát thì còn phải giải thích, lý
giải động cơ, quan niệm và thái độ của các cá nhân. Đặc
biệt, giải thích xem những chuẩn mực văn hóa, hệ giá trị và
những hiểu biết của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến
hành động của họ.
Ông cho rằng, Xã hội học là khoa học cố gắng giải
thích hành động xã hội và tiến đến giải thích nhân quả về
đường lối và hiệu quả hành động xã hội.
Hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của Xã hội
học. Đó là hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghóa chủ
quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác,
được định hướng tới người khác, trong đường lối trong quá trình
của nó.
21
Không phải hành động nào cũng có tính xã hội. Ví dụ:
Hành động chỉ nhằm đến các sự vật mà không tính đến hành
vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội;
hành động của các cá nhân trong một đám đông cũng không
coi là hành động xã hội, như trời đổ mưa trên đường phố thì
nhiều người che dù, mặc áo mưa... thì không phải hành động
xã hội; hai người đi xe quệt nhau; hành động bắt chước thuần
túy hay làm theo người khác đều không phải là hành động
xã hội. Nhưng sự bắt chước đó là mốt, là mẫu mực, nếu
không sẽ bị người khác chê cười thì hành động bắt chước đó
là hành động xã hội, vì vậy rất khó xác định được biên giới
giữa hành động xã hội và hành động không xã hội...
Có bốn loại hành động xã hội:
+ Hành động duy lý – công cụ là hành dộng được thực
hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương
tiện, mục đích sao cho có hiệu quả nhất: hành động kinh tế.
+ Hành động duy lý – giá trị là hành động được thực
hiện vì bản thân hành động. Loại hành động này có thể
nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại thực hiện bằng
những công cụ, phương tiện duy lý: hành vi tín ngưỡng.
+ Hành động duy lý – truyền thống là hành động tuân
thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán được
truyền từ đời này sang đời khác: “hành động theo người
xưa”, “các cụ dạy”, “cổ nhân nói”...
+ Hành động duy cảm (xúc cảm) là hành động do xúc
cảm hoặc tình cảm bộc phát gây ra mà không có sự cân
nhắc, xem xét, phân tích: như hành động đám đông quá
khích...
Tóm lại, công lao quan trọng của M.Weber đối với Xã
hội học hiện đại là việc đưa ra những quan niệm và cách giải
22
quyết độc đáo những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên
cứu khoa học Xã hội học. Xã hội học có nhiệm vụ trả lời
những câu hỏi về động cơ, ý nghóa của hành động xã hội.
Xem xét động cơ nào thúc đẩy, chi phối, dẫn dắt cá nhân,
nhóm xã hội phải hành động và những hành động đó có ý
nghóa như thế nào với các thành viên trong xã hội. Xã hội
học để giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành
động xã hội. Ngoài ra, lý thuyết Xã hội học của ông còn
nghiên cứu những vấn đề về các hành động xã hội và phân
tầng xã hội, về xã hội tư bản nói chung đều đề cập đến hai
yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế trong quá trình hình
thành và biến đổi cơ cấu xã hội.
IV. KHÁI QUÁT XÃ HỘI HỌC MARX - LENIN
Marx và Engels là những nhà sáng lập ra Xã hội học
khoa học. Các ông đã phân tích khá sâu sắc và toàn diện xã
hội tư bản chủ nghóa, phân tích một cách sâu sắc những mâu
thuẫn trong xã hội tư bản, đã chứng minh quan điểm duy vật
về lịch sử và xã hội. Marx và Engels đã phát hiện ra những
quy luật phát triển của chủ nghóa tư bản, phát hiện ra tính
quy luật tất yếu của bước quá độ từ chủ nghóa tư bản sang
chủ nghóa xã hội. Di sản đồ sộ của Marx và Engels đã được
quán triệt và phát triển thông qua các tác phẩm: Tư bản, Đấu
tranh giai cấp ở Pháp, Ngày 18 tháng sương mù của Lui
Bonapactơ, Nội chiến ở Pháp...
Từ giữa thế kỷ thứ XX đến nay, khoa học xã hội học
đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhân loại đã chứng
kiến, ghi nhận kế thừa vận dụng và sáng tạo lý luận xã hội
học của Marx, Engels, Lenin. Tư tưởng Xã hội học quan
trọng của Lenin được thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm.
Lenin nhấn mạnh sự cần thiết dựa vào các sự kiện có thật,
23
chính xác, thực tiễn sống động không thể chối cãi để xây
dựng và phát triển một xã hội mới – xã hội chủ nghóa.
Ở những năm đầu thế kỷ thứ XX, Lenin đã nghiên cứu
rất nhiều những vấn đề về Xã hội học. Một lần nữa Người
đã nhấn mạnh rằng để nghiên cứu xã hội học mang tính thực
sự khoa học phải xuất phát từ những sự kiện thật chính xác.
Phải xét đến các sự thật riêng biệt, những sự thật có liên
quan đến những vấn đề đang xét, những sự thật đã được lựa
chọn.
Trong khi phát triển và tiếp tục hoàn thiện khoa học xã
hội học Marxism-Leninism, các nhà kinh điển của chủ nghóa
Marx-Lênin luôn sử dụng phương pháp làm việc thể hiện sự
thống nhất giữa lý luận và kinh nghiệm. Đó là một đòi hỏi
quan trọng trong các hoạt động của các nhà xã hội học nhằm
phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội.
Ở Việt Nam, ngành Xã hội học tuy mới được xây dựng,
song đã có rất nhiều cố gắng phát huy tác dụng để nhận thức
và ứng dụng vào quản lý xã hội. Nhiều nhà xã hội học đã
kết hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng, các tổ chức nhà nước
và các đoàn thể quần chúng đã có những công trình khảo sát,
phân tích dự đoán dự báo tình hình thực tiễn xã hội, từ đó đề
xuất những giải pháp quản lý xã hội nhằm phục vụ quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa trên tất cả các lónh vực của
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, Xã hội học là một ngành khoa học còn mới
lạ ở nước ta, đội ngũ các chuyên gia xã hội học còn thiếu,
điều kiện và kinh phí hoạt động còn khó khăn, vì vậy chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ
“Cần phải phát triển nhanh các ngành khoa học xã hội và
nhân văn: kinh tế học, khoa học chính trị, khoa học quản lý,
24
luật học. Phải đưa khoa học xã hội học vào trong đời sống xã
hội mới đáp ứng, lý giải được những bức xúc do cuộc sống
đặt ra”.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi
xướng và qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dân tộc
ta đã thu được nhiều thành tựu quan trong trên tất cả các lónh
vực. Đặc biệt, để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta cần phải không
ngừng nâng cao nhận thức và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội, về nguồn lực con người, về mối quan hệ giữa người
với người… Xã hội học càng có ý nghóa thiết thực và bổ ích.
Nhận thức Xã hội học là một quá trình rất phức tập và lý
luận của Xã hội học về đời sống xã hội của con người được
xây dựng trên cơ sở thu thập thông tin, tài liệu từ thực tế xã
hội để từ đó phân tích, lý giải những vấn đề do cuộc sống đặt
ra, đồng thời giúp cho các nhà quản lý hoạch định các chính
sách kinh tế - xã hội cho phù hợp.
BÀI 2
ĐỐI TƯNG VÀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI HỌC
I. XÃ HỘI HỌC LÀ GÌ?
1. Khái niệm
Xã hội học là khoa học về xã hội, là học thuyết về xã
hội, nhưng để định nghóa một cách thật chính xác và phản ánh
được đối tượng và chức năng của nó, thì đây là vấn đề hết sức
khó khăn. Việc định nghóa, làm rõ khái niệm Xã hội học có
liên quan mật thiết đến đối tượng nghiên cứu của Xã hội học.
Hiện nay có rất nhiều định nghóa, nhưng nhìn chung các nhà
xã hội học đều đưa ra và nhất trí những điểm cơ bản giống
nhau về Xã hội học.
Trong Đề cương bài giảng xã hội học của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, định nghóa được nêu như
sau: Xã hội học là một môn khoa học xã hội, nghiên cứu về
tính chỉnh thể của các quan hệ xã hội (tính chất xã hội của
đời sống con người), là khoa học về các quy luật phổ biến và
đặc thù của hình thái kinh tế - xã hội, về các cơ chế hoạt
động và các hình thức biểu hiện của các quy luật trong hoạt
động của các cá nhân, các tập đoàn xã hội, các giai cấp, các
dân tộc.
Trong cuốn Xã hội học đại cương của Nguyễn Minh
Hòa định nghóa như sau: Xã hội học nghiên cứu các quan hệ
xã hội của chủ thể xã hội, nó nghiên cứu trạng thái xã hội
trong từng giai đoạn cụ thể, nghiên cứu những mối tác động
qua lại trong những khu vực dân cư, tập thể lao động, nhóm xã
hội và gia đình.
25
26
Xã hội học bao giờ cũng gắn liền với một thế giới quan
triết học nhất định, Xã hội học của chúng ta dựa trên nền
tảng tư tưởng của chủ nghóa Marx-Lenin, đó là Xã hội học
Marx-Lenin, môn khoa học về xã hội.
nghiên cứu mối quan hệ, tâm lý xã hội, nghiên cứu đời sống
trong các nhóm xã hội chi phối như thế nào đến nhận thức và
ứng xử của con người.
2. Mối quan hệ xã hội học với các khoa học khác
Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản xuất, lưu thông,
phân phối và tiêu dùng của cải vật chất xã hội. Kinh tế học
chú ý giải quyết các vấn đề như tiền tệ, giá cả, tỷ suất lợi
nhuận, ảnh hưởng của thuế đến tiêu dùng... Xã hội học thì kết
hợp với kinh tế học nghiên cứu xã hội học kinh tế, nghiên cứu
mối quan hệ kinh tế giữa khía cạnh kinh tế và phi kinh tế của
đời sống xã hội.
a. Xã hội học với Triết học
Những nhà sáng lập ra môn Xã hội học đều là những
triết gia, trước khi Xã hội học trở thành một khoa học độc lập
thì nó đã tồn tại và gắn liền với triết học. Triết học là một hệ
thống các ý tưởng, các giá trị, là một hệ thống các tư tưởng
suy tư, con người phải kết hợp với nhau và hành động như
thế nào. Còn Xã hội học thì nghiên cứu cách thức con người
ứng xử với nhau như thế nào, và hậu quả của lối ứng xử này
ra sao? Triết học cung cấp cho Xã hội học phương pháp luận
khoa học khi xem xét các sự kiện xã hội, còn xã hội học đặt
trọng tâm vào việc nghiên cứu sự tương tác của con người
trong xã hội, đặc biệt là nó chú trọng nghiên cứu sự hình
thành và kết cấu trong xã hội, các phong tục, tập quán, các
giá trị xuất phát... Xã hội học đi tìm những điều kiện xã hội,
những logic đằng sau chi phối các ứng xử của con người.
Đồng thời Xã hội học cũng tác động trở lại triết học, nó cung
cấp cho triết học những tư liệu, những sự kiện, những hiện
tượng xã hội để triết học xem xét.
c. Xã hội học với kinh tế học
II. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC
1. Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học
Cho đến nay vẫn còn rất nhiều ý kiến, nhiều quan điểm
xung quanh vấn đề đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Các
cuộc thảo luận nhằm xác lập mối liên hệ giữa các nghiên cứu
xã hội học và triết học xã hội của chủ nghóa Marx. Kết quả
của các cuộc thảo luận đã đưa ra được quan niệm xã hội học ở
ba cấp độ:
Thứ nhất là chủ nghóa duy vật lịch sử và lý luận Xã
hội học đại cương;
b. Xã hội học với Tâm lý học
Thứ hai là lý luận Xã hội học chuyên biệt;
Tâm lý học nghiên cứu sự phát triển tinh thần, sự xúc
cảm của con người trong đời sống xã hội, còn Xã hội học
nghiên cứu về các nhóm người, các cộng đồng người. Tâm lý
học hành vi và tâm lý học ứng dụng cũng đều chú ý đến
hành vi, tình cảm, trí nhớ của con người ở đó nó biểu hiện sự
tương tác giữa các cá nhân và nhóm xã hội. Xã hội học
27
Thứ ba là các nghiên cứu Xã hội học cụ thể.
Do vậy, không thể quy Xã hội học về đối tượng của
triết học xã hội. Sự khác biệt giữa chúng là ở chỗ Xã hội học
xem xét xã hội qua các phạm trù và các khái niệm đặc biệt
hơn so với triết học xã hội. Ngoài ra, còn qua các khái niệm
28
gắn với các nhân tố đã được kiểm nghiệm... Khác với các
phạm trù Triết học, các khái niệm cơ bản của Xã hội học
không phải là vật chất và ý thức mà là cấu trúc xã hội và
thiết chế xã hội, không phải là con người mà là nhân cách
và tính cách là một loại hình xã hội và các quá trình xã hội
hóa các cá thể, không phải là các quan hệ xã hội mà đúng
hơn đó là sự tương tác xã hội và các mối liên hệ qua lại xã
hội.
Để xác định đối tượng của Xã hội học cần phải tìm ra
các khái niệm then chốt và cơ bản của khoa học này:
Hệ thống xã hội là một phạm trù xã hội học quan
trọng trong nhiều lý luận Xã hội học vó mô. Đó là đối tượng
nghiên cứu tính chỉnh thể, tính ổn định của tổ chức xã hội, nó
nghiên cứu các hệ thống xã hội, tính chỉnh thể và các tính
quy luật vận hành của chúng;
Cộng đồng xã hội là khái niệm then chốt trong việc
xác định đối tượng xã hội. Vì cộng đồng xã hội bao hàm
phẩm chất quyết định của sự vận động phát triển của chỉnh
thể xã hội. Nguồn gốc của sự vận động phát triển này là do
sự xung đột lợi ích của các chủ thể xã hội, các giai cấp và
các kết cấu của chủ thể xã hội khác;
Đối tượng của Xã hội học là các cộng đồng xã hội,
là các hình thức xã hội của sự tồn tại và phát triển của con
người, đó là tính chất xã hội của sự hoạt động của đời sống
con người, nó bao gồm các hình thức tổ chức gia đình, cư
dân, cộng đồng giai cấp và xã hội, thành phần dân tộc, nghề
nghiệp, xã hội, nhân khẩu xã hội. Như vậy đối tượng nghiên
cứu Xã hội học là tất cả các quá trình và hiện tượng xã hội.
Trong các quá trình và hiện tượng ấy dù ở cấp độ vi mô hay
vó mô Xã hội học cũng tập trung nghiên cứu về mức độ biểu
29
hiện, về nguyên nhân, động lực và xu hướng phát triển của
chúng.
Rõ ràng đối tượng của Xã hội học là các hiện tượng xã
hội, các sự kiện xã hội. Đó là những sự kiện có tính cách tập
thể không phải của một cá nhân đơn lẻ mà là của nhiều cá
nhân cùng với mối quan hệ của nó. Nó nghiên cứu kết cấu
toàn bộ. Hệ thống xã hội, xem hình thái kinh tế - xã hội là sự
phát triển của hệ thống các quan hệ xã hội cùng các mối liên
hệ, tác động hữu cơ với nhau. Khi nghiên cứu các sự kiện xã
hội thì đặc trưng của Xã hội học là những điều kiện xã hội,
những lực xã hội đã ảnh hưởng như thế nào đến cách thức ứng
xử của chúng ta. Đó là những thực thể của đời sống mà con
người tạo ra, xuất phát từ sự tương tác của con người giữa các
hoạt động đó.
2. Cơ cấu của môn Xã hội học
Cơ cấu của môn khoa học xã hội học được phân chia
theo hai phương diện, đó là:
Xã hội học đại cương và Xã hội học chuyên biệt;
Xã hội học trừu tượng - lý thuyết và Xã hội học cụ
thể - thực nghiệm.
a. Xã hội học đại cương và Xã hội học chuyên biệt
Xã hội học đại cương là cấp độ cơ bản của hệ thống lý
thuyết Xã hội học, là khoa học của cái chung nhất của các quy
luật Xã hội học về sự hoạt động và phát triển của hệ thống xã
hội và sự tương tác qua lại của các yếu tố hợp thành hệ thống
xã hội.
Xã hội học chuyên biệt là Xã hội học chuyên ngành,
đó là cấp độ của các quan hệ nhất định phản ánh mối liên heä
30
Các thể chế xã hội:
khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Các
lý luận Xã hội học chuyên biệt là khâu trung gian gắn lý
luận Xã hội học đại cương với việc nghiên cứu Xã hội học,
nghiên cứu các hiện tượng của đời sống xã hội. Xã hội học
chuyên biệt được phân chia thành các phân ngành sau đây:
Gia đình;
Giáo dục;
Tôn giáo;
Hệ thống kinh tế;
Xã hội học lao động;
Hệ thống chính trị.
Xã hội học xung đột xã hội;
Xã hội biến cách:
Xã hội học phân tầng xã hội;
Tính năng động xã hội;
Xã hội học đô thị;
Hành vi;
Xã hội học nông thôn;
Các phong trào xã hội;
Xã hội học dư luận xã hội - thông tin đại chúng;
Biến đổi xã hội, văn hóa và chuẩn mực xã hội.
Xã hội học thanh niên.
Ở các nước tư bản chủ nghóa, Xã hội học chuyên biệt
được phân chia đến 200 loại khác nhau. Bao gồm bốn phần
riêng biệt:
Các yếu tố của Xã hội học gồm:
Văn hóa;
Cấu trúc xã hội;
Xã hội học;
Tương tác xã hội;
Sự lệch chuẩn;
Cộng đồng dân cư.
b. Xã hội học trừu tượng - lý thuyết và Xã hội học cụ
thể - thực nghiệm
Xã hội học đại cương là một môn lý thuyết trừu tượng
nhất của xã hội, nó là một khoa học lý thuyết, cũng như các
khoa học xã hội khác. Xã hội học sử dụng một hệ thống,
những sự trừu tượng hóa (như các khái niệm, phạm trù, quy
luật, giả thuyết xã hội học...). Từ những hệ thống đó các nhà
xã hội học luôn tìm cách tái thể hiện trong quá trình tư duy
về đối tượng xã hội, mô tả trạng thái và thâm nhập vào các
quy luật hoạt động và phát triển của nó, hiểu được và dự báo
xu hướng phát triển của nó trong tương lai.
Đồng thời Xã hội học còn thuộc loại các khoa học thực
nghiệm vì nó rút ra được các kết luận xã hội từ các trắc
nghiệm, các quan sát thực nghiệm xã hội, từ các tài liệu thực
nghiệm thu được về các đối tượng xã hội. Xã hội học vừa có
tính chất thực nghiệm lại vừa có tính chất lý thuyết đề ra các
quy luật, nó là một khoa học không chỉ mô tả các sự kiện
thực nghiệm mà còn rút ra được những kết luận quy luật và
Bất bình đẳng xã hội:
Phân tầng xã hội;
Bất bình đẳng dân tộc và chủng tộc;
Vai trò giới tính và bất bình đẳng;
Lứa tuổi và bất bình đẳng.
31
32
khái niệm từ sự phân tích các dữ kiện thực nghiệm. Vì thế xã
hội học là một khoa học thực nghiệm - lý thuyết cho nên
nhận thức xã hội học có hai cấp độ là thực nghiệm và lý
thuyết.
Cấp độ thực nghiệm bao gồm việc thu thập thông
tin thông qua quan sát, thí nghiệm và từ việc xử lý các
thông tin xã hội đó;
Cấp độ lý thuyết trong xã hội học là các khái niệm,
phạm trù, quy luật, giả thuyết được hình thành nên một hệ
thống.
Nhận thức lý thuyết và nhận thức thực nghiệm có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cụ thể là nhận thức lý thuyết
được xây dựng trên cơ sở của nhận thức thực nghiệm. Nhận
thức lý thuyết không phải là sự tiếp diễn đơn giản nhận thức
thực nghiệm. Ở nhận thức lý thuyết nhà Xã hội học đã dựng
nên một hệ thống rõ ràng các định nghóa, khái niệm, giả
thiết và giả định nhưng họ luôn quay về với cấp độ thực
nghiệm coi đó là nguồn gốc của sự khái quát hóa. Đồng
thời nhận thức thực nghiệm là cái có trước, là cơ sở cho sự
khái quát hóa lý thuyết. Ranh giới của hai cấp độ: thực
nghiệm và lý thuyết trong Xã hội học chỉ là tương đối.
3. Các nguyên lý xây dựng tri thức Xã hội học
Năm nguyên lý cơ bản của Xã hội học là: nguyên lý
duy vật, nguyên lý phát triển, nguyên lý tính hệ thống,
nguyên lý phản ánh và nguyên lý tính Đảng.
Nguyên lý duy vật: Là một trong những nguyên lý
xây dựng tri thức Xã hội học, nó phản ánh và giải đáp Duy
vật mặt thứ nhất, vấn đề cơ bản của triết học, về mối quan
hệ giữa tư duy và tồn tại và được trình bày thích hợp với xã
hội với tư cách là quan niệm duy vật về lịch sử. Thực chất
33
của nguyên lý này là giải thích sự phát triển xã hội bằng sự
phát triển của nền sản xuất vật chất. Giải thích các hình thái
xã hội bằng những điều kiện vật chất của đời sống xã hội.
Nguyên lý phát triển: Xem xét xã hội như là một cơ
thể đang vận động và phát triển. Cùng với nguyên lý duy vật
tạo thành một cơ sở Duy vật biện chứng về xã hội.
Nguyên lý tính hệ thống: Xem xét xã hội như là một
hệ thống, một cơ thể xã hội, một cơ cấu đan kết phức tạp các
quan hệ vật chất và tư tưởng; tổ chức đặc biệt. Sự thể hiện
của cơ cấu đó là những thiết chế xã hội.
Nguyên lý phản ánh: Thể hiện sự giải đáp duy vật
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, rằng hiện thực
khách quan được phản ánh trong những hình thái tư duy, còn
cơ cấu của đối tượng nghiên cứu được phản ánh trong cơ cấu
của tri thức.
Nguyên lý tính Đảng: Trong nghiên cứu Xã hội học
phải đứng trên quan điểm của giai cấp công nhân, của toàn
thể nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghóa
xã hội.
III. CHỨC NĂNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA XÃ HỘI
HỌC
1. Chức năng cơ bản của Xã hội học
Xã hội học vũ trang những tri thức về quy luật khách
quan của quá trình phát triển xã hội.
Xã hội học trang bị những tri thức và thực tiễn nhằm
đưa ra những kiến nghị để quản lý một cách khoa học quá
trình phát triển của các lónh vực khác nhau của đời sống xã
hội.
34
Xã hội học giúp ta nắm bắt được trạng thái tinh thần tư
tưởng của con người, là một công cụ đắc lực trong việc tuyên
truyền giáo dục tư tưởng cho quần chúng nhân dân và đấu
tranh chống các hệ tư tưởng thù địch phản động.
Như vậy, Xã hội học có ba chức năng cơ bản:
Thứ nhất, Xã hội học có chức năng nhận thức. Xã hội
học đã trang bị những tri thức khoa học về sự phát triển của xã
hội và những quy luật của sự phát triển, vạch rõ được nguồn
gốc của quá trình phát triển đó. Nó vạch ra những quy luật
khách quan của các hiện tượng và các quá trình xã hội, đã tạo
ra được những tiền đề để nhận thức triển vọng phát triển của
xã hội. Đồng thời xã hội học còn xác định được những nhu cầu
phát triển của xã hội, của các giai cấp, các tập đoàn và các
nhóm xã hội trong các hoạt động xã hội của con người. Ngoài
ra, Xã hội học còn có nhiệm vụ phân tích lý luận hoạt động
nhận thức về xã hội, xây dựng lý luận và phương pháp luận để
nhận thức xã hội.
Thứ hai, Xã hội học có chức năng thực tiễn. Đây là
chức năng quan trọng của Xã hội học. Nó có mối quan hệ
chặt chẽ với chức năng nhận thức. Xã hội học đưa vào sự
phân tích các hiện tượng xã hội để làm sáng tỏ các triển
vọng và xu hướng phát triển của xã hội. Đặc biệt là khi
nghiên cứu các quan hệ xã hội. Xã hội học giúp con người
đặt các quan hệ xã hội của mình dưới sự kiểm soát của bản
thân và điều hòa các quan hệ đó cho phù hợp với yêu cầu
của sự phát triển tiến bộ xã hội. Việc dự báo xã hội dựa trên
cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật và xu hướng phát triển
của xã hội, là điều kiện và tiền đề để có kế hoạch và quản
lý xã hội một cách khoa học.
35
Thứ ba, Xã hội học có chức năng tư tưởng. Muốn
quản lý và lãnh đạo xã hội thì cấp quản lý và lãnh đạo phải
nắm bắt được tình hình tư tưởng, trạng thái tâm lý xã hội của
mọi tầng lớp nhân dân. Trạng thái tư tưởng luôn biến động
theo những diễn biến của thực trạng kinh tế - chính trị và xã
hội. Xã hội học giúp ta hiểu rõ được thực trạng tư tưởng xã hội
để trên cơ sở đó làm tốt công tác chính trị tư tưởng, nắm bắt
và định hướng được dư luận xã hội góp phần nâng cao hiệu
quả của công tác quản lý và lãnh đạo các lónh vực của đời
sống xã hội. Ngoài ra Xã hội học còn phát triển và hình thành
nên tư duy khoa học, tạo điều kiện hình thành thói quen suy
xét mọi hiện tượng xã hội và quá trình xã hội phức tạp trên
quan điểm duy vật biện chứng, giúp ta nâng cao tư duy thông
thường thành tư duy khoa học.
2. Phương pháp của Xã hội học
Chủ nghóa duy vật lịch sử là một phương pháp luận xã
hội học. Quan điểm nhận thức xã hội trên lập trường mácxít, đó là quan điểm duy vật, là sự tồn tại của xã hội là cái
thứ nhất, còn ý thức xã hội là cái thứ hai. Khi giải thích sự
tồn tại xã hội, giải thích các hiện tượng và các quá trình xã hội
hết sức đa dạng và phức tạp, chủ nghóa duy vật lịch sử xuất phát
từ những điều kiện hiện thực của đời sống xã hội, của những hoạt
động xã hội của con người.
Đồng thời với quan điểm duy vật lịch sử về xã hội thì
Xã hội học còn sử dụng phương pháp quan điểm biện chứng.
Chủ nghóa duy vật lịch sử với tính cách là một phương pháp
luận khoa học để nhận thức và giải thích các hiện tượng và
các quá trình xã hội trong mối liên hệ và tính quy luật giữa
chúng. Chủ nghóa duy vật lịch sử tìm nguồn gốc của các hiện
tượng và quá trình xã hội trong những mâu thuẫn biện chứng
khách quan nội tại giữa chúng. Phương pháp luận duy vật
36
lịch sử về nhận thức xã hội là phương pháp luận khoa học
phù hợp với những quy luật khách quan của bản thân thực tại
xã hội.
Phương pháp quan điểm lịch sử cụ thể là phương pháp
của xã hội học để nhận thức và giải thích các hiện tượng và
các quá trình xã hội. Lenin chỉ rõ: “Phép biện chứng Mác-xít
đòi hỏi phải phân tích một cách cụ thể từng tình hình lịch sử
riêng biệt”.
Quan điểm lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể đã bác bỏ
mối quan niệm trừu tượng về xã hội nói chung. Do đó khi
xem xét các hiện tượng và quá trình xã hội phải xuất phát từ
hiện thực khách quan, xây dựng những kết luận và khái quát
trên cơ sở nghiên cứu, cơ thể xã hội hiện thực, có nghóa là
phải nghiên cứu các hoạt động của xã hội loài người trong
những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Ngoài ra, một trong những phương pháp thường được
sử dụng trong nghiên cứu xã hội học là phương pháp so sánh.
Dùng phương pháp so sánh để phân tích những nhân tố thuộc
về định chế hoặc thuộc về cấp độ xã hội vó mô trong những
xã hội khác nhau. Bởi vì vấn đề Xã hội học cơ bản là nghiên
cứu mối quan hệ tác động qua lại hữu cơ, sự ảnh hưởng lẫn
nhau, là quan hệ biện chứng giữa một bên là con người với tư
cách là cá nhân, nhóm xã hội và một bên là xã hội với tư cách
là một hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội, cấu trúc cụ thể của toàn
bộ hệ thống xã hội.
BÀI 3
PHẠM TRÙ VÀ KHÁI NIỆM XÃ HỘI HỌC
I. PHẠM TRÙ XÃ HỘI HỌC
Xã hội học ngày nay đã và đang phát triển với một tốc
độ cao, từng bước xâm nhập vào nhiều lónh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Bản thân Xã hội học đã hình thành nên
nhiều phân ngành khác nhau như Xã hội học đô thị, Xã hội
học nông thôn, Xã hội học gia đình, Xã hội học dân tộc...
nhưng cho dù Xã hội học có phân ngành sâu rộng đến đâu
thì chúng đều có những xuất phát điểm nhất định, từ những
phạm trù và những khái niệm cơ bản để quan sát nghiên cứu
và lý giải các hiện tượng xã hội, quá trình xã hội hết sức đa
dạng và phức tạp. Điều đó làm cho Xã hội học khác biệt với
các khoa học xã hội khác, đặc biệt là chủ nghóa duy vật lịch
sử và chủ nghóa xã hội khoa học. Các phạm trù và khái niệm
đều không tồn tại trên thực tế, nó là những công cụ trừu
tượng để xây dựng nên một hệ thống tư duy nhằm giải thích
thực tại. Đối với Marx: “Xã hội là một biểu hiện tổng hòa của
các mối quan hệ xã hội” hay là một hệ thống “các quan hệ xã
hội” và khi nói rằng xã hội chẳng qua chỉ là “hoạt động của
con người theo đuổi những mục đích của mình”, Marx đã đưa
ra những cơ sở để chúng ta xây dựng nên những phạm trù và
khái niệm.
1. Tương tác xã hội
Xã hội là một tập thể người có những quan hệ gắn bó
với nhau trong đời sống, trong quá trình sản xuất của cải vật
chất và sống trong một phạm vi nhất định. Một xã hội là một
37
38
tập hợp người có sự phân công lao động, tồn tại qua thời gian
sống trên một địa bàn lãnh thổ cùng chia sẻ những mục đích
chung, cùng thực hiện những nhu cầu của sản xuất, của tái
sản xuất ra của cải vật chất, nhu cầu an ninh và nhu cầu tinh
thần. Do vậy, con người muốn tồn tại trong một xã hội thì
phải biết xã hội vận hành như thế nào trong hoạt động và
mối quan hệ xã hội của mình. Marx đã nhấn mạnh rằng xã
hội là biểu hiện tổng hòa của các mối quan hệ xã hội hay là
một hệ thống mối quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội và hoạt
động xã hội là mối quan hệ biện chứng với nhau.
Tương tác xã hội (TTXH) là một khái niệm được quy từ
hai khái niệm quan hệ xã hội và hoạt động xã hội, nó nói lên
rằng mỗi hoạt động có mục đích của con người chỉ trở thành
hoạt động xã hội khi nó nằm trong và thông qua một số mối
quan hệ giữa các chủ thể hoạt động, mặt khác khái niệm
tương tác xã hội nói lên rằng mỗi quan hệ xã hội đều gắn
liền với một hoạt động xã hội nhất định. Trong thư Marx gởi
cho Anencov, Marx đưa ra lời giải đáp khái quát nhất cho
câu hỏi xã hội là gì nếu không kể đến hình thức cụ thể của
nó, được mô tả như “một sản phẩm của sự tương tác của con
người”. Marx coi xã hội là cả toàn bộ đời sống xã hội chứ
không phải là tổng số đời sống cá nhân. Là một khái niệm
chung nhất, tương tác xã hội đã có mặt trong sự tác động qua
lại của các hiện tượng, các quá trình và các hệ thống hoạt
động, những mối liên hệ và quan hệ trong hiện thực xã hội.
Khi nói tới hệ thống tương tác xã hội thì không thể
không nói tới con người của quan hệ xã hội và con người của
hoạt động xã hội hay đó là chủ thể xã hội. Cả chủ thể xã
hội, quan hệ xã hội và hoạt động xã hội có mối quan hệ với
nhau nhưng mỗi yếu tố lại có tính chất đặc thù riêng. Đó là
một tập hợp tối thiểu để xem xét hiện tượng và quá trình xã
39
hội. Theo Nguyễn Minh Hòa, trong Xã hội học đại cương, thì
tập hợp khái niệm đó được biểu hiện ở sơ đồ sau:
Quan hệ xã hội
Hoạt động xã hội
TTXH
CTXH
HĐXH
QHXH
CTXH
TTXH
HĐXH
QHXH
2. Chủ thể xã hội
Chủ thể xã hội (CTXH) là kẻ mang sự tương tác xã
hội, điều đó có nghóa chủ thể xã hội là con người, nó vừa là
chủ thể, vừa là khách thể của sự tương tác, chỉ với tư cách đó
thì kẻ mang tương tác xã hội mới đóng được vai trò xã hội
nhất định và mới xác lập được những mối quan hệ nhất định
giữa họ với nhau. Chủ thể xã hội tự thể hiện mình vào hoạt
động trong sự tương tác xã hội với tư cách là cá nhân, nhóm
xã hội và cộng đồng xã hội.
Chủ thể xã hội có vị trí vai trò cực kỳ quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội. Ở nước ta hiện nay, việc phát
huy nhân tố con người, quan tâm đến nguồn lực con người
có ý nghóa cực kỳ quan trọng trong tiến trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
40
3. Hoạt động xã hội
Hoạt động xã hội (HĐXH) là hoạt động có mục đích
của con người, là hoạt động cơ bản chủ yếu của con người
trên tất cả các lónh vực của đời sống nhằm duy trì sự tồn tại
và phát triển xã hội. Nó bao gồm năm hoạt động:
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất của con người nhằm cải biến hiện thực khách quan phục
vụ những nhu cầu của con người. Nó bao gồm hoạt động sản
xuất các phương tiện vật chất. Đó là những phương tiện
nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của con người như lương
thực, quần áo, nhà cửa... và những phương tiện nhằm thỏa
mãn nhu cầu sản xuất như công cụ sản xuất và tư liệu sản
xuất. Theo định nghóa của Marx “hành động lịch sử đầu tiên”
hay “sự kiện chủ yếu” là sản xuất ngay chính bản thân đời
sống vật chất;
Hoạt động sản xuất ra giống nòi, sản xuất ra những
con người cũng là một hoạt động cơ bản nhằm duy trì nòi
giống, duy trì sự tồn tại của xã hội. Đó là hoạt động nhân
giống bằng tái sản sinh tự nhiên hay hoạt động tái sản sinh
xã hội;
Hoạt động sản xuất ra các giá trị văn hóa mà sản
phẩm của nó là tri thức khoa học nghệ thuật, tôn giáo, triết
học, chính trị và các hình tượng nghệ thuật, chuẩn mực giá trị
như cách ứng xử, tiêu chuẩn đạo đức, ngôn ngữ, thông tin...;
Cuối cùng là hoạt động giao tiếp, là hoạt động trao
đổi thông tin giữa các chủ thể xã hội.
4. Quan hệ xã hội
Quan hệ xã hội (QHXH) là mối quan hệ giữa người với
người (quan hệ giữa các chủ thể xã hội) trong quá trình sản
xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng (vật chất, văn hóa,
năng lượng thông tin). Đó là quan hệ giữa người với người
trong quá trình hoạt động thực tiễn cả vật chất lẫn tinh thần.
Tóm lại: Các phạm trù Xã hội học trên đây đã tạo
thành một mô hình phức tạp về tương tác xã hội. Nó chứa
đựng một tập hợp cơ bản những định nghóa trừu tượng nhất
và khái quát nhất, cho nên nó bao hàm được hiện thực xã hội
với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh. Mô hình này được
xem là một mô hình khung của nghiên cứu xã hội. Như vậy
khoa học xã hội học chỉ có thể tồn tại một cách độc lập khi
nó được bắt đầu từ bốn xuất phát điểm lớn:
a. Cá nhân với tính cách là những cá thể riêng biệt, độc
lập tồn tại trong những mối quan hệ tương tác xã hội;
b. Nhóm xã hội là một tập hợp các cá nhân cả về mặt
thực thể và hoạt động xã hội;
c. Thể chế xã hội là chất kết dính các cá nhân, nhóm
xã hội và điều tiết hoạt động của chúng;
d. Cộng đồng xã hội.
Hoạt động chủ yếu thứ tư của con người là hoạt
động quản lý với mục đích điều tiết hoạt động của các chủ
thể xã hội và các quan hệ của họ trên cơ sở những quy tắc và
những chuẩn mực được hình thành trong quá trình tương tác
xã hội. Loại hoạt động này còn gọi là hoạt động điều tiết xã
hội;
41
Mô hình về tương tác xã hội
TTXH
42
HĐXH
CTXH
QHXH
thượng tầng cũng được dùng làm phương pháp tiếp cận xã
hội học.
b. Hệ thống xã hội bộ phận
Xã hội bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một tổng thể,
một hệ thống xã hội toàn vẹn. Hệ thống xã hội là tổng thể
hợp thành của các phân hệ. Các mối quan hệ giữa các phân
hệ, mỗi thành phần của hệ thống chỉ tồn tại trong quan hệ
với các hệ thống khác và trong sự vận động cả các hệ thống
nội tại của nó.
5. Hệ thống xã hội
Hệ thống xã hội là một phạm trù quan trọng bao gồm
hình thái kinh tế - xã hội (Hệ thống xã hội tổng thể) và hệ
thống xã hội bộ phận.
a. Hình thái kinh tế xã hội: cách tiếp cận xã hội tổng
Trên đây là những vấn đề chung của Xã hội học những vấn đề của Xã hội học đại cương. Nó là cơ sở xuất
phát giúp chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu các lónh vực cụ thể
của Xã hội học chuyên ngành.
thể
II. KHÁI NIỆM XÃ HỘI HỌC
Xã hội học xem xét xã hội xuất phát từ học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Marx. Hình thái kinh tế - xã hội là
hòn đá tảng để nhận thức duy vật khoa học về lịch sử vì nó
dựa vào một phương thức sản xuất nhất định và thể hiện ra
như những bậc thang phát triển của nhân loại từ xã hội này
sang xã hội khác cao hơn. Lenin đã từng viết: “K. Marx là
người đầu tiên làm cho xã hội học có một cơ sở khoa học
bằng cách xác định khái niệm hình thái kinh tế - xã hội”.
1. Thiết chế xã hội (thể chế)
Để tiếp cận một cách tổng thể Xã hội học, Xã hội học
đã rút ra từ học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Marx
những lý luận hết sức quan trọng. Đó là quan hệ sản xuất trở
thành kiểu quan hệ đóng vai trò nền tảng để từ đó giải thích
một trong những nguyên nhân của sự biến đổi các kiểu quan
hệ xã hội khác. Lý luận về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
43
a. Khái niệm
Theo quan niệm của Xã hội học thì khái niệm thiết chế
xã hội hay còn gọi là thể chế xã hội có thể hiện theo hai
cách:
Thứ nhất là cách thức tổ chức xã hội với toàn bộ bộ
khung của xã hội do luật pháp tạo nên;
Thứ hai, thiết chế xã hội dùng chỉ một tập hợp
những giá trị chuẩn mực, quy tắc, thói quen hay tập tục được
áp dụng trong xã hội được xã hội thừa nhận
Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững các giá trị
chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh
một nhu cầu cơ bản của xã hội. Nó là một tổ chức nhất định
44
của sự hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội được thực
hiện bằng một hệ thống của các hành vi con người với các
chuẩn mực và quy phạm xã hội. Thiết chế xã hội là một
thành tố đặc thù đảm bảo tính kế thừa và tính ổn định tương
đối của những mối liên hệ trong khuôn khổ của một tổ chức
xã hội nhất định. Tất cả các thiết chế đều có các quy tắc
chuẩn mực, điều luật và cả cơ chế vật chất của nó mà các
nhóm xã hội phải tôn trọng, nó là chất kết dính giữa các cá
nhân, các nhóm xã hội và sự điều tiết hoạt động của chúng.
b. Các loại thiết chế
Thiết chế chính trị được đặc trưng bằng nhà nước và
chức năng quản lý hành chính, gồm những cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp và ranh giới địa lý nhất định trong toàn
bộ hệ thống chính trị.
Thiết chế văn hóa là các quy định về các hoạt động
văn hóa, khoa học, nghệ thuật.
Thiết chế đạo đức là các quy tắc chuẩn mực giá trị
về các đối xử của mọi người trong xã hội...
Thiết chế gia đình là hệ thống qui định và tiêu
chuẩn hóa tính giao và sự truyền chủng của con người. Hiện
nay ở nước ta, đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng, xây
dựng gia đình bền vững hạnh phúc, thực hiện năm chức
năng:
Thiết chế kinh tế là các quy chế hoạt động sản xuất
kinh doanh tương ứng với các thành phần kinh tế; thực hiện
chức năng: sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng của cải
vật chất, hàng hóa và dịch vụ.
Thiết chế giáo dục là quá trình xã hội hóa trong giáo
dục và trong môi trường văn hóa xã hội, là xây dựng nền văn
hóa mới và con người mới xã hội chủ nghóa thực hiện năm chức
năng:
Chuẩn bị nghề nghiệp xã hội cho cá nhân
Chuyển giao di sản văn hóa qua các thế hệ
Giúp cho cá nhân làm quen dần với các giá trị xã
hội
Thực hiện các vai trò xã hội của cá nhân
45
Tham gia điều chỉnh và kiểm soát hành vi và quan
hệ xã hội của cá nhân .
Điều chỉnh hành vi tình dục và giới
Duy trì sự tái sản sinh, nhân giống
Chăm sóc bảo vệ trẻ em, xã hội hóa trẻ em
Nuôi dưỡng người già
Là đơn vị kinh tế và tiêu dùng .
c. Chức năng của thiết chế
Thứ nhất, thiết chế xã hội có chức năng khuyến
khích, điều chỉnh, điều hòa hành vi của con người phù hợp
với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết
chế.
Thứ hai, thiết chế xã hội có chức năng ngăn chặn,
kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc với thiết chế.
Mỗi thiết chế xã hội đều được đặc trưng bởi những
mục đích hành động, bởi chức năng xã hội đối với thiết chế
đó, bởi hệ thống chế tài đảm bảo cho cái đáng có và ngăn
chặn cái lệch lạc. Sự tồn tại của mọi xã hội, tính ổn định và
46
sự phát triển của xã hội không thể có được nếu không có
quản lý xã hội và kiểm soát xã hội...
Chú ý: Sự rối loạn của thiết chế sẽ dẫn đến sự rối loạn
xã hội, không có thể chế xã hội thì cũng không có kỷ cương
xã hội. Do vậy thiết chế xã hội phải có chức năng quản lý xã
hội và kiểm soát xã hội. Nó được quyền sử dụng những biện
pháp thưởng phạt các thành viên trong xã hội. Hình phạt có
thể chia làm hai loại.
luật.
Hình phạt hình thức là các hình phạt của thiết chế pháp
Hình phạt phi hình thức là hình phạt của thiết chế
đạo đức và dư luận xã hội.
d. Các đặc điểm của thiết chế xã hội
Các thiết chế có xu hướng duy trì sự ổn định của xã
hội, bảo vệ tính bền vững tương đối của các chuẩn mực và
các quy phạm xã hội trong khuôn khổ của một trật tự xã hội;
Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Duy
trì những giá trị chuẩn mực chung, phản ánh mục tiêu chung,
vì vậy các thiết chế có xu hướng phụ thuộc nhau, một thiết
chế luôn thể hiện một phần trong các thiết chế khác;
Các thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của
những vấn đề xã hội chủ yếu. Các thiết chế được thiết lập
trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ bản.
2. Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau,
về vị thế, vai trò, nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị
nhất định. Xã hội được hình thành bởi các nhóm xã hội, là
tổng hòa của các nhóm xã hội rất đa dạng và đan chéo nhau,
cùng lúc cá nhân có thể thuộc nhiều nhóm xã hội khác nhau.
47
Mỗi nhóm xã hội được hình thành có một kiểu đặc trưng
quan hệ khác nhau. Nhóm gia đình đặc trưng bằng kiểu quan
hệ gia đình, nhóm bạn bè thì đặc trưng bằng kiểu quan hệ
bạn bè...
Khi nghiên cứu về nhóm, cần phân biệt nhóm và đám
đông. Đám đông chỉ là một tập hợp người ngẫu nhiên, không
có mối liên hệ nào bên trong như những tốp người trên bãi
biển, tốp người trước rạp hát, chợ búa... Khác với đám đông
chỉ là sự tụ hợp hình thức, ngẫu nhiên đơn thuần, nhóm có
liên hệ hữu cơ bên trong. Đó là sự tập hợp của những người
được liên hệ với nhau trên cơ sở những lợi ích đòi hỏi phải
cùng công tác, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau.
Nhóm là những bộ phận hữu cơ, để cấu thành nên xã
hội. Tuỳ theo cách phân chia, Xã hội học phân nhóm theo
nhiều loại hình, cấp độ khác nhau. Nhóm theo nghóa hẹp là
những nhóm nhỏ, là một tập hợp xã hội ít người mà trong đó
các thành viên có quan hệ trực tiếp và tương đối ổn định với
nhau. Những quan hệ xã hội trong nhóm nhỏ được thể hiện
dưới hình thức tiếp xúc cá nhân, đó là cơ sở nảy sinh những
quan hệ tình cảm cũng như các giá trị đặc thù và những
chuẩn mực của các ứng xử. Nhóm theo nghóa rộng là những
nhóm lớn, là tập hợp các cộng đồng nhóm được hình thành
trên cơ sở dấu hiệu xã hội chung có liên quan đến đời sống
trên cơ sở của một hệ thống quan niệm trong xã hội.
Như vậy, trong Xã hội học người ta chia thành nhóm sơ
cấp, nhóm thứ cấp, ngoài ra còn có nhóm chính, nhóm phụ,
nhóm cơ bản, nhóm không cơ bản. Đặc trưng quan trọng của
nhóm là người đứng đầu của nhóm. Trong những nhóm
không chính thức người đứng đầu đóng vai trò thủ lónh.
Nhóm có một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình
nghiên cứu cơ cấu xã hội.
48
Thông thường có các loại nhóm sau: nhóm sơ cấp,
nhóm thứ cấp, nhóm chính thức, nhóm không chính thức...
hội;
Sự nỗ lực vn lên và ý thức của cá nhân.
3. Di động xã hội và sự lệch chuẩn của cá nhân
4. Tổ chức và trật tự xã hội
a. Di động xã hội
Đó là sự vận động của một cá nhân từ một vị trí xã hội
này sang một vị trí xã hội khác. Nó bao gồm tính di động
theo chiều ngang và tính di động theo chiều rộng. Tính di
động theo chiều ngang chỉ sự vận động của cá nhân tới các
vị trí xã hội khác như từ giai cấp này sang giai cấp khác, từ
nhóm xã hội này sang nhóm xã hội khác. Tính di động theo
chiều dọc là sự vận động của cá nhân trong nội bộ mỗi nhóm
xã hội, là sự vận động về mặt chất của mỗi cá nhân (sự
thăng tiến, địa vị xã hội). Ngoài ra còn loại di động liên thế
hệ, là sự di chuyển giữa hai thế hệ cha - con về nghề nghiệp
hay địa vị xã hội. Loại di động nội thế hệ là sự di chuyển
nghề nghiệp hay địa vị xã hội của cá nhân qua các giai đoạn
khác nhau trong cuộc đời mình.
b. Sự lệch chuẩn của cá nhân
Trong đời sống xã hội không phải cá nhân nào cũng
tôn trọng và làm theo các chuẩn mực, giá trị, điều luật, qui
định và không phải bất cứ cá nhân nào cũng làm đúng các
chuẩn mực giá trị, điều luật, qui định. Xã hội học gọi đó là
hiện tượng lệch chuẩn của cá nhân.
sau:
Sự quan tâm, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã
Để khắc phục hiện tượng lệch chuẩn cần phải có các yếu tố
Tổ chức xã hội là một khái niệm quan trọng của Xã
hội học được hiểu theo hai nghóa: theo nghóa rộng, tổ chức xã
hội chỉ tất cả các loại tổ chức trong xã hội; theo nghóa hẹp, tổ
chức xã hội là một tiểu hệ thống xã hội trong một tổ chức xã
hội nhất định nào đó. Trong Xã hội học thì tổ chức xã hội
được dùng theo nghóa thứ nhất. Đó là bất kể tổ chức nào
trong xã hội, là hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết các cá
nhân trong các hoạt động nhắm hướng tới một mục đích nhất
định.
Trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự hoạt động ổn định
hài hòa của các thành viên trong cơ cấu xã hội, được thể
hiện ở tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của
các hành động xã hội. Trật tự xã hội có vai trò cực kỳ quan
trọng để duy trì sự phát triển xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà
hệ thống xã hội đạt được sự ổn định để hoạt động có hiệu
quả. Cơ chế đảm bảo cho trật tự xã hội là các thiết chế xã
hội. Các thiết chế xã hội có chức năng điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội mà chủ yếu là mối quan hệ kinh tế giữa các
nhóm trong hệ thống xã hội. Sự ổn định của trật tự xã hội
phụ thuộc vào tính hiệu quả của thiết chế xã hội, sự điều
hòa, kiểm soát của chủ thể trong một tổ chức xã hội nhất
định.
Sự răn đe của pháp luật để ngăn ngừa và hạn chế
làm cho hành vi lệch chuẩn của cá nhân không trở thành tội
phạm;
49
50