HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN QUYỀN CON NGƯỜI
BÀI THU HOẠCH
MÔN: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG
DÂN
Học viên:
Mã số học viên: ...................
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT
HÀ NỘI - 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng…
là những quyền cơ bản của con người. Quyền con người là thành quả phát
triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải
tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong một thế giới đang tồn cầu hố hiện
nay, quyền con người ở mỗi quốc gia, khơng kể hồn cảnh lịch sử, chế độ
chính trị - xã hội, kinh tế và văn hố đều có những giá trị chung giống nhau,
không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau, đó là tính phổ cập của quyền con
người. Tuy nhiên, quyền con người cịn mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và
bối cảnh khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hố và tơn giáo. Chính từ những
đặc điểm này mà trên thế giới tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con
người.
Trong khi cộng đồng quốc tế thừa nhận cả hai đặc tính của quyền con
người, thì một số quốc gia (các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ) lại
phủ nhận tính đặc thù của quyền con người, đề cao tự do cá nhân, rêu rao
học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Họ tự cho mình là người bảo
vệ nhân quyền, lợi dụng các vấn đề về “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn
giáo”, “dân tộc” xuyên tạc, vu cáo các nước khác vi phạm nhân quyền,
ngang nhiên can thiệp vào công việc nội bộ, đe dọa độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia có chủ quyền. Trong thế giới văn
minh ngày nay vẫn cịn tình trạng người bóc lột người, phân biệt chủng tộc,
kỳ thị dân tộc, tôn giáo, bn bán nơ lệ và cịn tồn tại một vài chế độ độc tài
đang thi hành chính sách bài ngoại cực đoan, kìm hãm sự phát triển tự do cá
nhân, thủ tiêu các quyền cơ bản của con người. Do đó, cuộc đấu tranh vì
quyền con người gắn với bảo vệ quyền dân tộc tự quyết vẫn là cuộc đấu
tranh gay go, quyết liệt. Quyền con người vẫn là khát vọng cháy bỏng của cả
nhân loại.
4
Từng là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân và phải trả bằng xương, máu
trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam hiểu hơn bao
giờ hết giá trị của độc lập, tự do. Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như
một, kiên trì quan điểm giải quyết vấn đề quyền con người trên nguyên tắc
nhân quyền không được cao hơn chủ quyền, bảo đảm quyền con người phải
căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế - xã hội và truyền thống văn hoá, kiên quyết đấu
tranh với những hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào
công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền.
Việc thơng qua Hiến pháp năm 2013 với một chương riêng về "Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơng dân" và sau đó chỉ trong vịng 4 năm
(2014-2018) thông qua hơn 90 văn bản quy phạm pháp luật liên quan quyền
con người, là những nỗ lực hết sức có ý nghĩa, tạo khn khổ pháp lý quan
trọng cho việc bảo đảm trên thực tế quyền con người, quyền cơng dân.
Tìm hiểu và nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đảm bảo quyền con người, quyền công dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
là một trong những nội dung quan trọng giúp cho mỗi cá nhân có nhận thức
đầy đủ về vấn đề này. Đây cũng là nội dung mà em lựa chọn làm đề tài bài thu
hoạch hết học phần của mình trong chương trình hồn chỉnh kiến thức cao cấp
lý luận chính trị, mơn Lý luận và pháp luật về quyền con người.
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, bài thu
hoạch được kết cấu thành 3 phần:
1) Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, quyền
công dân.
2) Thực trạng đảm bảo quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
3) Định hướng đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong giai
đoạn hiện nay.
5
NỘI DUNG
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người,
quyền công dân
Quan điểm về quyền con người, quyền công dân của Đảng và Nhà
nước ta dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, truyền thống văn hố dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu
chuẩn về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi.
Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được thể hiện xuyên
suốt trong các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược
cải cách tư pháp cũng như trong quá trình triển khai các nghĩa vụ và cam kết
quốc tế của Việt Nam, trong đó có các khuyến nghị Cơ chế Rà soát định kỳ
phổ quát (UPR) mà Việt Nam đã chấp thuận. Kể từ lần rà soát chu kỳ II, Việt
Nam đã nỗ lực mạnh mẽ nhằm hoàn thiện cả về mặt pháp luật, thể chế, chính
sách về quyền con người, tạo nền tảng vững chắc mang lại những kết quả
thực tiễn đáng khích lệ.
Trong khi đánh giá cao giá trị cải tạo xã hội, giải phóng con người của
các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra những
hạn chế của các cuộc cách mạng đó. Các nhà tư tưởng mác-xít cho rằng,
những giá trị về quyền con người do các cuộc cách mạng dân chủ tư sản đem
lại cịn mang nặng tính hình thức, thực sự nó chỉ đem lại quyền tự do cho giai
cấp tư sản, một bộ phận rất nhỏ trong xã hội, đại bộ phận quần chúng lao
động chưa được giải phóng, chủ nghĩa tư bản duy trì sự bất bình đẳng về
quyền sở hữu, do đó sự bất bình đẳng về năng lực cá nhân là điều không thể
tránh khỏi. C.Mác cho rằng, con người vừa là sản phẩm của xã hội vừa là sản
phẩm của tự nhiên, vì vậy khi xem xét vấn đề quyền con người cần phải đặt
vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể và quyền không bao giờ có thể cao hơn
chế độ kinh tế và sự phát triển văn hố (do chế độ kinh tế đó quyết định).
6
Theo Ph.Ăngghen, quyền con người không phải tự nhiên mà có, đó là thành
quả của sự phát triển lịch sử, của các cuộc cách mạng xã hội; bình đẳng là
một sản phẩm lịch sử, khơng có quyền bình đẳng trừu tượng, muốn có bình
đẳng thực sự thì việc xố bỏ đặc quyền giai cấp là chưa đủ, mà phải xoá bỏ
bản thân giai cấp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và quyền con người là sự kết hợp giữa chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa với truyền thống yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam, giữa
lý luận mác-xít và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm trên được
Người thể hiện bằng bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, ngay trong ngày khai
sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền
bình đẳng, tạo hố cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được.
Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc…” (Trích bản Tun ngơn Độc lập ngày 02/9/1945). Tuyên ngôn
Độc lập của nước Việt Nam mới năm 1945, không chỉ nhằm công bố với thế
giới về sự ra đời của một quốc gia độc lập, có chủ quyền mà cịn là một bản
tun ngơn về quyền con người của Việt Nam và khẳng định nhân dân Việt
Nam quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng để bảo vệ giá trị thiêng liêng
đó. Tun ngơn Độc lập và Cánh mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam
có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh phá tan
hệ thống thuộc địa thế giới, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ giành độc lập dân
tộc từ châu Á, châu Phi đến Mỹ Latinh thời kỳ giữa thế kỷ XX. Tuyên ngôn
Độc lập năm 1945 cịn là một đóng góp lớn lao vào tư tưởng nhân quyền của
nhân loại. Lần đầu tiên, các quyền tự do cá nhân được mở rộng thành quyền
dân tộc, đó là độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự
quyết. Những đóng góp đó vẫn cịn ngun giá trị trong thời đại ngày nay. Kế
thừa và phát huy giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
7
truyền thống văn hoá dân tộc, quan điểm nhất quán và xuyên suốt về quyền
con người của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc
lột, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hồ bình và tiến bộ xã
hội của nhân dân u chuộng hồ bình trên thế giới. Nội dung cơ bản của các
quan điểm là:
Một là, Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả
và khát vọng chung của nhân loại. Đảng chỉ rõ: “Quyền con người là thành
quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm
chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân
loại”1. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá
trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ
đạo “ Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các
dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một
xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”2.
Hai là, quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản, nhân
quyền không được cao hơn chủ quyền. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch,
xuyên suốt. Đảng ta cho rằng, sự nghiệp giải phóng con người, đưa lại các
quyền tự do cá nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, cải tạo xã hội cũ. Bài học “nước mất - nhà tan” đã trở thành chân lý
của dân tộc Việt Nam được đúc rút qua lịch sử trên 4000 năm dựng nước và
giữ nước. Qua kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, Đảng ta khẳng định rằng,
1 Xem: Chỉ thị 12/TW của Ban Bí thư, ngày 12-7-1992.
2 Cương lĩnh Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia 1998. tr120.
8
chỉ ở một nước độc lập thực sự, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con
người mới được thực thi đầy đủ và có điều kiện để đảm bảo một cách chắc
chắn. Đấu tranh chống các thế lực thực dân, phong kiến, giành độc lập dân
tộc cũng là nhằm giành quyền tự do cho cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy
rằng, nếu nước độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chủ quyền quốc gia hay quyền dân tộc tự
quyết và quyền con người tuy là những phạm trù khác nhau nhưng có mối
quan hệ mật thiết và thống nhất với nhau. Thực thi quyền con người phải
dựa trên cơ sở ưu tiên bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, chủ quyền quốc gia.
Nếu dân tộc không được độc lập, chủ quyền quốc gia không được xác lập thì
khơng có quyền con người.
Ba là, giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con người phải kết hợp
giữa tính phổ biến và tính đặc thù. Thừa nhận tính phổ biến của quyền con
người với những giá trị chung của nhân loại, Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn nhấn mạnh khi giải quyết vấn đề nhân quyền phải đặt trong hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Ngoài những giá trị phổ biến, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia tuỳ
theo chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hố dân tộc, tơn giáo có những giá
trị riêng khơng ai có thể xâm phạm được (nếu nó khơng đi ngược lại những
giá trị chung của nền văn minh nhân loại). Nhà nước ta tôn trọng những giá trị
đã được quốc tế thừa nhận, như: Tất cả các quyền con người đều mang tính
phổ cập, khơng thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau; trong
khi phải ln ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh
khác nhau về lịch sử, văn hố và tơn giáo. Đảng chỉ đạo: “Nhà nước cần tiếp
tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội dung các quyền
con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với tiêu chuẩn tiến bộ về
quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi” 3. Tính phổ biến của
quyền con người chỉ có thể được đảm bảo chắc chắn khi tính đến những đặc
3 Xem: Chỉ thị 12/TW của Ban Bí thư, ngày 12-7-1992.
9
thù khác nhau ở mỗi khu vực, trong những điều kiện cụ thể về lịch sử, văn
hố, tơn giáo, chế độ chính trị, chế độ kinh tế.
Bốn là, quyền con người mang tính giai cấp. Lịch sử đấu tranh giải
phóng con người, cải tạo xã hội trong xã hội có giai cấp là lịch sử các cuộc
đấu tranh giai cấp. Quyền con người là thành quả của các cuộc đấu tranh đó.
Vì vậy, quyền con người khơng thể khơng mang tính giai cấp. Chủ nghĩa Mác
- Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, cuộc đấu tranh của giai cấp
vơ sản thủ tiêu chế độ người bóc lột người là nhằm đem lại quyền lợi cho toàn
thể nhân dân lao động. Những người cộng sản không đấu tranh cho riêng giai
cấp của mình mà đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng nhân loại. Nhân dân Việt
Nam thừa nhận những người cộng sản Việt Nam không chỉ là đại biểu trung
thành lợi ích giai cấp cơng nhân mà cịn là đại biểu trung thành lợi ích của
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Sau khi Liên-xô và các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, cục diện thế giới đã có những thay đổi
căn bản, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, nhưng các mâu thuẫn lớn của
thời đại, trong đó mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn
tồn tại và đang diễn ra rất gay gắt. Chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ bản
chất hiếu chiến, xâm lược và mưu đồ thủ tiêu phong trào cộng sản và công
nhân thế giới, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn,
lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng loại bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại. Do đó, cuộc đấu
tranh vì quyền con người vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt ở
cấp độ toàn cầu. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào những người cộng sản không
được phép lơ là, mất cảnh giác trước những luận điệu sai trái về quyền con
người của chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế.
Năm là, quyền con người ở Việt Nam được thể hiện trong quyền và
nghĩa vụ công dân, thực hiện quyền con người gắn liền với quá trình thực
10
hiện dân chủ hoá xã hội. Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ, dân chủ gắn liền với
công bằng xã hội phải được thể hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước
do nhân dân cử ra và bằng hình thức dân chủ trực tiếp; dân chủ đi đôi với kỷ
luật, kỷ cương, phải được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật đảm
bảo. Quyền con người là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ cơng dân, giữa
quyền, lợi ích cá nhân với quyền và lợi ích cộng đồng. Các quyền và lợi ích
của cơng dân nước ta ln được gắn với nhau, được quy định trong Hiến pháp
và các văn bản pháp luật. Công dân Việt Nam được thực hiện các quyền tự do
cá nhân mà pháp luật không cấm, nhưng quyền tự do cá nhân không được
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và cộng đồng, không
được thực hiện các hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia và trật tự luật
pháp xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, chúng ta chủ trương giải quyết vấn đề quyền con người bằng
đối thoại hồ bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết
đấu tranh chống âm mưu và luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để
can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X chỉ rõ: “Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con
người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có
liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại âm mưu, hành động
xuyên tạc và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tơn giáo”
hịng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”4.
Dựa trên quan điểm bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng Việt Nam, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã
4 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2006, tr113.
11
thực thi nhiều chính sách đảm bảo quyền con người và đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta tiến dần đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân loại vì mục tiêu hồ bình và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã tham
gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như: Cơng ước quốc tế
về xố bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (1979), xố bỏ các hình thức
phân biệt chủng tộc (1966), về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội (1966),
về các quyền dân sự (1966), về quyền trẻ em; Nghị định thư bổ sung Công
ước Giơ-ne-vơ về bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế… và tham
gia các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với tư cách là thành
viên của tổ chức này. Ở trong nước, các chính sách kinh tế - xã hội đã đem lại
nhiều quyền lợi và điều kiện để người dân thực hiện các quyền con người, đặc
biệt là thành quả trong sự nghiệp xố đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hố,
tự do báo chí, tự do tơn giáo, chính sách đồn kết dân tộc, chính sách an sinh
xã hội, an ninh con người… được quốc tế thừa nhận.
2. Thực trạng đảm bảo quyền con người, quyền
công dân ở Việt Nam
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta
luôn khẳng định: Nhân dân là chủ thể của quyền lực; bảo đảm quyền con
người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm
của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền
con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân”. Cụ thể hóa quan điểm trên của Đảng, Điều 2, Hiến pháp năm 2013
quy định “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”. Từ những quan điểm nêu trên khẳng định: Nhân dân là
12
chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Như
vậy, nhân dân là chủ thể của quyền và việc bảo đảm quyền con người là mục
tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiến pháp 2013 được Quốc hội thơng qua ngày 28/11/2013 và có hiệu
lực từ 1/1/2014 là sự kế thừa và phát triển các chế định quyền con người,
quyền công dân, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng về
quyền và tự do của nhân dân, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền
con người. Hiến pháp 2013 gồm 11 chương, 120 điều, trong đó có riêng
Chương II với 36 điều chế định trực tiếp và quy định rõ ràng các quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 mở rộng nội dung về quyền,
có các điều khoản riêng về quyền con người như: quyền bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử trước pháp luật; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm; quyền bảo vệ đời tư; quyền tiếp cận thông tin;
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền bình đẳng giới; quyền biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền được xét xử công bằng,
công khai và không bị coi là có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án; quyền sở hữu tài sản tư nhân; quyền
bảo đảm an sinh xã hội; quyền có việc làm.
Hiến pháp 2013 chế định một số quyền mới, như quyền sống, các
quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và
thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị
văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, quyền xác
định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, quyền
13
được sống trong môi trường trong lành, quyền không bị trục xuất, giao nộp
cho nước khác, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền được hưởng an sinh xã hội.
Hiến pháp 2013 khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời quy
định “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật
tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”; “mọi người có
nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác”; “việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác”.
Nhìn lại tiến trình lịch sử đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt
là nửa chặng đường thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, chúng ta đã
đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và toàn diện trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; trong đó khơng thể phủ nhận những kết quả trong xây
dựng con người, bảo vệ và phát huy giá trị con người, quyền con người trong
đời sống xã hội. Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đặc biệt
là Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc bảo vệ, thực thi quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi
xâm phạm quyền con người.
Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng với những thành
tựu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế đã tạo các điều kiện vật chất và
nguồn lực để bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của nhân
dân. Ðời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt và ngày
càng được nâng cao; tỷ lệ nghèo giảm mạnh cùng với việc thúc đẩy bình đẳng
xã hội, việc thụ hưởng các quyền con người của nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực được nâng lên rõ rệt. Theo Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012
của Ngân hàng Thế giới (WB), hơn 30 triệu người Việt Nam đã thốt khỏi đói
14
nghèo trong hai thập kỷ qua. Nghèo đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ
60% hồi đầu những năm 1990 xuống còn 20,7% và năm 2014 tỷ lệ này còn
8,4%; tỷ lệ nhập học tiểu học và trung học cơ sở là hơn 90% và 70%. Theo
đánh giá của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Việt
Nam là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số
người bị đói từ 46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990-1992 xuống còn 9%
(8,01 triệu người) giai đoạn 2010-2012 và đã đạt được Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ 1 (MDG1).
Thực hiện chủ trương giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương
thực hiện rà sốt tồn bộ hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành, trong đó
tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: Tín dụng ưu đãi; giáo dục-đào tạo; y
tế; nhà ở; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; hỗ trợ sinh kế;
trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo Trung ương cịn thực hiện sửa đổi,
bổ sung các chính sách và dự kiến ban hành các chính sách mới đồng thời tích
hợp các chính sách giảm nghèo, như: Hỗ trợ học sinh bán trú nghèo dân tộc
thiểu số, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hỗ trợ tiền điện, đào tạo nghề, hỗ trợ phát
triển sản xuất và sinh kế… Việc thực hiện các chính sách giảm nghèo chung và
chính sách giảm nghèo đặc thù tiếp tục được triển khai. Hằng năm, Nhà nước
dành hàng chục nghìn tỷ đồng để mua, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng,
trong đó tập trung ưu tiên người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ thẻ bảo hiểm
y tế; hàng triệu lượt học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm
học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ chi phí học tập. Thơng qua các tổ chức chính
trị, chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp đã có hàng trăm nghìn lượt hội viên,
người nghèo, nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo… được vay vốn
với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, học nghề, xuất khẩu lao động... Nhiều
tổ chức như: Đồn thanh niên, phụ nữ, cơng đồn, hội nơng dân, hội cựu chiến
binh… có những hình thức huy động vốn cho vay khơng tính lãi, đào tạo nghề
15
miễn phí, đào tạo nghề gắn với phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất…
tạo cơ hội thuận lợi để người dân vươn lên thoát nghèo bền vững; nhiều hình
thức hỗ trợ học sinh nghèo học tập miễn phí, như: Tổ chức các lớp học tình
thương, dạy kèm các em nhỏ, tặng sách, tặng đồ dùng học tập, đưa đón học
sinh… Các chính sách giảm nghèo đối với các xã trên địa bàn huyện nghèo
theo Nghị quyết 30a của Chính phủ tiếp tục được thực hiện hiệu quả, tạo nền
tảng và sự phát triển bền vững.
Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đặc biệt là trong
lĩnh vực giảm nghèo bền vững, bảo đảm quyền cho các nhóm dễ bị tổn
thương... Kết quả cơng tác nhân quyền thời gian qua góp phần giữ vững ổn
định chính trị, xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế...
Tuy đã đạt được những thành tựu nổi bật, nhưng với tinh thần nhìn
thẳng vào thực tế vẫn còn rất nhiều việc cần làm, nhiều vấn đề cần tập trung
sức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong thời gian tới
nhằm phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện hiệu quả việc
bảo vệ và phát triển quyền con người, xây dựng xã hội phát triển lành mạnh,
văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Theo đó, Ban Bí thư yêu cầu thời gian tới, các
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và đồn thể nhân dân tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chỉ thị số 44, tập trung thực hiện tốt các nội dung sau: Tiếp tục
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn
thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013, đưa
các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực,
phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách
tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy
mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo
16
đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực,
nhất là về giảm nghèo bền vững, bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn
thương…
3. Định hướng đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong
giai đoạn hiện nay
Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Chúng khơng thừa nhận tính đặc thù của quyền con người, cho rằng quyền
con người chỉ là giá trị chung không phụ thuộc vào pháp luật hay đạo đức của
bất kỳ xã hội nào và phải được áp dụng với những chuẩn mực và phương thức
đồng nhất ở mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử và
văn hố. Chúng rêu rao quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, tuyệt
đối hoá quyền tự do cá nhân, đặc quyền của cá nhân cao hơn chủ quyền của
cộng đồng dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác,
kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình” (chủ yếu trong
lĩnh vực chính trị - tư tưởng, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo) của chúng.
Trước âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, các
cấp, các ngành cần tăng cường chỉ đạo và thực hiện các biện pháp sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân thấm nhuần sâu sắc lập trường, quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề nhân quyền, nâng cao ý thức cảnh giác
trước luận điệu sai trái và âm mưu của các thế lực thù địch và các nước bảo
trợ chúng lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để
chống phá ta.
- Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
các chương trình và chính sách phát triển vùng, trong đó ưu tiên phát triển vùng
sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới và vùng căn cứ cách mạng gắn với chương
17
trình xố đói, giảm nghèo, chính sách với người có cơng và chính sách dân tộc,
tơn giáo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam có đủ 5 đức tính đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)
xác định; chiến lược phát triển nguồn nhân lực và giáo dục - đào tạo; chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ nhân dân…, làm cho mọi người Việt Nam đều được hưởng
thành quả của công cuộc đổi mới. Đồng thời phải khắc phục những hạn chế về
quyền con người trong truyền thống và hiện tại nhằm hoàn thiện quyền con
người ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con
người, tiếp tục xây dựng hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế. Các cơ quan
tham mưu của Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước cần chủ động phối
hợp nghiên cứu dự báo những vấn đề mà quốc tế quan tâm xung quanh lĩnh
vực “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc”, chuẩn bị lý lẽ để trả lời
kịp thời, đầy đủ, chính xác, đồng thời đập tan luận điệu xuyên tạc, vu cáo
của các thế lực thù địch. Tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các tổ chức
quốc tế (nhất là các nước trong thế giới thứ ba, Ủy ban nhân quyền, Tiểu ban
nhân quyền và Ủy ban kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc). Kiên quyết đấu
tranh khơng để các tổ chức phản động lưu vong có tư cách tư vấn tại Liên
hợp quốc.
Quyền con người, đảm bảo quyền con người trong thời đại tồn cầu
hố đang có những diễn biến mới và rất phức tạp, địi hỏi phải kiên trì và có
bước đi, giải pháp đúng đắn, vừa tập trung phát triển kinh tế - xã hội trong
nước, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng dân chủ trong Đảng, trong xã hội
vừa đẩy mạnh đấu tranh trên trường quốc tế. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào,
chúng ta cũng phải kiên trì nguyên tắc “nhân quyền không được cao hơn chủ
quyền, nhân quyền không được phủ nhận chủ quyền”.
18
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy, vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân ở Việt Nam là một trong những vấn đề trọng tâm, có ý
nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta ghi nhận và
bảo vệ quyền con người khơng chỉ trong Hiến pháp mà cịn được quy định
trong hệ thống pháp luật.
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề này. Đảm bảo thực hiện tốt quyền con người ở
Việt Nam cũng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị 12/TW của Ban Bí thư, ngày 12-7-1992.
2. Cương lĩnh Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc
gia 1998.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp Lý luận
chính trị, Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2018.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. ;
6. .
20