BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH ĐƠNG
PHỊNG NGỪA TỘI HỦY HOẠI HOẶC
CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH TÂY NINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự-Mã số: 60.38.40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Văn Thanh
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp đỡ của Giáo
viên hướng dẫn, nhà trường, các ban ngành tỉnh. Là kết quả quá trình lao động
trên cơ sở tham khảo các sách, tạp chí và các cơng trình nghiên cứu có liên quan
của các tác giả khác. Từ đó tác giả đã xây dựng nên cơng trình khoa học của bản
thân mình.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn được thu thập trên cơ sở khách
quan và trung thực./.
Ngƣời cam đoan
Nguyễn Thanh Đông
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA
: Bộ Công an.
BLHS
: Bộ luật hình sự.
BTP
: Bộ Tư pháp.
CSĐT
: Cảnh sát điều tra
CHXHCNVN
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
HĐND
: Hội đồng nhân dân.
THTT
: Tiến hành tố tụng.
TNHS
: Trách nhiệm hình sự.
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao.
TTXH
: Trật tự xã hội.
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân.
UBND
: Uỷ ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
CHƢƠNG 1-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TỘI
PHẠM HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƢ HỎNG TÀI SẢN ............... 5
1.1 Nhận thức chung về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản ..... 5
1.1.1 Khái quát về lịch sử quy định tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản trong luật hình sự Việt Nam………………………….. ...................... 5
1.1.2 Dấu hiệu pháp lý ................................................................................. 8
1.2. Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm……………… ............ .13
1.2.1. Khái niệm, biện pháp, nội dung về phòng ngừa tội
phạm .............................................................................................................. 13
1.2.2 Ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm .................................................. 21
1.3 Nhận thức về phòng ngừa tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ
hỏng tài sản …………………………………………………... .................. 23
1.3.1 Khái niệm về phòng ngừa tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản ................................................................................................... 23
1.3.2 Chủ thể của phòng ngừa tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản ............................................................................................................ 24
1.3.3 Nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản .............................................................................................. 29
CHƢƠNG 2-THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA TỘI
PHẠM HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƢ HỎNG TÀI SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH……………………… .................................. 33
2.1 Tình hình, đặc điểm có liên quan đến phòng ngừa tội phạm huỷ
hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh………………………………………………………………. ............ .33
2.1.1 Đặc điểm địa lý dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tâm lý xã
hội…………………………………………………………………............. .33
2.1.2. Tình hình tội phạm “Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh từ năm 2006 đến năm 2010 và nguyên nhân của nó 38
2.1.3 Đặc điểm tội phạm học của tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh……………………… .................. .48
2.2. Phòng ngừa tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh........................................................................................ 54
2.2.1. Phòng ngừa xã hội ........................................................................... 55
2.2.2- Phòng ngừa nghiệp vụ ...................................................................... 57
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong phòng ngừa tội
phạm “Huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản” trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh ............................................................................................................... 58
CHƢƠNG 3-DỰ BÁO TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM “HỦY
HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƢ HỎNG TÀI SẢN” TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH TÂY NINH……………………………………............................... .61
3.1 Dự báo tình hình tội phạm “Hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài
sản” trên địa bàn tỉnh Tây Ninh…………………………… .................. ..61
3.1.1 Cơ sở của dự báo............................................................................... 61
3.1.2 Nội dung dự báo tình hình tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh………………………………….................. 63
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm “Hủy hoại
hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản” trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong thời
gian tới……………………………………………….. ............................... .66
3.2.1. Các giải pháp chung ......................................................................... 66
3.2.2. Các giải pháp cụ thể ......................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC SỐ LIỆU
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước chúng ta đã có nhiều phát triển dẫn đến sự thay đổi
lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị ngày càng ổn định, kinh tế ngày
càng tăng trưởng vượt bậc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Tuy
nhiên, ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh tế đã khiến cho tình hình tội phạm mang bộ
mặt khác và ngày càng nguy hiểm hơn. Giá trị vật chất được đề cao là động lực cho
một số người thực hiện những hành vi phạm tội như xâm phạm sở hữu, các tội phạm
xâm phạm tính mạng sức khỏe con người…Nắm được tình hình này, Đảng và Nhà
nước ta bên cạnh chú trọng phát triển về lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nhất là công
tác chăm lo đời sống xã hội của người dân, đảm bảo tình hình an ninh trật tự, an tịan
xã hội, trong đó cơng tác đấu tranh phịng chống, phòng ngừa tội phạm được xem là
một trong những vấn đề rất quan trọng trong quá trình phát triển hiện nay. Điều đó đã
góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an tịan xã hội, bảo vệ chế độ chính trị, nền văn hóa,
quốc phịng, tính mạng, sức khỏe, tài sản,v.v…
Bên cạnh đó trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tăng cường
đấu tranh phòng, chống tội phạm trên mọi lĩnh vực trong tình hình mới, Các cơ quan
tiến hành tố tụng đã ra sức trấn áp các loại tội phạm, đưa ra khởi tố, truy tố, xét xử
(trong đó đặc biệt là tăng việc tuyên truyền, vận động, giáo dục cho các địa bàn trong
tỉnh) nhưng tình hình tội phạm vẫn khơng có chiều hướng giảm mà còn tăng lên cả về
số lượng, quy mơ và hậu quả, trong đó hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản hiện nay không chỉ đơn thuần là những hành vi trả thù, tức giận, để che
giấu tội phạm…mà mở rộng thêm là hành vi về kinh tế, chính trị…trở thành tội phạm
phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tội phạm nói chung và nhóm tội xâm phạm sở
hữu nói riêng, đồng thời trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đã xuất hiện một số điểm nóng về
tình hình tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhất là những điểm có địa
bàn rộng, tài sản có giá trị kinh tế cao nhưng khó quản lý như: cây cao su, cây khoai
mì, cây mía… mà lợi nhuận kinh tế của những tài sản này không nhỏ, thậm chí cịn cao
hơn cả một địa phương khác về tình hình tội phạm này.
Từ thực tiễn đó cho thấy hiệu quả cơng tác phịng ngừa tội phạm nói chung, tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh cịn bộc lộ
2
nhiều thiếu sót, như: thiếu cơ chế kết phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong
và ngoài nước; cán bộ chưa nhận thức đầy đủ, thiếu thông tin, hạn chế về trình độ
chun mơn, chưa đáp ứng u cầu thực tế hiện nay.Ý thức tự bảo vệ tài sản của mình
và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong nhân dân còn hạn chế.Các cơ quan, xí
nghiệp, tổ chức kinh tế tuy có điều kiện về tài chính nhưng khơng chú trọng bảo vệ tài
sản, khơng trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng,
chống tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng, tội phạm nói chung.
Vì vậy, với mong muốn góp phần nâng cao cơng tác phịng ngừa tội huỷ hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ngày càng hiệu quả cao hơn, tác giả
chọn đề tài: “Phòng ngừa tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình, qua đó đề ra một số giải pháp
có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có 01 số cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề
đấu tranh phòng, chống tội phạm như luận văn cao học “Đấu tranh phòng, chống tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Dương Thị Ngọc
Thủy; “Đấu tranh phòng, chống tội Vi phạm quy định về điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ” trên địa bàn hai tỉnh Tiền Giang và Bến Tre từ năm 2004 đến
năm 2009” của tác giả Ngơ Hồng Huy; “Biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội phạm
cướp giật sử dụng phương tiện xe máy tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn
Văn Cơng,v.v…các tạp chí kiểm sát, Cơng an nhân dân…, nhưng riêng trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh chưa có đề tài nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực này, do tính chất loại
tội này diễn ra ngày càng tăng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự trị an, kinh tế, về
quyền sở hữu,v.v…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích của đề tài
Phân tích, đánh giá tình hình tội phạm và thực tiễn hoạt động phòng ngừa tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại địa bàn tỉnh Tây Ninh nhằm tìm ra những hạn
chế, vướng mắc, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm để đưa ra các giải
pháp nâng cao việc phịng ngừa tội phạm có hiệu quả trên địa bàn Tây Ninh trong thời
gian tới.
3
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Từ mục đích nghiên cứu trên thì luận văn đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
-Nghiên cứu tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo qui định của Bộ luật hình
sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Bộ luật hình sự năm 1985.
-Nghiên cứu tình hình hoạt động phòng ngừa tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh từ năm 2006 đến 2010.
-Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản và thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm này trong thời gian qua trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh.
-Dự báo tình hình tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh trong thời gian tới.
-Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
-Thực tiễn tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
-Hoạt động phòng ngừa tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
dưới gốc độ tội phạm học
-Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Tây Ninh
-Thời gian nghiên cứu: từ năm 2006 đến năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về đấu
tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời sử dụng những
phương pháp cụ thể như: phân tích tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, thống kê, tổng kết
thực tiễn, phương pháp so sánh…
6. Kết quả của hoạt động nghiên cứu
6.1 Về mặt lý luận
4
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung lý luận đấu tranh phòng ngừa tội phạm
cũng như góp phần bổ sung cho các chương trình học mơn: Luật hình sự, tội phạm học,
xã hội học…nhất là hiện nay Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
6.2 Về mặt thực tiễn
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu tội phạm học cũng như kết quả
nghiên cứu của đề tài có thề được áp dụng và tổ chức thực hiện trong hoạt động phòng
ngừa tội Hủy hoại hoặc Cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh và 01 số
địa phương khác.
7. Cấu trúc của đề tài
Luận văn có cấu trúc như sau: Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và mục lục, nội dung của đề tài có cấu trúc gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa Tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong Bộ luật hình sự.
Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Chương 3: Dự báo tình hình tội phạm và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HỦY HOẠI
HOẶC CỐ Ý LÀM HƢ HỎNG TÀI SẢN
1.1 Nhận thức chung về tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản
Hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là những hành vi xâm hại trực tiếp đến
tài sản của công dân, Nhà nước trừ những hành vi xâm hại các cơng trình quan trọng về
an ninh quốc gia,v.v… hậu quả của tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là bao
gồm những thiệt hại về vật chất và chi phí khơi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản
thiệt hại cho nên trong cấu thành tội phạm thì hậu quả là dấu hiệu bắt buộc.
Vì vậy, sự nhận thức đầy đủ về hậu quả của tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
có vai trị quan trọng trong việc tăng cường bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ tính mạng, tài sản của công dân, v.v…
1.1.1 Khái niệm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt
Nam
Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một trong những tội được quy định rất
sớm trong các văn bản luật như: Sắc luật số 26-SL/46 ngày 25/2/1946 của Chính phủ
cách mạng lâm thời về việc phá hoại cộng sản gồm 06 Điều nêu rõ việc cố ý phá hoại
một phần hay toàn thể các cầu cống, kênh hay sông đào…, Thông tư số 442/TTg ngày
19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm nhằm bảo vệ an
ninh trật tự an tồn xã hội cho nhân dân, giữ gìn, bảo vệ chính quyền cách mạng trong
kháng chiến,v.v…đến ngày 27/6/1985 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam Khố VII đã thơng qua Bộ luật hình sự năm 1985 (có hiệu lực
từ ngày 01/01/1986), thì loại tội phạm trên được quy định tách ra thành 02 loại tội dựa
trên đối tượng tội phạm là tài sản XHCN tại Điều 138 và tài sản cơng dân tại Điều 160
của Bộ luật hình sự.
Tại Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không
thuộc trường hợp quy định ở điều 79 và 94 thì bị phạt từ từ 01 đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 đến 15 năm:
a) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn;
6
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác;
3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm,
tù chung thân hoặc tử hình.
Tại Điều 160 Bộ luật hình sự quy định:
1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
hai năm:
a) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thu đoạn nguy hiểm khác;
b) Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác;
c) Để che giấu tội phạm khác;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai
mươi năm.
Ngày 21/12/1999 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khố X, kỳ họp
thứ 6 đã thơng qua Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một số tội
phạm có hiệu lực ngày 01/7/2000. Trong các tội được sửa đổi, bổ sung thì có tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là do xuất phát từ những diễn biến phức tạp của tình
hình tội phạm này nên cần có sửa đổi, bổ sung phù hợp hơn mà cụ thể là việc nhập hai
Điều luật 138 và 160 Bộ luật hình sự 1985, về hình phạt, hình sự hố một số hành vi
phạm tội này, cũng như cần có những quy định cụ thể và chi tiết để áp dụng được
thống nhất, đáp ứng cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm trong tình hình
mới,v.v…Như vậy việc nhập hai tội (hủy hoại tài sản XHCN và tài sản công dân) lại
thành 01 tội tại Điều 143 BLHS 1999 là xuất phát từ sự chuyển biến của kinh tế-xã hội,
sự thay đổi của Hiến pháp 1992 về thừa nhận chế độ đa sở hữu, sở hữu tư nhân không
bị xem nhẹ hơn sở hữu nhà nước nhằm tạo môi trường xã hội công bằng bình đẳng
hơn.Cịn tình tiết xâm phạm tài sản nhà nước chỉ xem là tình tiết tăng nặng tại Điều 48
BLHS.
Theo quy định tại Chương XIV, Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) đã quy định như sau:
7
“1.Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ
hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”….
Như vậy, với quy định tại Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) so với Bộ
luật hình sự năm 1985 đã có một số sửa đổi, bổ sung:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định
“Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc
trường hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94”; hoặc theo quy định tại khoản 1 Điều 160
của Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản của người khác”; thì khoản 1 Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi):
“Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm…”, với việc sửa đổi, bổ sung này thì phạm
vi áp dụng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đã giảm đi so với Bộ luật hình sự năm
1985, điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi) thì phải thoả mãn một trong các điều kiện sau: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xố án
tích mà cịn vi phạm.
+ Ngồi ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi)
đã bổ sung một số tình tiết định khung so với Bộ luật hình sự năm 1985 gồm: là “Có tổ
chức; vì lý do cơng vụ của người bị hại; tái phạm nguy hiểm” và sửa đổi tình tiết “huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị lớn” thành “Gây thiệt hại cho tài sản có
giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”, việc sửa đổi, bổ sung một
số tình tiết này là xuất phát từ thực tiễn của tình hình tội phạm này đặt ra địi hỏi cần có
những điều chỉnh cho phù hợp hơn.
+ Đồng thời Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) đã quy định thêm 02 khung hình phạt
so với Bộ luật hình sự năm 1985 và chi tiết hơn về các tình tiết định khung tăng nặng
và hình phạt cũng có độ giản thấp hơn theo sự phân hóa tội phạm tại Điều 8 của Bộ
luật mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thực tiễn áp dụng để truy cứu trách nhiệm
hình sự, điểm đáng chú ý là Ngày 19/6/2009 Quốc hội khố XII đã bỏ hình phạt tử
8
hình tại 08 tội (hiếp dâm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn lậu, tàng trữ lưu hành tiền
giả ngân phiếu công trái giả, sử dụng ma tuý trái phép, chiếm tàu bay tàu thuỷ, đưa hối
lộ, huỷ hoại vũ khí quân dụng phương tiện kĩ thuật quân sự), đây thể hiện mục đích
hình phạt chủ yếu là giáo dục chứ không chỉ là nhằm trừng phạt.
+ Chẳng hạn về hình phạt theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình
phạt tù từ một năm đến bảy năm hoặc khoản 1 Điều 160 BLHS thì hình phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 143 BLHS của Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi) thì chi tiết hơn, và có mức độ khác nhau như thấp nhất là hình
phạt cải tạo khơng giam giữ, cao nhất là hình phạt tù đến ba năm, việc chi tiết mức
hình phạt của tội này một phần xuất phát từ nhiệm vụ của Bộ luật hình sự là ngồi giáo
dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, mà cịn xuất phát từ tính
nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là giáo dục người phạm tội,v.v…
Từ tất cả nhận thức như trên, có thể rút ra khái niệm về Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội của người có năng lực trách nhiệm hình
sự, cố ý xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm cho tài sản của họ bị
thiệt hại không cịn khắc phục lại được hoặc bị hư hỏng khơng cịn như tình trạng ban
đầu và theo quy định của Bộ luật hình sự họ phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS).
1.1.2 Dấu hiệu pháp lý
Theo khoa học pháp lý hình sự thì khi nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý của tội phạm nói
chung, hay của một tội phạm cụ thể nói riêng thì đều có bốn dấu hiệu cơ bản, đó là:
khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ thể của tội phạm và
mặt chủ quan của tội phạm.Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì cũng có
những dấu hiệu pháp lý riêng cụ thể như sau:
- Mặt khách thể của tội phạm
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có khách thể là xâm phạm đến quyền sở
hữu tài sản của người khác, đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm
đoạt như cướp tài sản,v.v…Đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản khơng quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình
tiết định khung hình phạt.Vì vậy, nếu hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà gây
chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tùy
từng trường hợp cụ thể mà xác định người phạm tội đã gây ra hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
9
Cần lưu ý: do tính chất đặc biệt nên một số tài sản của Nhà nước bị xâm hại như những
cơng trình quan trọng về an ninh quốc gia, vũ khí, phương tiện kỹ thuật qn
sự…khơng là đối tượng của hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, hành vi
xâm phạm các tài sản này cấu thành các tội tương ứng trong Chương các tội xâm phạm
an ninh quốc gia…, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm theo quy
định tại Điều 143 Bộ luật hình sự năm 19991.
- Mặt khách quan của tội phạm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) thì tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có biểu hiện khách quan gồm hành vi, hậu quả và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi-hậu quả. Do điều luật quy định hai hành vi phạm
tội khác nhau nên mỗi hành vi phạm tội có hành vi khách quan khác nhau.
Hủy hoại tài sản là làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại
được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản khơng cịn.Tuy nhiên, trong một chừng mực
nhất định thì sự phân biệt giữa hành vi hủy hoại với hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản là
không phải trường hợp nào cũng xác định được, mà chủ yếu căn cứ vào hậu quả của
hành vi gây ra đối với tài sản.Ở tội huỷ hoại tài sản, thì giá trị sử dụng của tài sản bị
mất hồn tồn, cịn tội cố ý làm hư hỏng tài sản, thì giá trị sử dụng của tài sản chỉ bị
mất một phần và cịn có khả năng khơi phục lại được2.
Hình thức thể hiện của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản rất đa dạng,
phong phú, nó được thể hiện dưới các hình thức khác nhau như: đập, đốt bằng cách
dùng chất cháy,v.v…hoặc các hành vi khác nhau nhằm hướng đến mục đích làm mất đi
hoặc giảm tính năng giá trị sử dụng của tài sản.
Dấu hiệu về hậu quả
Hậu quả của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là giá trị hoặc giá trị sử
dụng của tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng. Giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản là
thiệt hại do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng gây ra chứ không phải giá trị hoặc
giá trị sử dụng ban đầu của tài sản khi chưa bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng và phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Từ đó có thể hiểu hậu quả tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bao gồm là thiệt
hại về vật chất và cả phi vật chất, và là dấu hiệu bắt buộc vì người phạm tội phải gây
1
Phùng Thế Vắc và các tác giả (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân,Hà
Nội,tr.223.
2
Nguyễn Mai Bộ và các tác giả (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm), Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, tr.240.
10
thiệt hại tài sản từ hai triệu đồng trở lên, đây là trường hợp phạm tội chỉ thực hiện một
lần, theo hướng dẫn của các cơ quan liên ngành Trung ương thì có thể hiểu một lần
phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có thể bao gồm nhiều lần vi phạm.
Bởi vì, theo Thơng tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội
xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999, trong trường hợp một người thực
hiện nhiều lần hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, nhưng mỗi lần giá trị tài
sản bị xâm hại dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự và khơng thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm
hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa
được xóa án tích...), đồng thời, trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử
phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của
các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo
qui định của Bộ luật hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm
sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản theo tổng số giá trị tài sản của các lần bị xâm hại.
Cần chú ý là, trong các trường hợp nêu trên nếu chỉ căn cứ vào các hành vi vi phạm
nhiều lần thì khơng áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (phạm tội có tính
chất chun nghiệp; phạm tội nhiều lần) quy định tại các điểm b và g khoản 1 Điều 48
Bộ luật hình sự.
Đối với trường hợp nếu phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản do thực hiện
hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây hậu quả nghiêm
trọng. Đây là trường hợp phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có giá trị
dưới 2.000.000 đồng nhưng gây thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản
và thiệt hại phi tài sản khác.Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có quy định giá
trị tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng là tình tiết định tội riêng biệt. Cho nên, thiệt
hại do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không bao gồm cả giá trị tài sản
bị hủy hoại hoặc bị cố ý làm hư hỏng. Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản
thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng3
3
Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành pháp luật,Hà Nội, tr.59.
11
Ngồi các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể cịn
có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh trật tự, an toàn xã hội...Trong các
trường hợp này, phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả
do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng 4.
- Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy, chủ thể của tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 143 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16
tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là chủ thể của tội huỷ hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại các khoản 3 và khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm gồm:lỗi, động cơ, mục đích.Qua nghiên cứu cấu thành cơ
bản nhận thấy dấu hiệu lỗi trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi
đó là tài sản của người khác bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng và mong muốn hậu quả xảy
ra. Cịn dưới hình thức cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra là tài sản của
người khác bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý thức
để mặc cho hậu quả xảy ra. Điểm chú ý đối với mặt chủ quan của tội huỷ hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản thì động cơ, mục đích phạm tội khơng phải là dấu hiệu bắt buộc.
Hình phạt
Tại Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) quy định tội huỷ hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản có 05 khung hình phạt gồm:
- Khung 1: Quy định hình phạt cải tạo khơng giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm. Đây là cấu thành cơ bản khi hành vi phạm tội thỏa mãn cấu thành
quy định tại khoản 1 Đ143 thì bị áp dụng khung hình phạt này;
4
Tịa án nhân dân tối cao (2005): Các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành pháp luật,Hà Nội, tr.60.
12
- Khung 2: Quy định phạt tù từ hai năm đến bảy năm, được áp dụng đối với người
phạm tội thực hiện hành vi khi đủ yếu tố cấu thành cơ bản và có một trong các tình tiết
sau đây:
+ Có tổ chức: là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý cùng thực hiện hành vi huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và trong q trình phạm tội có sự sắp xếp, phân
cơng vai trị giữa các đồng phạm, có vạch kế hoạch cụ thể;
+ Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản: Dùng chất nổ là chất có khả năng gây nên một phản ứng hoá học
nhanh, mạnh, toả nhiều nhiệt và ánh sáng, đồng thời sinh khí và tạo ra tiếng nổ như kíp
mìn, các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm, thuốc phóng, v.v…chất cháy là chất có
đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxy trong khơng khí, nước hoặc khi có tác động
của các yếu tố khác và những chất dễ bị bốc cháy ở nhiệt độ cao như diêm tiêu, phốt
pho, thuốc đạn,v.v…5
Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác là ngoài các trường hợp sử dụng chất nổ, chất cháy,
người phạm tội có thể dùng thủ đoạn nguy hiểm khác để huỷ hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản như: sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê, v.v…làm cho người đang quản lý tài
sản khơng có khả năng bảo vệ tài sản, ngăn chặn tội phạm.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng: Đây là trường hợp phạm tội gây thiệt hại nghiêm trọng
về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại khác phi tài sản 6.
Các tình tiết định khung cịn lại ở khung này và khung 3, 4, 5 được luật quy định tương
đối rõ ràng, duy nhất chỉ tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
thì cịn nhiều cách lý giải khác nhau, mặc dù Thông tư liên tịch số 02 (như đã trích dẫn)
đã được hướng dẫn, nhưng thực tiễn vận dụng còn nhiều cách khác nhau làm ảnh
hưởng đến hiệu quả cơng tác phịng chống tội phạm.
1.2. Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm
1.2.1. Khái niệm, biện pháp, nội dung về phòng ngừa tội phạm
*Khái niệm phòng ngừa tội phạm
Khái niệm “phòng ngừa” theo từ điển Tiếng Việt là “phịng trước khơng cho cái xấu,
cái khơng hay nào đó xảy ra”7,chính vì vậy, nếu hiểu theo sát nghĩa thì phịng ngừa tội
phạm là việc sử dụng các biện pháp nhất định để phòng ngừa trước khơng cho tội phạm
5
Tồ án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, Hà Nội, tr.93.
Toà án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm Pháp luật của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành pháp luật,Hà Nội, tr.59.
7
Viện ngôn ngữ học (2010),Từ điển tiếng Việt,Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.714.
6
13
xảy ra. Hiện nay, trong khoa học pháp lý có rất nhiều quan điểm về khái niệm “phòng
ngừa tội phạm”.
Theo giáo sư Malkova (Nga), 2006 nêu khái niệm “Phòng ngừa tội phạm là việc tác
động không cho tội phạm xảy ra bằng cách triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện
thực hiện tội phạm, giúp đỡ ngăn ngừa những người có khuynh hướng thực hiện hành
vi trái pháp luật; và theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm là một hệ thống các biện
pháp phức tạp để kiềm chế, khắc phục các tiền đề khách quan gây ra tội phạm, bằng
cách huy động mọi tổ chức, chế định trong xã hội vào việc triệt tiêu hoặc làm giảm bớt
các sự kiện dẫn đến phát sinh tình hình tội phạm hoặc thực hiện tội phạm”. Theo tác
giả Hồ Trọng Ngũ thì “Phịng ngừa tội phạm là một hệ thống tổng hợp những biện
pháp có quan hệ hữu cơ với nhau được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi
công dân tiến hành nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra và loại trừ những nguyên nhân,
điều kiện làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực đó”8. Nhìn chung, các khái niệm của các
nhà khoa học nêu trên đều giống nhau ở điểm mục đích phịng ngừa là giảm bớt hoặc
loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội và xác định được các nguyên nhân của tội
phạm để đề ra các cách thức phòng ngừa.
Trong tội phạm học Việt Nam, phòng ngừa tội phạm được hiểu là “Việc sử dụng hệ
thống các biện pháp mang tính xã hội và tính Nhà nước nhằm khắc phục các nguyên
nhân và điều kiện của tình hình Nhà nước nhằm hạn chế và loại bỏ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội” 9.
Theo tác giả, đây là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất hiện nay ở Việt Nam. Tuy
nhiên, “phịng trước khơng cho tội phạm xảy ra” đã được các nhà tội phạm học hiểu
theo nhiều cấp độ khác nhau:
+Thứ nhất, hiểu theo nghĩa hẹp, phịng ngừa tội phạm là khơng cho tội phạm xảy ra
bằng cách tác động vào nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm
+Thứ hai, hiểu theo nghĩa rộng, phịng ngừa tội phạm cũng có nghĩa là xử lý các tội
phạm xảy ra nhằm không cho xuất hiện tội phạm mới. Hiểu theo nghĩa rộng, hoạt động
phòng ngừa được hiểu như hoạt động phòng và chống tội phạm.Trong phạm vi đề tài
này, phòng ngừa tội phạm được hiểu theo nghĩa rộng tức là bao gồm cả hoạt động tác
đông vào nguyên nhân, điều kiện của tội phạm và hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm.
8
Hồ Trọng Ngũ (2005), “ Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư”,Tạp chí Nhà nước và pháp luật,(6), Hà Nội,
tr.11.
9
Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2008), tập Bài giảng tội phạm học, tr.119.
14
Phòng ngừa tội phạm được tiến hành bằng hệ thống các biện pháp khác nhau, mỗi biện
pháp phòng ngừa gắn liền với chức năng, vai trò của một tổ chức Nhà nước và xã hội
nhất định.
- Trong tội phạm học Việt Nam, khi căn cứ vào phạm vi, cấp độ phịng ngừa tội phạm,
có các biện pháp phịng ngừa cơ bản sau đây:
+ Phòng ngừa tội phạm theo cấp độ xã hội chung: là biện pháp phòng ngừa được thực
hiện trên cơ sở những nỗ lực và cải thiện toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị xã
hội, tư tưởng cũng như pháp luật. Phòng ngừa tội phạm bằng biện pháp xã hội chung
thực chất là tạo những tiền đề tích cực, những điều kiện căn bản cho việc loại trừ tội
phạm. Đó là việc hình thành ý thức tự giác cho cơng dân, nâng cao trình độ văn hóa,
chính trị xã hội trong cơng luận, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
+ Phòng ngừa tội phạm theo cấp độ chuyên ngành tội phạm học: được coi là biện pháp
làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể và của tình trạng tội nói chung.
Việc loại trừ các điều kiện phạm tội đòi hỏi phải sử dụng biện pháp có tính đặc biệt
nhất là về sức mạnh cưỡng chế. Vì vậy, trong tội phạm học việc dùng các biện pháp
cưỡng chế hành chính được coi là những biện pháp cần thiết cho việc phòng ngừa tội
phạm.
+ Phòng ngừa tội phạm theo phạm vi lãnh thổ: như trong phạm vi toàn quốc, khu vực,
tỉnh, huyện, v.v...
Biện pháp phòng ngừa tội phạm chỉ đạt được hiệu quả khi xác định được đầy đủ các
đặc điểm của tình trạng phạm tội tại từng khu vực địa lý nhất định. Mỗi một địa
phương, tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa mà có những đặc điểm
khác nhau về nguyên nhân, điều kiện phạm tội, diễn biến của từng loại tội phạm cụ thể
cũng như khả năng thực tế của việc áp dụng các biện pháp phịng ngừa tội phạm nói
chung và tội phạm cụ thể nói riêng.
Ví dụ: ở vùng nơng thơn, vùng cơng nghiệp, vùng thành thị đều có những đặc điểm
quản lý con người khác nhau, có những tồn tại khác nhau, do vậy việc khắc phục
những tồn tại này phải hoàn toàn độc lập với nhau.
- Trong tội phạm học, các biện pháp phòng ngừa tội phạm còn được xác định trên cơ sở
tính chất của sự phịng ngừa, đó là những biện pháp sau đây:
+ Biện pháp kinh tế: là biện pháp tác động bằng kinh tế để khắc phục, hạn chế và loại
trừ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. V.I Lênin đã chỉ rõ “Một trong
những biện pháp phòng ngừa tội phạm là phải nâng cao đời sống vật chất của quần
15
chúng, phải khơng ngừng tăng cường tính tự giác, tích cực, tạo điều kiện cho quần
chúng nhân dân tham gia công việc của Nhà nước và của xã hội”10.
Việc giải quyết những vấn đề chiến lược kinh tế đã mở ra những khả năng to lớn để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xã hội cụ thể khác của sự phát triển nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, đã mở ra con đường dẫn đến việc loại trừ khỏi đời sống xã hội những hiện tượng
trái pháp luật và nguyên nhân của những hiện tượng đó. Vì một trong những ngun
nhân lả điều kiện cơ bản của tội phạm hiện nay là nguyên nhân kinh tế thể hiện ở sự
mâu thuẫn, bất cơng về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Nền
kinh tế kém phát triển, đời sống của một bộ phận dân cư không được đảm bảo, thiếu
thốn, đói nghèo là những hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát sinh và tồn
tại của tội phạm.Vì vậy, việc gia tăng sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân là một
trong những giải pháp có tính chất chiến lược lâu dài, hiệu quả trong cơng tác đấu tranh
phịng ngừa tội phạm.
Nội dung cụ thể của biện pháp này đòi hỏi phải khắc phục tình trạng kinh tế sa sút
trong xã hội, nâng cao điều kiện sống trong nhân dân, tổ chức việc làm cho người lao
động, mở rộng mạng lưới dịch vụ xã hội, tạo việc làm cho người phạm tội đã chấp
hành xong bản án, v.v...
+ Biện pháp chính trị xã hội: là biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, lôi cuốn mọi người vào hoạt động quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội. Bên cạnh đó cịn tác động vào tư tưởng, nhận thức của con người, các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, các tác hại do tội phạm gây ra cho đời sống xã hội dưới các hình thức như tuyên
truyền pháp luật, xét xử án công khai, nghiêm minh... nhằm nâng cao ý thức trách
nhiệm của nhân dân. Một mặt là để động viên nhân dân tự giác tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Mặt khác nhằm định hướng cho những người “không
vững vàng” nhận thức được các giá trị của xã hội cũng như yêu cầu của pháp luật để tự
điều chỉnh xử sự của mình cho phù hợp.
+ Biện pháp văn hóa, tư tưởng: là biện pháp nhằm nâng cao ý thức giác ngộ chính trị
xã hội trong nhân dân, hình thành nhân cách con người mới có ý thức tơn trọng luật
pháp, đấu tranh chống tội phạm.
10
V.I Lênin 23 toàn tập, tập 43, tr.33.
16
Trong cơ cấu chung của tình hình tội phạm thì nhìn chung tỷ lệ người phạm tội là
người có học vấn thấp chiếm một tỷ trọng tương đối cao. Bên cạnh đó, cùng với sự
phát triển chung của xã hội thì những hiện tượng tiêu cực cũng ngày càng xuất hiện
nhiều, như việc lan tràn các ấn phẩm đồi trụy, độc hại; các tư tưởng phản động, các lối
sống tha hóa, biến chất, v.v...Do vậy, địi hỏi Nhà nước phải khơng ngừng nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần lành mạnh cho nhân dân, đảm bảo phổ cập văn hóa ở mức độ có
thể và khơng ngừng nâng cao trình độ văn hóa của xã hội, tổ chức hệ thống giáo dục
đào tạo rộng khắp với những điều kiện thuận lợi cho nhân dân, thu hút quần chúng
nhân dân vào các hoạt động văn hóa lành mạnh, bổ ích, sử dụng sức mạnh của các tổ
chức xã hội vào công tác phòng ngừa tội phạm, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá
nhân với cộng đồng. Những biện pháp này sẽ có tác động to lớn đối với việc khắc phục
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
+ Biện pháp tổ chức quản lý: Hình thành tổ chức quản lý xã hội chặt chẽ nhất từ Trung
ương đến địa phương, đặc biệt là xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm cuả các cơ quan
Nhà nước, xã hội, cơng dân trong đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm.
+Biện pháp phòng ngừa theo chức năng: Phòng ngừa tội phạm là hoạt động chung của
Nhà nước, tuy nhiên hoạt động này cần được phân định cho cơ quan chức năng như:
Tòa án, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân, các tổ chức xã hội…
+Các biện pháp pháp luật: Hoàn thiện pháp luật, ban hành luật pháp kịp thời, chặt chẽ,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật rộng rãi. Xác định
rõ quyền và trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, công dân trong đấu tranh phịng ngừa
và chống tội phạm.
Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật có vai trị rất to lớn, V.I Lênin đã
nhấn mạnh: “Pháp luật xã hội chủ nghĩa như là một công cụ để thực hiện các chính
sách của Đảng và Nhà nước”11.Thấm nhuần tư tưởng này nên tại Điều 12 của Hiến
pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa... Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm, pháp luật có một vai trị rất quan trọng.Trật tự kỷ
cương xã hội, kỷ cương đất nước được đảm bảo đến mức độ nào phụ thuộc rất lớn vào
các biện pháp pháp luật.Tác dụng phòng ngừa của pháp luật được thể hiện ở toàn bộ
11
V.I Lênin 23 toàn tập, tập 43, tr.216.
17
q trình xây dựng và thực hiện pháp luật.Có thể nói rằng tất cả các ngành Luật trong
hệ thống pháp luật trong chừng mực nào đó đều có tác dụng phòng ngừa tội phạm bằng
các chế tài do ngành Luật đó qui định.Ví dụ, chế tài trách nhiệm hành chính của ngành
Luật hành chính, kỷ luật lao động trong Luật lao động v.v...Tuy nhiên khơng có chế tài
nào mạnh mẽ như chế tài Luật hình sự, bằng quy định tội phạm và hình phạt, Luật hình
sự đóng vai trị quan trọng trong việc phịng ngừa tội phạm, và đó là nhiệm vụ chức
năng cơ bản của Luật hình sự.
* Nội dung của phòng ngừa tội phạm
Tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa xã hội) khắc phục các
nguyên nhân và điều kiện phạm tội bằng việc cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện
hệ thống pháp luật làm cho tình hình tội phạm khơng có cơ sở phát sinh tồn tại. Bằng
mọi biện pháp phòng ngừa, không cho tội phạm xảy ra; không để một thành viên của
xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật; xã hội không phải chịu hậu quả của tội phạm;
các cơ quan bảo vệ pháp luật khơng phải có những chi phí cần thiết cho việc điều tra,
khám phá, xử lý người phạm tội và giải quyết hậu quả của tội phạm.Điều quan trọng
hơn là bằng mọi biện pháp đảm bảo cuộc sống bình thường cho mọi cơng dân trong xã
hội. Phát hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là các hoạt động điều tra, xét xử, cải tạo
người phạm tội. Trong trường hợp có tội phạm xảy ra thì truy cứu trách nhiệm hình sự
là rất cần thiết, tác dụng phòng ngừa tội phạm phát huy ngay khi có áp dụng các biện
pháp ngăn chặn. Xử phạt hành chính cũng là một trong những nội dung phịng ngừa tội
phạm quan trọng vì các biện pháp trách nhiệm hành chính cũng góp phần ngăn ngừa
nhiều hành vi nguy hiểm có khả năng phát triển thành tội phạm. Phát hiện, điều tra
khám phá, xử lý kịp thời mỗi khi tội phạm xảy ra nhằm bảo đảm tội phạm không thể
không bị phát hiện và điều tra xử lý theo pháp luật; không một tội phạm nào không bị
phát hiện; không một người phạm tội nào không bị xử lý theo pháp luật. Đây là nội
dung rất quan trọng trong mọi thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đã
được ghi nhận trong nhiều tài liệu của Đảng và Nhà nước. Phải bằng mọi biện pháp cần
thiết, có hiệu quả để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
an ninh trật tự an tồn xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước; kiềm
chế và phát hiện, điều tra xử lý theo pháp luật đối với các loại tội phạm.
Trong hai nội dung của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm không được coi nhẹ nội
dung nào. Cả hai vấn đề này đều rất quan trọng, tầm quan trọng của nó được thể hiện ở
18
chỗ: do tội phạm còn tồn tại trong xã hội, việc điều tra khám phá kịp thời mỗi tội phạm
xảy ra là đảm bảo sự tồn tại, vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cuộc
sống bình thường cho các thành viên trong xã hội. Mặt khác phịng ngừa tội phạm có
hiệu quả giúp cho việc chủ động kiềm chế tội phạm, làm giảm tội phạm trong xã hội.
Nếu so sánh hai nội dung của cuộc đấu tranh chống tội phạm thì trong nhiều tài liệu,
văn bản, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước đều đánh giá phịng ngừa tội phạm
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được cơng tác
phịng ngừa tội phạm phải tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội phạm,
từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa nhằm từng bước hạn chế, ngăn chặn, làm giảm
tình trạng phạm tội trong cuộc sống xã hội, nhất là trong điều kiện hoàn cảnh Việt Nam
hiện nay.
Tuy nhiên phòng ngừa tội phạm chiếm vị trí đặc biệt quan trọng và là mục tiêu đặt ra
của Tội phạm học. Phịng ngừa tội phạm có thể hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng,
“phòng ngừa tội phạm” bao hàm, một mặt không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm,
kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo,
giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những cơng dân có ích cho xã hội. Theo
nghĩa này, việc phát hiện, điều tra, khám phá và xử lý tội phạm là một nội dung của
phòng ngừa tội phạm. Theo nghĩa hẹp, “phòng ngừa tội phạm” là không để cho tội
phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên
của xã hội phải gánh chịu hình phạt của pháp luật. Tội phạm học đặt mục tiêu phòng
ngừa tội phạm theo nghĩa hẹp của cụm từ này.
Do tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội hết sức phức tạp mà phòng ngừa tội phạm,
trước tiên là bằng mọi cách khác nhau kiềm chế được tình hình tội phạm, sau đó từng
bước đẩy lùi và tiến tới giải quyết cơ bản vấn đề tội phạm trong xã hội.Tội phạm học
đã xác định nguyên nhân của tình hình Tội phạm học nói chung và tội phạm cụ thể nói
riêng mang tính xã hội mà phịng ngừa tội phạm khơng chỉ là nhiệm vụ chung của tồn
xã hội, mà còn phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp xã hội.Cả xã hội, trong đó có
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và tất cả công dân, mà các cơ quan tư pháp
là nòng cốt, cũng phải có trách nhiệm tiến hành, thực hiện các biện pháp phịng ngừa
mới có thể góp phần giải quyết được tình hình tội phạm.Phịng ngừa tội phạm là trách
nhiệm của Nhà nước với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, công dân.Do vậy,
19
phòng ngừa tội phạm được thể hiện ở chỗ hướng vào việc thủ tiêu những nguyên nhân
và điều kiện làm phát sinh tội phạm trong xã hội.
Tội phạm, xuất hiện trong xã hội dưới sự tương tác của những hiện tượng tiêu cực xã
hội và quá trình xã hội, thể hiện quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng tiêu cực xã hội
và q trình xã hội đó (được gọi là nguyên nhân, điều kiện) và tội phạm (được gọi là
kết quả).Theo phép biện chứng duy vật, một hiện tượng xã hội (tội phạm) muốn được
sinh ra phải có sự tác động qua lại của nhiều hiện tượng cùng tồn tại (các hiện tượng
tiêu cực xã hội và quá trình xã hội). Như vậy, để không làm phát sinh tội phạm trong
xã hội thì phải xóa bỏ những hiện tượng tiêu cực xã hội với tư cách là nguyên nhân và
điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Những hiện tượng tiêu cực xã hội cần phải được loại bỏ và hoàn thiện q trình xã hội
tập trung vào:
Trước hết là xóa bỏ những mơi trường khơng thuận lợi trong sự hình thành nhân cách
con người, đầu tiên phải từ gia đình (nơi con người được sinh ra), nhà trường (nơi con
người được tiếp nhận những kiến thức và tri thức nhân loại), xã hội (nơi con người có
các giao tiếp trong quan hệ xã hội).Việc xây dựng môi trường sống trong sạch trong gia
đình, nhà trường, xã hội là yếu tố đặc biệt quan trọng xây dựng con người mới, con
người xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng có nghĩa cần thủ tiêu những hiện tượng tiêu cực
bằng việc xây dựng và duy trì một xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi cá nhân
được sống, lao động, học tập, trưởng thành một cách yên ổn trên cơ sở các quy phạm
pháp luật, chuẩn mực đạo đức và quy tắc xã hội.
Tiếp theo, khắc phục cho những tồn tại, thiếu sót, nhược điểm của q trình xã hội thể
hiện trong công tác quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Những tồn tại,
thiếu sót, nhược điểm này là tất yếu khách quan của quá trình phát triển, khi mà Nhà
nước ta xây dựng và quản lý xã hội theo một mơ hình khơng có sẵn. Vấn đề ở chỗ, cần
nhận biết được và mạnh dạn khắc phục được ngay những tồn tại, thiếu sót, nhược điểm
này.Ví dụ, q trình quản lý Nhà nước và xã hội cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, đặt ra u cầu phải có hệ thống pháp luật hồn chỉnh và phải nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta
chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ nên hoàn thiện hệ thống pháp luật được ưu tiên hàng
đầu, bảo đảm pháp luật là thống nhất, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội; nâng
20
cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu trong quản lý
Nhà nước và xã hội...
Cuối cùng, xóa bỏ những hồn cảnh thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, như tăng cường thực hiện công tác kiểm sát, giám sát việc tuân
theo pháp luật; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự trong mọi lĩnh
vực; tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác tổ
chức quản lý, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, trong đó tuyên truyền
sâu rộng kiến thức pháp luật trong công dân...; tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật
bảo đảm công tác đấu tranh chống tội phạm theo hướng chun mơn hóa cao, áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào công tác phịng ngừa, tăng cường ý thức
tự bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và các lợi ích hợp pháp của mình, tham
gia và bảo vệ Nhà nước, xã hội...Thực hiện được những vấn đề nói trên là nội dung
chính của hoạt động phịng ngừa tội phạm hướng vào việc thủ tiêu những nguyên nhân
và điều kiện làm phát sinh tội phạm trong xã hội.
Việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội được thực hiện bằng việc sử dụng các
biện pháp khác nhau mang tính xã hội.Thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện không phải là
những việc làm theo cảm tính mà phải được suy nghĩ rất thận trọng, tuân thủ những
điều kiện nhất định. Xã hội càng phát triển thì con người càng nhận rõ rằng: tất cả mọi
công việc, kể cả công việc đơn giản nhất cũng đều phải suy nghĩ để làm sao giải quyết
cơng việc đó đạt hiệu quả cao nhất mà phải chi phí ít sức lao động, của cải, vật chất của
mình.Hoạt động có suy nghĩ của con người được gọi là hoạt động trên cơ sở khoa học,
hoạt động có mục đích nhằm giải quyết những vấn đề theo quy luật khách quan của
những công việc được tiến hành. Do tội phạm là hiện tượng tiêu cực xã hội tồn tại
trong xã hội lồi người mà phịng ngừa tội phạm cũng là hoạt động có tính khách quan,
hoạt động có suy nghĩ để đạt hiệu quả cao. Để làm được điều này, phòng ngừa tội
phạm cũng phải được áp dụng bằng các biện pháp phù hợp mới có thể giải quyết vấn
đề tội phạm trong cuộc sống xã hội.
1.2.2 Ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa rất lớn, trước hết thể hiện tính nhân đạo xã hội, bởi vì,
xuất phát từ nhận thức con người sinh ra vốn có bản tính hướng thiện và đều có khả
năng trở thành những cơng dân có ích, việc họ làm sai, làm trái là xuất phát từ những
nguyên nhân, điều kiện xã hội nhất định. Nếu loại trừ các nguyên nhân và điều kiện
này thì con người sẽ không trở thành người phạm tội. Bên cạnh đó, tạo ra những điều