Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Khảo sát hoạt động tự học của sinh viên y đa khoa năm thứ hai đại học y dược tphcm năm học 2016 – 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 38 trang )

.

BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Báo cáo tổng kết
Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường

KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN Y ĐA KHOA
NĂM THỨ HAI ĐẠI HỌC Y DƯỢC TPHCM
NĂM HỌC 2016 – 2017

Mã số đề tài :
Đồng chủ nhiệm đề tài :
- PGS.TS Lý Văn Xuân
- ThS. BS Lý Khánh Vân

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2018
.


.

MỤC LỤC
Đặt vấn đề
Mục tiêu nghiên cứu
Chương 1 : Tổng quan tài liệu
1.1. Tự học và một số khái niệm tự học
1.2. Các mức độ tự học
1.3. Các cơng trình nghiên cứu về tự học của sinh viên


ĐHYD TPHCM
Chương 2 : Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu
2.2. Đối tương nghiên cứu
2.2.1. Dân số nghiên cứu
2.2.2. Cỡ mẫu
2.2.3. Tiêu chuẩn chọn mẫu
2.2.4. Tiêu chuẩn loại trừ
2.3. Công cụ thu thập số liệu
2.4. Phương pháp thu thập số liệu
2.5. Kiểm soát sai lệch
2.6. Xử lý, thống kê và phân tích số liệu
Chương 3 : Kết quả
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
3.2. Kỹ năng tự học
3.3. Phương pháp tự học
3.4. Hình thức tự học
3.5. Thời gian tự học
3.6. Tự đánh giá về khả năng tự học
3.7. Mối liên quan giữa khả năng tự học với kết quả học tập
3.8. Mối liên quan giữa thời gian tự học với kết quả học tập
Chương 4 : Bàn luận
4.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
4.2. Kỹ năng tự học
4.3. Phương pháp tự học
4.4. Hình thức tự học
4.5. Thời gian tự học và tự đánh giá
4.6. Các mối liên quan giữa khả năng tự học với kết quả học tập
4.7. Hạn chế của đề tài nghiên cứu
4.8. Tính mới và tính ứng dụng của đề tài

Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

.

TRANG
1
3
4
4
6
7
11
11
11
11
11
11
11
12
13
14
14
15
15
16
18
20
21

21
22
24
25
25
25
26
27
28
29
30
30
32
33


.

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1 : Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 2 : Kỹ năng tự học
Bảng 3 : Phương pháp tự học
Bảng 4 : Hình thức tự học
Bảng 5 : Thời gian tự học
Bảng 6 : Tự đánh giá về khả năng tự học
Bảng 7 : Mối liên quan giữa khả năng tự học với kết quả học tập
Bảng 8 : Mối liên quan giữa thời gian tự học với kết quả học tập

.



.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ xưa đến nay, việc tìm hiểu về thế giới xung quanh luôn là nhu cầu
tất yếu của con người, hơn nữa, khơng những tìm hiểu, con người cịn tìm
cách giải thích các sự vật và hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên và vũ trụ.
Đầu tiên, con người tự mình tìm tịi để hiểu biết các sự vật, hiện tượng xảy
ra xung quanh, sau đó truyền đạt sự hiểu biết và kinh nghiệm cho người đời
sau. Dần dần con người biết tổ chức trường lớp để truyền đạt kiến thức, kỷ
năng, kinh nghiệm mà mình có được cho nhiều người. Từ đó hình thức giáo
dục được hình thành, có thầy trị, có trường lớp. Tuy nhiên bên cạnh việc
học có người hướng dẫn, giảng dạy, con người cịn cần có khả năng tự học
để nâng cao nhận thức của mình. Việc học vì thế khơng cịn gói gọn trong
khơng gian hay thời gian nào đó mà là một việc phải làm suốt đời, nghĩa là
việc học không phải lúc nào, nơi nào cũng phải có người dạy, người hướng
dẫn ở bên mình, trái lại việc học phải được thực hiện mọi lúc mọi nơi và tự
mình tìm tịi học hỏi là chính.
Trước bùng nổ thơng tin như hiện nay, người học cần phải có khả
năng tự học để nắm bắt thơng tin, nâng cao tri thức, vì vậy việc học tập càng
khơng thể hồn tồn lệ thuộc vào sự giảng dạy, hướng dẫn của người thầy.
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh là một trong 14 trường đại
học trọng điểm của cả nước. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cũng
là trường đại học lớn nhất trong lĩnh vực y dược, ln có truyền thống sáng
tạo, đổi mới trong chương trình đào tạo, đặc biệt là trong phương pháp
giảng dạy và học tập. Gần đây, được sự hỗ trợ của Đại Học Harvard (Hoa
Kỳ), Khoa y Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai chương
trình đào tạo Bác sĩ đa khoa theo hình thức module từ năm 2015 – 2016.
Việc thực hiện chương trình đổi mới này khơng những địi hỏi Thầy cơ
1

.


.

giảng viên phải thay đổi cách dạy cho phù hợp mà cịn địi hỏi sinh viên cần
phải có phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, đặc biệt là khả
năng tự học, tự nghiên cứu để có thể đáp ứng tốt chương trình đổi mới, nâng
cao năng lực chuyên môn, phục vụ tốt công việc sau khi ra trường.
Khảo sát hoạt động tự học của sinh viên y đa khoa năm thứ hai (ngay
sau một năm học chương trình đổi mới theo hình thức module) nhầm cung
cấp thơng tin cho nhà trường để có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và
học, đảm bảo chất lượng đào tạo Bác sĩ đa khoa theo nội dung mà Đại học
Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đã cơng bố trong sứ mệnh lịch sử của
nhà trường.
Do đó chúng tơi chọn đề tài “Khảo sát hoạt động tự học của sinh viên
y đa khoa năm thứ hai Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh năm học
2016 – 2017” để nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi : Hoạt động tự học của
sinh viên y đa khoa như thế nào sau một năm học tập chương trình đổi mới
theo hình thức module và có mối liên quan hay khơng giữa kết quả học tập
với các hoạt động tự học của sinh viên.

2
.


.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu tổng quát

Xác định các hoạt động tự học và so sánh kết quả học tập với
khả năng tự học của sinh viên y đa khoa năm thứ hai Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh năm học 2016 - 2017.
2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định phương pháp, hình thức, thời gian tự học của sinh
viên y đa khoa năm thứ hai Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
- Xác định mối liên quan giữa kết quả học tập với phương pháp,
hình thức, thời gian tự học của sinh viên y đa khoa năm thứ hai
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

3
.


.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Tự học và một số khái niệm về tự học
Học chính là nền móng cho sự phát triển của bất kỳ lĩnh vực hay của

bất cứ quốc gia hoặc tổ chức nào. Bởi vì nhờ học hỏi lồi người đã trang bị
cho mình tri thức để chinh phục thế giới xung quanh.
Tuy nhiên, học khơng có nghĩa là người dạy nói gì thì người học làm
theo nguyên mẫu. Trái lại người học phải biết tư duy để hiểu rõ vấn đề
người dạy truyền đạt và hơn thế nữa, phải biết phát triển vấn đề được truyền
đạt lên cao và đi sâu hơn. Ngay từ trước công nguyên, Khổng Tử (Triết gia
Trung Quốc, sinh năm 551 và mất năm 479 TCN) đã từng bảo các môn đệ

của mình “ Vật có bốn góc, dạy cho biết một góc mà khơng suy ra được ba
góc kia thì khơng dạy nữa”.
Cũng như vậy, ở phương Tây, triết gia Socrates (sinh năm 469 và mất
năm 339 TCN) đã từng đưa ra quan điểm về giáo dục “Giáo dục phải giúp
con người tự khẳng định chính mình”, suy rộng ra, ơng cho rằng giáo dục
không những giúp người học tiếp thu kiến thức do người dạy truyền đạt mà
còn phải tự tìm tịi, suy nghĩ để tiêu hóa kiến thức đó thành kiến thức
của mình.
Ngày nay, ngay trong những năm 30 của thể kỷ 20, nhà sư phạm nổi
tiếng người Nhật Bản T.Makiguchi đã có quan điểm về giáo dục một cách
cụ thể: “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách
nhiệm học tập vào tay mỗi học sinh”. Như vậy thì rõ ràng giáo dục được coi
như quá trình hướng dẫn học sinh tự học, tự nâng cao kiến thức.
Tóm lại, từ đơng sang tây, từ xưa đến nay, vấn đề cơ bản của giáo
dục vẫn là người dạy có vai trị khơng chỉ truyền đạt kiến thức mà là hướng
4
.


.

dẫn người học, đồng thời người học không chỉ tiếp thu kiến thức được
truyền đạt mà phải biết tự học, tự tìm tịi học hỏi, tự suy luận để hình thành
và phát triển kiến thức của mình.
Gibbon, một nhà giáo dục học, đã từng nói : “Mỗi người đều phải
nhận hai thứ giáo dục, một thứ do người khác truyền cho, một thứ quan
trọng hơn do chính mình tạo lấy”. Tác giả Dương Văn Phương trong nghiên
cứu về hoạt động tự học của sinh viên tại Trường đại học Vinh năm 2011 đã
lý giải “Thứ do người khác truyền cho chính là những kiến thức mà người
học tiếp thu từ sự truyền đạt của người thầy. Còn thứ quan trọng hơn do

chính mình tạo lấy. Thứ quan trọng đó chính là việc tự học” [22].
Cịn N.A.Rubakin thì định nghĩa tự học như sau “Tự học là quá trình
lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá
nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối
chiếu với các mơ hình phản ánh hồn cảnh thực tại, biến tri thức của loài
người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ
thể”. Trong tuyển tập tác phẩm của mình, Nguyễn Cảnh Tồn đã trình bày,
để lĩnh hội được định nghĩa trên, người học phải tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (so sánh, quan sát, phân tích, tổng
hợp,…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất
của mình, cả động cơ, tình cảm, có chí tiến thủ, khơng ngại khó….) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình” [9,10].
Theo Quản Thương Lý, người học cũng cần phải có nhận thức đầy
đủ, đúng đắn về việc tự học : “Tự học là công việc tự giác của mỗi người do
nhận thức đúng đắn được vai trị quyết định của nó (tự học) đến sự tích lũy
kiến thức cho bản thân, cho chất lượng cơng việc mình đảm nhiệm, cho sự
tiến bộ xã hội” [16]. Như vậy, từ sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và
5
.


.

vai trị của việc tự học, người học sẽ có động cơ tự học đúng đắn, từ đó thúc
đẩy người học tìm cách chiếm lĩnh các tri thức khoa học trong lĩnh vực
mình đang tìm kiếm, học hỏi. Khi đó người học mới có thể có kết quả học tập như
mong muốn.
Ở nước ta, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong hội nghị
về giáo dục năm 1969 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức : “Biến quá trình

giáo dục thành quá trình tự giáo dục, biến quá trình dạy học thành quá trình
tự học”.
Gần đây tác giả Lê Khánh Bằng, trong tác phẩm “Nghiên cứu về đặc
điểm của phương pháp dạy học ở đại học” đã nêu quan điểm về vấn đề tự
học trong giáo dục “Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí
tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một số lĩnh vực khoa học nhất định” [3].
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, khả năng tự học được hình thành và
phát triển trong quá trình giáo dục, học tập, là q trình có nhiều gian nan
và thách thức mà người học đã trải qua

[9,10]

. Chính vì vậy, để có được khả

năng tự học, tác giả Lê Hải Yến trong bài viết đăng trong Tạp chí Dạy và
học ngày nay, đọc sách một cách có hiệu quả là một kỹ năng quan trọng
hình thành khả năng tự học của người học [4]. Còn theo tác giả Lê Thị Liên,
việc tổ chức Seminar sẽ giúp cho học viên nâng cao khả năng tự học, tự nghiên
cứu, người dạy chỉ là người hướng dẫn [5].

1.2.

Các mức độ tự học
Trong hoạt động tự học, theo tác giả Hồ Phạm Minh Châu [2], có thể

chia thành các mức độ sau :
Mức độ 1 : Tự học có sự điều khiển trực tiếp của ngưới dạy và những
phương tiện kỹ thuật trong lớp, gọi là “học giáp mặt”. Người học phải phát
huy những khả năng và phẩm chất như chú tâm, có óc phân tích, năng lực
6

.


.

khái quát, tổng hợp để tiếp thu những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người
dạy đã định hướng cho.
Mức độ 2 : Tự học khơng có sự điều khiển trực tiếp của người dạy,
gọi là “học không giáp mặt”. Người học phải tự sắp xếp thời gian và điều
kiện vật chất để tự học tập, tự củng cố kiến thức, tự đào sâu những tri thức,
hoặc tự hình thành những kỹ năng, kỹ xảo ở một lĩnh vực nào đó theo
những u cầu trong chương trình đào tạo của nhà trường.
Mức độ 3 : Để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình, người
học tự tìm kiếm tài liệu, tự phân tích, đánh giá, tự rút kinh nghiệm, tư duy
sáng tạo. Đây chính là mức độ tự học cao.

1.3.

Các cơng trình nghiên cứu về tự học của sinh viên Đại học y
dược Thành phố Hồ Chí Minh
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Vinh về “Một số

giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Đại học TP. Hồ Chí Minh” [11]
đã ghi nhận:
- Đa số sinh viên của Đại học y dược TPHCM đều nhận thức được
sự cần thiết của hoạt động tự học với tỷ lệ 95.5%.
- Sinh viên dù nhận thức được vai trò của hoạt động tự học nhưng
chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và ý nghĩa của hoạt
động tự học đối với sự phát triển của bản thân sau khi rời khởi ghế
nhà trường.

- Động cơ học tập chủ yếu của sinh viên là có tấm bằng đại học để
đi làm và để làm vui lòng cha mẹ với tỷ lệ 83,5%.
- Sinh viên phải học ngày 2 buổi. Đối với sinh viên lớp dưới, một
buổi học lý thuyết, một buổi thực tập tại trường. Đối với sinh viên
các lớp trên, buổi sáng thực tập tại Bệnh viện, buổi chiều học lý
7
.


.

thuyết tại trường. Vì vậy hầu như sinh viên chỉ có buổi tối hoặc
ngày thứ bảy, chủ nhật là có thời gian dành cho các hoạt động tự
học. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung bình trong tuần lễ, sinh
viên chỉ có 4 – 6 giờ tự học/ngày (tỷ lệ 67,5%). Điều này đã làm
hạn chế khả năng tự học, chỉ đủ thời gian cho bài làm ở nhà
(homework) hoặc xem lướt qua bài học hơm sau chứ khơng có
thời gian tìm hiểu thêm các sách báo, tài liệu có liên quan đến
bài học.
- Ngồi hình thức tự học độc lập một mình, hầu hết sinh viên có
tham gia hình thức tự học theo nhóm (tỷ lệ 87%). Đó là do nhà
trường chia sinh viên thành từng tổ học tập, mỗi tổ khoảng 10 sinh
viên. Các sinh viên trong tổ học chung lý thuyết, chung các buổi
thực hành, đặc biệt là cùng đi thực hành làm sàng chung bệnh
viện. Nhờ đó việc học nhóm phát huy được khả năng tự học của
sinh viên.
- Về phương pháp tự học, đa số sinh viên thường xuyên thực hiện
phương pháp “trao đổi với bạn bè về nội dung bài học” (tỷ lệ
87%). Phương pháp này cũng do xuất phát từ việc học tổ nhóm.
Việc trao đổi bài học với bạn bè sẽ giúp sinh viên hiểu rõ bài học

hơn, tiếp thu bài học dễ dàng hơn.
- Ít sinh viên có thói quen đọc sách hoặc tài liệu có liên quan bài
học (tỷ lệ 22%). Điều này có lẽ do sinh viên khơng có nhiều thời
giờ cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu và cũng có lẽ trong q
trình học trung học, sinh viên khơng được khuyến khích hoặc
hướng dẫn tham khảo thêm tài liệu ngoài sách giáo khoa.
- Về địa điểm tự học, chỉ có 18% sinh viên chọn thư viện làm nơi
tham khảo tài liệu, tự học mặc dù ở Đại học y dược Thành phố Hồ
8
.


.

Chí Minh, ngồi thư viện trung tâm, ở mỗi khoa đều có thư viện
riêng. Có lẽ các thư viện ở Đại học y dược TPHCM chưa đủ rộng,
chưa thoải mái và thời gian phục vụ chưa đáp ứng được nhu cầu
học tập của sinh viên.
Theo nghiên cứu của Lý Văn Xuân, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Đức
Nhật về hoạt động tự học ở bậc Trung học phổ thông của 339 sinh viên
đăng ký nhập học năm thứ nhất y đa khoa tại Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2015[6] đã ghi nhận:
- Về học lực, sinh viên loại giỏi chiếm tỷ lệ 82,01%, sinh viên khá
và trung bình có tỷ lệ 17,99%.
- Về phương pháp tự học được sinh viên áp dụng thường xuyên là
“học theo trọng tâm bài giảng được thầy cô nhấn mạnh” với tỷ lệ
83,78%. Dưới 50% sinh viên “xem qua bài học trong sách giáo
khoa trước khi đến lớp” hoặc “soạn lại hoặc hệ thống lại bài học
đã được giảng dạy trong lớp”.
- Về hình thức tự học, có đến 84,96% sinh viên thường xuyên tự

một mình. Tỷ lệ sinh viên thường xuyên học tổ nhóm chỉ
chiếm 22,42%.
- Về địa điểm tự học, hầu hết sinh viên thường xuyên tự học tại nhà
với tỷ lệ 92,92%. Chỉ có 22,12% sinh viên thường xuyên đến thư
viện tự học để soạn lại bài học hoặc tham khảo tài liệu có liên quan
đến bài học.
Cũng theo nghiên cứu của Lý Văn Xuân, Lê Trường Vĩnh Phúc, Lý
Khánh Vân về hoạt động tự học ở bậc trung học phổ thông của 364 sinh
viên đăng ký nhập học năm thứ nhất y khoa tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh năm 2016[7] đã ghi nhận:
9
.


.

- Về học lực, sinh viên xếp loại giỏi chiếm tỷ lệ 81,3%, sinh viên
khá và trung bình có tỷ lệ 18,3%. Tỷ lệ về học lực này tương
đương với học lực của sinh viên nhập học năm 2015.
- Về phương pháp tự học được sinh viên thường xuyên áp dụng là
“học theo trọng tậm bài giảng được thầy cô nhấn mạnh” với tỷ lệ
77,2%. Có dưới 50% sinh viên “xem qua bài học trong sách giáo
khoa trước khi đến lớp” hoặc “soạn lại hoặc hệ thống lại bài học
đã được dạy”. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ về phương pháp tự
học của sinh viên nhập học năm 2015.
- Về hình thức tự học, có đến 80,2% sinh viên thường xuyên tự học
một mình. Tỷ lệ sinh viên học theo tổ nhóm chỉ chiếm 21,7%.
Như vậy về hình thức tự học của sinh viên nhập học năm 2016
cũng giống như sinh viên nhập học năm 2015.
- Về địa điểm tự học, đa số sinh viên thường xuyên tự học tại nhà

với tỷ lệ 88,5%. Chỉ có 21,4% sinh viên thường xuyên đến thư
viện tự học. Như vậy về địa điểm tự học, sinh viên nhập học năm
2016 cũng giống như sinh viên nhập học năm 2015.
Tóm lại, qua khảo sát của Lý Văn Xuân và cộng sự về hoạt động
tự học ở bậc trung học phổ thông của sinh viên lúc mới đăng ký
nhập học năm thứ nhất y đa khoa năm 2015 và 2016 cho thấy việc
học còn thụ động, hầu như chỉ dựa vào sự giảng dạy và hướng dẫn
của thầy cô. Đây là một trở ngại mà sinh viên cần phải khắc phục
để có thể học tập tốt chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa theo hình
thức module, đặc biệt là phương pháp giảng dạy TBL (team base
learning), một phương pháp giảng dạy đòi hỏi sự học tập tích cực,
chủ động của sinh viên trong đó việc chuẩn bị kiến thức trước khi
đến lớp là một việc hết sức quan trọng và cần thiết..
10
.


.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu:
- Đây là nghiên cứu định lượng với thiết kế nghiên cứu mơ tả cắt
ngang có phân tích.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
2.2.1. Dân số nghiên cứu:
- Là sinh viên y đa khoa năm thứ hai tại Khoa Y Đại học y dược
Thành phố Hồ Chí Minh sau khi hồn tất chương trình đào tạo Bác sĩ đa
khoa năm thứ nhất theo hình thức module.
2.2.2. Cỡ mẫu

- Số sinh viên theo danh sách cung cấp bởi Ban đào tạo Khoa y
khoảng 360 sinh viên. Với điều kiện và khả năng có được, chúng tơi tiến
hành lấy mẫu tồn bộ.
2.2.3. Tiêu chuẩn chọn vào
- Tất cả sinh viên đang học năm thứ hai ngành Bác sĩ đa khoa sau khi
hoàn tất chương trình đào tạo năm thứ nhất theo hình thức module.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2.4. Tiêu chuẩn loại trừ.
- Sinh viên tạm ngừng học (lưu ban) và sinh viên các khóa trước
được nhà trường quyết định cho học lại.
11
.


.

- Sinh viên không trả lời đầy đủ bộ câu hỏi soạn sẵn tự điền
(phiếu khảo sát).
2.3. Công cụ thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu là phiếu khảo sát gồm bộ câu hỏi tự điền với
các nội dung.
- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: giới tính, tuổi khu vực tuyển sinh,
điểm trúng tuyển đại học, học lực ở bậc Trung học phổ thơng, trình độ
ngoại ngữ.
- Kỹ năng tự học:
+ Lập kế hoạch cụ thể, chi tiết.
+ Tham khảo và nghiên cứu tài liệu có liên quan bài giảng
+ Đọc, hiểu tài liệu tiếng nước ngoài
+ Hệ thống, tóm tắt và soạn lại bài học đã nghe giảng trong lớp
+ Hoàn thành đầy đủ bài tập ở nhà (homework) theo yêu cầu của

giảng viên
- Phương pháp tự học:
+ Nghiên cứu giáo trình bài giảng và tham khảo tài liệu trước khi
đến lớp.
+ Học bài giảng đã ghi chép trên lớp kết hợp với giáo trình và tài
liệu có liên quan.
+ Học bài đã soạn lại hoặc hệ thống lại
+ Hỏi thầy cô khi thắc mắc hoặc không hiểu rõ.
- Hình thức tự học
+ Học độc lập một mình
+ Học có sự hướng dẫn của thầy cơ hoặc cha mẹ, anh chị ở nhà.
+ Học tổ nhóm
12
.


.

+ Học qua băng ghi âm, ghi hình trong lớp
- Thời gian tự học mỗi ngày
+ Dưới 2 giờ
+ Từ 2 giờ đến dưới 4 giờ
+ Từ 4 giờ đến dưới 6 giờ
+ Từ 6 giờ trở lên
- Địa điểm tự học
+ Ở nhà
+ Ở ký túc xá
+ Ở thư viện
+ Ở khuôn viên trường
+ Ở nơi khác.

2.4. Phương pháp thu nhập số liệu
Mỗi sinh viên tham gia nghiên cứu được phát 01 phiếu khảo sát gồm
các câu hỏi soạn sẵn, tự điền.
- Đối với nội dung đặc điểm đối tượng nghiên cứu: sinh viên tự điền
hoặc đánh chéo vào ô tương ứng.
- Đối với nội dung kỹ năng tự học, phương pháp tự học, hình thức tự
học, sinh viên tự đánh giá theo 3 mức độ dưới đây và đánh chéo vào ô
tương ứng.
+ Rất tốt
+ Tốt
+ Chưa tốt
- Đối với nội dung thời gian và địa điểm tự học : sinh viên đánh chéo
vào ô tương ứng.

13
.


.

2.5. Kiểm soát sai lệch
2.5.1. Sai lệch chọn lựa
- Sai lệch chọn lựa có thể xảy ra khi có sinh viên lưu ban hoặc học lại
cùng tham dự trong buổi khảo sát.
- Biện pháp khắc phục: Sử dụng tiêu chuẩn chọn vào và tiêu chuẩn
loại ra để chọn đúng đối tượng khảo sát.
2.5.2. Sai lệch thông tin
- Sai lệch thông tin có thể xảy ra khi câu hỏi soạn sẵn tự điền chưa rõ
hoặc có thể hiểu lầm.
- Biện pháp khắc phục: Khảo sát thử khoảng 30 sinh viên để sửa

chữa, bổ sung, hoàn chỉnh câu hỏi trước khi tiến hành khảo sát. Khi tiến
hành khảo sát, đối tượng nghiên cứu (sinh viên) được giải thích rõ các nội
dung trong phiếu khảo sát.
2.6. Xử lý, thống kê và phân tích số liệu
- Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu
- Số liệu được nhập vào máy tính với phần mềm Epi Data 3.1
- Phân tích số liệu dựa trên phần mềm Stada 13.0
- Thống kê số liệu được trình bày dạng mô tả với tần suất và tỷ lệ
phần trăm
- Dùng kiểm định chỉ bình phương và kiểm định chính xác Fisher để
so sánh các tỷ lệ và phân tích mối liên quan giữa các biến số.

14
.


.

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ
Qua khảo sát 294 sinh viên y đa khoa năm thứ hai Đại học y dược TP.
Hồ Chí Minh năm học 2016 - 2017 ngay sau khi học xong năm thứ nhất
cho kết quả như sau:
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 1 : Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm

Tần số (n=294)

Tỷ lệ (%)


Nữ

122

41,5

Nam

172

58,5

≤ 19 tuổi

244

83,0

> 19 tuổi

50

17,0

Khá-Giỏi

193

65,6


TB-TB Khá

101

34,4

Giới tính

Nhóm tuổi

Học lực năm thứ nhất

Nhận xét :
Sinh viên nam chiếm đa số với tỷ lệ 58,5%, gấp 1,5 lần sinh viên nữ.
Sinh viên nhóm tuổi ≤ 19 tuổi chiếm tỷ lệ 83,7% là sinh viên lần đầu thi
đại học và trúng tuyển vào học Đại học y dược TP. Hồ Chí Minh ngành
15
.


.

Y đa khoa. Phần lớn sinh viên đạt kết quả học tập Khá-Giỏi ở năm thứ
nhất theo chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa hình thức module với tỷ lệ
65,6%, gần gấp 2 lần số sinh viên còn lại.
3.2. Kỹ năng tự học
Bảng 2 : Về kỹ năng tự học
Tần số


Kỹ năng

(n=294)

Tỷ lệ (%)

Lập kế hoạch cụ thể, chi tiết
Rất tốt

12

4,1

Tốt

124

42,2

Chưa tốt

158

53,7

Rất tốt

12

4,1


Tốt

128

43,5

Chưa tốt

154

52,4

Rất tốt

7

2,4

Tốt

46

15,6

Chưa tốt

241

82,0


Rất tốt

10

3,4

Tốt

159

54,1

Chưa tốt

125

42,5

Tham khảo và nghiên cứu tài liệu

Đọc, hiểu tài liệu tiếng nước ngồi

Hệ thống, tóm tắt và soạn lại bài học

16
.


.


Truy cập thơng tin trên internet
Rất tốt

54

18,4

Tốt

200

68,0

Chưa tốt

40

13,6

Rất tốt

23

7,8

Tốt

168


57,1

Chưa tốt

103

35,1

Hồn thành bài tập ở nhà

Nhận xét :
Đa số sinh viên chưa lập được kế hoạch học tập tốt cũng như chưa nghiên
cứu và tham khảo tài liệu được cung cấp trước khi đến lớp (tỷ lệ 53,7% và
52,4%). Ngoài ra hầu hết sinh viên cũng chưa có kỹ năng đọc và hiểu tài
liệu tiếng nước ngồi được thầy cơ cung cấp (tỷ lệ 82%). Tuy nhiên đa số
sinh viên có kỹ năng tốt trong truy cập thông tin trên internet và hoàn thành
tốt bài tập ở nhà (tỷ lệ 86,4% và 64,9%).

17
.


.

3.3. Phương pháp tự học
Bảng 3 : Về phương pháp tự học
Phương pháp

Tần số (n=294)


Tỷ lệ (%)

Đọc lướt qua giáo trình trước khi đến lớp
Rất tốt

47

16,0

Tốt

219

74,5

Chưa tốt

28

9,5

Nghiên cứu giáo trình và tham khảo tài liệu trước khi đến lớp
Rất tốt

9

3,1

Tốt


218

74,1

Chưa tốt

67

22,8

Học bài giảng đã ghi chép trên lớp kết hợp với giáo trình và tài liệu
tham khảo

Rất tốt

177

60,2

Tốt

98

33,3

Chưa tốt

29

6,5


Học theo trọng tâm bài giảng được thầy cô nhấn mạnh
Rất tốt

198

67,3

Tốt

84

28,6

Chưa tốt

12

4,1

Học bài đã soạn lại hoặc hệ thống lại
Rất tốt

133

45,2

Tốt

121


41,2

Chưa tốt

40

13,6
18
.


.

Hỏi thầy cô khi thắc mắc hoặc không hiểu rõ
Rất tốt

23

7,8

Tốt

187

63,6

Chưa tốt

84


28,6

Trao đổi, thảo luận cùng bạn bè
Rất tốt

182

61,9

Tốt

107

36,4

Chưa tốt

5

1,7

Nhận xét :
Hầu hết sinh viên đã có phương pháp tự học tốt sau một năm học tập
chương trình đổi mới theo hình thức module và phương pháp dạy học lấy
sinh viên làm trọng tâm. Chỉ có khoảng ¼ sinh viên chưa tham khảo giáo
trình và tài liệu trước khi đến lớp cũng như chưa mạnh dạn tiếp xúc với thầy
cô khi chưa hiểu rõ bài giảng.

19

.


.

3.4. Hình thức tự học
Bảng 4 : Về hình thức tự học
Hình thức

Tần số (n=364)

Tỷ lệ (%)

Học qua băng ghi âm, ghi hình
Rất tốt

42

14,3

Tốt

163

55,4

Chưa tốt

89


30,3

Truy cập thơng tin trên Internet
Rất tốt

54

18,4

Tốt

200

68,0

Chưa tốt

40

13,6

Rất tốt

246

83,7

Tốt

47


16,0

Chưa tốt

1

0,3

Rất tốt

62

21,1

Tốt

209

71,1

Chưa tốt

23

7,8

Học độc lập một mình

Học theo tổ nhóm


Nhận xét :
Đa số sinh viên có kỹ năng tốt trong học tập qua băng ghi âm, ghi hình
(69,7%) và có kỹ năng truy cập thơng tin trên internet (86,4%). Hầu hết
sinh viên vừa có khả năng học tập tốt ở hình thức học độc lập một mình
vừa có khả năng học tập tốt ở hình thức học theo tổ nhóm.
20
.


.

3.5. Thời gian tự học
Bảng 5 : Thời gian tự học / ngày
Tần số

Thời gian

(n=294)

Tỷ lệ (%)

Dưới 2 giờ

38

12,9

Từ 2 giờ đến dưới 4 giờ


133

45,2

Từ 4 giờ trở lên

123

41,9

Nhận xét :
Hầu hết sinh viên có thời gian tự học mỗi ngày từ 2 giờ trở lên, chiếm tỷ
lệ 87,1%. Tuy nhiên tự học mỗi ngày trên 4 giờ của sinh viên chỉ
chiếm tỷ lệ 41,9%.
3.6. Tự đánh giá về khả năng tự học
Bảng 6 : Tự đánh giá về khả năng tự học
Khả năng tự học

Tần số (n=294)

Tỷ lệ (%)

Tốt hơn nhiều

29

9,9

Tốt hơn


153

52,0

Không thay đổi

112

38,1

21
.


.

Nhận xét :
Sau một năm học tập chương trình đổi mới, đa số sinh viên tự đánh giá
có khả năng tự học tốt hơn trước với tỷ lệ 61,9%.
3.7. Mối liên quan giữa khả năng tự học và kết quả học tập
Bảng 7 : Mối liên quan giữa khả năng tự học và kết quả học tập
Kết quả học tập
Khá-Giỏi
Tần số

TB-

PR (KTC

Giá trị


TBK

95%)

p

Tỷ lệ Tần số

Tỷ lệ

Lập kế hoạch cụ thể, chi tiết
Chưa tốt

85

Tốt – Rất tốt 108

53,8

73

46,2

79,4

28

20,6


1
1,5 (1,2 – 1,7) < 0,001

Tham khảo và nghiên cứu tài liệu có liên quan
Chưa tốt

91

Tốt – Rất tốt 102

59,1

63

40,9

72,9

38

27,1

1
1,2 (1,0 – 1,4) 0,013

Đọc và hiểu tài liệu tiếng nước ngoài
Chưa tốt

147


Tốt – Rất tốt 46

61,0

94

39,0

86,8

7

13,2

55,2

56

44,8

73,4

45

26,6

1
1,4 (1,2 – 1,6) < 0,001

Hệ thống và soạn lại bài học

Chưa tốt

69

Tốt – Rất tốt 124

1
1,3 (1,1 – 1,6) 0,001

Học bài đã soạn lại hoặc hệ thống lại
Chưa tốt

16

Tốt – Rất tốt 177

40,0

24

60,0

69,7

77

30,3

1
1,7 (1,2 – 2,6) < 0,001


22
.


×