Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.84 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở nước ta diễn
ra trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát
triển mạnh mẽ chưa từng có. Khoa học và cơng nghệ cùng với lượng tri thức
tăng nhanh đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và
làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hơi lồi người.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam
trong điều kiện ngày nay không thể đi theo con đường truyền thống kéo dài
hàng trăm năm như các nước đi trước, mà phải kết hợp hợp lý giữa bước tuần
tự với bước nhảy vọt, mạnh dạn đi ngay vào trình độ hiện đại. Muốn vậy, phải
biết phát huy lợi thế đất nước, tận dụng mọi khả năng thuận lợi để đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới
có khả năng rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, đưa nước ta cơ bản
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Vì vậy, để hiểu sâu hơn về một số vấn đề liên quan đến quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam trong điều kiện ngày nay,
em xin chọn nội dung “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam” làm hướng nghiên cứu của mình.


NỘI DUNG
1. Bối cảnh tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
Một là, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta diễn ra trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng
có. Trong bối cảnh đó, Đại hội IX của Đảng nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp
tục có nhiều biến đổi. Khoa học và cơng nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh
tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản


xuất”. Đại hội X chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra
và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”. Có thể thấy,
cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ
bão đã tác động đến hầu hết các quốc gia. Điều này đặt ra cho quá trình
CNH,HĐH nước ta trước những thách thức gay gắt, đồng thời cũng tạo ra
những thách thức gay gắt, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội lớn để có thể
rút ngắn q trình CNH, HĐH đất nước. Khơng thể phủ nhận một thực tế là
trình độ phát triển khoa học và công nghệ hiện nay của nước ta cịn thấp so
với trình độ chung của thế giới, lại càng thấp so với trình độ chung của thế
giới, lại càng thấp xa hơn so với các nước cơng nghiệp phát triển. Trong khi
đó, để CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải ứng dụng
nhanh chóng và có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến.
Các thành tựu khoa học và công nghệ này sẽ được đảm bảo từ nguồn nào?
Chuyển giao từ bên ngoài hay tự nghiên cứu để ứng dụng trong thực tế? Mỗi
cách làm đều chứa đựng những yếu tố hợp lý và bất hợp lý. Để chọn cách làm
phù hợp nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng “tụt hậu” xa hơn về kinh tế và
thực hiện được yêu cầu “vượt lên trước” đòi hỏi cần phải kết hợp giữa tiếp


nhận sự chuyển giao từ bên ngồi có cải biến cho phù hợp với thực tiễn nước
ta với nghiên cứu sáng tạo ở trình độ hiện đại ở trong nước.
Hai là, xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu trong kinh
tế tự nhiên và phần nào đó trong kinh tế thị trường, sự phân cơng và trao đổi
cịn bị giới hạn bởi tính vùng, địa phương và quốc gia, thì trong xu thế tồn
cầu hóa hiện nay, sự phân công và trao đổi được thực hiện thơng qua mạng
liên kết tồn cầu. Xu thế này tất yếu làm cho các nước xích lại gần nhau hơn
trong hoạt động đầu tư và thương mại. Giờ đây các sản phẩm công nghệ được
sản xuất ra phần lớn vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia cụ thể, hay nói cách

khác là có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau.
Nói cách khác, biên giới quốc gia không bị giới hạn chặt chẽ như trước đây,
mà xích lại gần nhau. Xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế phát
triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đang tạo ra những mối liên hệ phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước, tạo ra khả năng và điều kiện để
các nước tham gia vào phân công, hợp tác quốc tế. Điều đó cho phép các
nước chậm phát triển như nước ta mở rộng quan hệ kinh tế với các nước tiên
tiến trên thế giới để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, đào
tạo cán bộ, cơng nhân kỹ thuật… Có thể nói, đây là điều kiện rất quan trọng,
nếu biết khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực bên ngồi thì sẽ huy động
được tối ưu mọi nguồn lực và lợi thế bên trong, tạo ra các tiền đề cần thiết
cũng như các điều kiện có liên quan để đẩy nhanh q trình CNH, HĐN đất
nước. Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, về mặt thời đại, xu hướng chủ
đạo là tiến lên kinh tế tri thức, bị chi phối bởi kinh tế tri thức như là một lực
lượng quyết định sự phát triển. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới, tất yếu phải nhanh chóng đi vào kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là đòn bẩy để phát triển.
Ba là, hơn hai mươi năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP ở mức khá cao.


GDP bình quân đầu người tăng 1,8 lần. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
trong các thời gian 1996 - 2000 là 6,9%, 2001 - 2005 là 7,51%, cụ thể qua các
năm gần đây như năm 2008 là 6,23%, năm 2009 là 5,32%. Nơng nghiệp đã đi
vào vịng chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH, HĐH. Kết cấu hạ tầng được
xây dựng mới, cải tạo và nâng cấp khá đồng bộ, nhất là hệ thống giao thơng,
mạng lưới bưu chính viễn thông, mạng lưới điện, hệ thống thủy lợi, đê điều,
hệ thống cấp thốt nước cho các đơ thị, khu công nghiệp, hệ thống trường học
từ mẫu giáo, nhà trẻ đến đại học, các cơ sở y tế từ tuyến xã đến trung ương,
hệ thống phát thanh truyền hình, nhà cho dân cư… đều được nâng cấp về chất

lượng và đáp ứng nhu cầu cơ bản của dân cư. Cơ cấu kinh tế đã có bước
chuyển dịch tích cực theo hướng chú trọng khai thác có hiệu quả các nguồn
lực và lợi thế của đất nước. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng
an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
2. Nội dung cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức
Trước khi xem xét nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức cần thiết làm rõ thêm một số vấn đều sau:
Thứ nhất, theo quan niệm của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, khóa VII: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi
căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Có thể thấy, khái niệm CNH, HĐH trên đây được Đảng ta xác định
rộng hơn quan niệm công nghiệp hóa trước kia, nó bao hàm cả lĩnh vực sản


xuất, kinh doanh dịch vụ, quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các
phương tiện với các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật - công
nghệ cao. Như vậy, với tư tưởng mới, CNH, HĐH khơng chỉ bó hẹp trong
phạm vi các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao
động thủ cơng lên lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Thứ hai, từ thập niên 80, thế kỷ XX lại đây, nền kinh tế thế giới chuyển
mạnh sang phát triển kinh tế tri thức. Đây là một đặc trưng nổi bật của thời
đại ngày nay. Thuật ngữ “kinh tế tri thức” được Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD) chính thức dùng từ năm 1995, theo đó: “Kinh tế tri thức
(knowledge economy) là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử

dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Ở nước ta hiện nay, xét trên cả
phương diện lý luận và thực tế, một số người vẫn còn xa lạ với phạm trù kinh
tế tri thức. Song, trong cuộc sống thực tại, họ lại rất gần gũi với các sản phẩm
hoặc công nghệ do tri thức hiện đại mang lại. Kinh tế tri thức tác động đến
con người qua nhiều phương tiện (truyền hình, máy vi tính và Internet, cơng
cụ sản xuất hoặc sản phẩm giải trí…). Những thành tựu của khoa học và tri
thức hiện đại được ứng dụng nhanh chóng trong các trường học, viện nghiên
cứu và được lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng. Thuật ngữ kinh tế tri thức chính
thức được sử dụng trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng, đó là một nền
kinh tế có tỷ lệ hàm lượng chất xám cao, trong cơ cấu giá trị của hàng hóa thì
chất xám chiếm tỷ lệ cao hơn. Theo Văn kiện Đại hội X của Đảng: “Kinh tế
tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh
các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức,
kết hợp việc sử dụng tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất
của nhân loại”. Điều đó cho thấy, kinh tế tri thức là một nền kinh tế phát triển
theo chiều sâu, các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp… phát triển chủ
yếu dựa vào tri thức. Kinh tế tri thức địi hỏi phải có nguồn nhân lực chất


lượng cao, nắm vững và làm chủ được khoa học - cơng nghệ và ứng dụng có
hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Thứ ba, tại sao cần phải CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức?
Việc từng bước phát triển kinh tế tri thức trong quá trình CNH, HĐH phải trở
thành đường lối phát triển có tính chiến lược của nước ta. Điều này có nghĩa
là, chúng ta vừa phải thực hiện những nhiệm vụ của CNH, HĐH vừa phải
phát triển những yếu tố cơ bản ban đầu của kinh tế tri thức. Nói cách khác,
thực hiện CNH, HĐH ở nước ta trong điều kiện phát triển mới không chỉ
thuần túy là chuyển nền kinh tế nông nghiệp thành kinh tế công nghiệp, mà
nền kinh tế sẽ được tạo lập đã có những yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức.

Đây chính là biểu hiện của việc kết hợp giữa bước đi tuần tự và bước nhảy
vọt, giữa thực hiện mục tiêu thốt khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu với mục
tiêu tạo lập cơ sở phát triển kinh tế tri thức hiện đại ngay trong điều kiện hiện
nay, khơng thể chờ hồn thành cơng nghiệp hóa, xây dựng được kinh tế công
nghiệp rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ CNH, HĐH và
từng bước phát triển kinh tế tri thức có quan hệ ràng buộc, hỗ trợ và thúc đẩy
nhau. Có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng
thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH, thực hiện được các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Ngược lại, việc thực hiện
các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mới tạo ra kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và kể cả hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, mới có điều
kiện để đi thẳng vào kinh tế tri thức.
Như vậy, có thể hiểu rằng, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức là một phương thức cơng nghiệp hóa mới trong điều kiện của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của xu hướng tồn cầu hóa nền kinh
tế đang gia tăng mạnh mẽ. Để tiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế
tri thức, thực hiện được chiến lược từng bước chuyển sang nền kinh tế tri
thức, nước ta phải:


- Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Hai là, phát triển kinh tế vùng
- Ba là, phát triển nhanh hơ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
- Bốn là, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ
3. Những tiền đề, điều kiện để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Đây là tiền đề và
điều kiện quan trọng để phát triển của mọi quốc gia, nhất là đối với những
nước trải qua nhiều năm chiến tranh như nước ta thì rất cần sự ổn định để phát
triển kinh tế - xã hội, để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một mặt,

chúng ta phải nâng cao cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hịa bình, mặt
khác, xây dựng chính quyền từ trung ương đến địa phương vững mạnh, thật
sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân, tạo sự đồn kết nhất trí, sự đồng
thuận trong xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh.
Thứ hai, tích lũy vốn trên cơ sở phát huy nội lực và tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài. Sự nghiệp CNH, HĐH nước ta tiến hành nhanh hay chậm phụ
thuộc rất nhiều vào q trình tích lũy vốn. Con đường cơ bản để giải quyết
vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất. Ngồi ra, cần
phải mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân. Triệt để tiết kiệm, coi “tiết kiệm là quốc sách”, đấu tranh triệt để
với nạn tham nhũng, lãng phí. Xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu
cầu của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển là yêu cầu khách quan. Còn
đối với nguồn vốn từ bên ngoài, cần huy động dưới các hình thức: kêu gọi
viện trợ, đầu tư, vay vốn ngắn hạn, dài hạn, kêu gọi vốn kiều hối…
Thứ ba, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành


nghề. Trước hết, phải đổi mới nhận thức, tư duy mới về đào tạo, sử dụng đội
ngũ cán bộ khoa học và truyền bá tri thức mới. Hồn thiện chính sách sử dụng
cán bộ khoa học, lấy chất lượng và kết quả hoạt động nghiên cứu, đóng góp
khoa học là thước đo, là tiêu chuẩn căn bản cho mọi chế độ cất nhấc, đề bạt,
khen thưởng, đãi ngộ vật chất. Tổ chức lại một cách căn bản hệ thống đào tạo,
rà soát lại cơ cấu đào tạo cho hợp lý, nghiên cứu đồng bộ các phương pháp
dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên, nhằm thực
hiện mục tiêu chuyển trọng tâm giáo dục từ trang bị kiến thức sang rèn luyện
phương pháp, xây dựng năng lực, phát triển khả năng sáng tạo. Tăng cường
đào tạo lại theo chuyên đề của các chuyên ngành để cập nhật thơng tin, kiến

thức mới cho kịp với trình độ thế giới và khu vực.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công
nghệ. Để làm được điều này, cần chú trọng các lĩnh vực khoa học và công
nghệ trọng điểm gắn với kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ gia công tiên tiến trong cơ khí, cơng
nghệ chế biến… Thực hiện các biện pháp nhằm làm tốt hơn công tác chuyển
giao công nghệ và tăng cường tác dụng của chuyển giao công nghệ tới phát
triển kinh tế tri thức. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích
sáng tạo và phổ biến tri thức. Chú trọng đào tạo cán bộ và cơng nhân kỹ thuật
có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các kết quả chuyển
giao công nghệ, đồng thời nghiên cứu những vấn đề đặc thù cho phù hợp với
điều kiện Việt Nam. Nhà nước cần hỗ trợ các cá nhân và tổ chức hoạt động
khoa học và công nghệ về cơ sở thông tin, bảo hộ quyền lợi, tư vấn pháp luật,
nhất là những lĩnh vực có liên quan đến quan hệ với nước ngồi nhằm bảo
đảm lợi ích của họ.
Thứ năm, xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đáp ứng yêu cầu phát
triển. Cơng nghệ thơng tin là chìa khóa để đi vào nền kinh tế tri thức. Song,
muốn công nghệ thơng tin nhanh chóng phát huy hiệu quả thì cần phải xây


dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật đến đội ngũ cán bộ vận hành, sử dụng
công nghệ thông tin. Muốn rút ngắn thời gian CNH, HĐH và từng bước
chuyển sang nền kinh tế tri thức và rút ngắn khoảng cách về công nghệ thông
tin của nước ta với các nước trong khu vực và thế giới, nhà nước phải có
chiến lược phát triển cơng nghệ thơng tin, viễn thông, điện tử và phát triển
đồng bộ hạ tầng kỹ thuật thơng tin để có thể khai thác sử dụng được thiết bị
công nghệ cao của thế giới. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ
khoa học.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế được coi là một trong những điều
kiện quan trọng để từng bước phát triển kinh tế tri thức, thực hiện nhanh và có

hiệu quả nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.


KẾT LUẬN
Tóm lại, muốn rút ngắn q trình CNH, HĐH thì phải nắm bắt, khai
thác, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại và những yếu tố
của nền kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn phải tăng tốc, đi tắt, đón đầu, bỏ qua
lối mịn mà các nước đã phải vất vả vượt qua, quan điểm đó có điều kiện thực
hiện khi tri thức đã mang tính tồn cầu. Chủ trương của Đảng ta đẩy mạnh
CNH, HĐH và từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là có
căn cứ khoa học, phù hợp với xu thế chung của thời đại, nhưng chỉ thành
công khi hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, bổ sung
cho nhau, hỗ trợ nhau, bằng cách tăng cường đào tạo, sử dụng, khuyến khích,
tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia và đầu tư vào các ngành công nghệ kỹ
thuật cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh
tế tri thức.


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC

Đề tài: “Một số giải pháp bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân
ở nước ta hiện nay”

Học viên: Lê Thị Thu Trang
Mã số học viên: FF170875
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K68-C06 (20172018)



Hà Nội, tháng 01/2018



×