Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Từ kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng việt (so sánh với tiếng khmer đồng bằng sông cữu long)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------

ĐÀO THỊ KIM DUYÊN

TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ
TRONG TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01

TP. HCM, Ngày 15 tháng 07 năm 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------

ĐÀO THỊ KIM DUYÊN

TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ
TRONG TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


MÃ SỐ: 60 22 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS LÊ KHẮC CƯỜNG

TP. HCM, Ngày 15 tháng 07 năm 2014


1

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy hướng dẫn PGS. TS. Lê Khắc
Cường đã tận tình chỉ bảo, góp ý, chỉnh sửa những sai sót và động viên tơi trong suốt
q trình thực hiện luận văn.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn thầy Bùi Khánh Thế, thầy Nguyễn Vân Phổ,
thầy Phú Văn Hẳnđã cho tơi những ý kiến và lời khun bổ ích ngay từ những ngày
đầu phác thảo ý tưởng về luận văn.Đồng cảm ơn đến q Thầy Cơ đã tận tình truyền
đạt kiến thức cho tôi trong hai năm cao học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân đến thầy cô, cô chú, anh chị em cộng tác viên đã cung
cấp những ngữ liệu rất hữu ích cho luận văn này. Các gia đình tại các tỉnh Sóc Trăng,
Tây Ninh, Trà Vinh, Kiên Giang đã nhiệt tình, tạo điều kiện cho tơi sinh hoạt, học tập
trong q trình điền dã. Đặc biệt là những tư liệu hữu ích từ cơ Nguyễn Thị Phượng
(GV tiếng Khmer – Thông tấn xã Việt Nam), thầy Danh Sol (GV Trường CĐSP Kiên
Giang), Acha Nguyễn Hữu Nghiệp (Chùa Chandaransay).
Lời cuối, chân thành gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã hết lịng quan tâm,
động viên và tạo điều kiện để tơi vượt qua khó khăn, hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.

Đào Thị Kim Duyên



2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
1.

Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 4

2.

Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 5

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8

4.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 8
4.1. Mục đích ................................................................................................. 8
4.2. Nhiệm vụ ................................................................................................. 9

5.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9

6.


Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 9
6.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................... 9
6.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................... 10

7.

Kết cấu của luận văn ................................................................................ 10

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT ................................................................... 12
1.1. KHÁI QUÁT TỪ TRONG NGÔN NGỮ ................................................. 12
1.2. TỪ KIÊNG KỊ .......................................................................................... 14
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 14
1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................ 16
1.3. UYỂN NGỮ ............................................................................................. 18
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 18
1.3.2. Đặc điểm ............................................................................................ 19
1.3.3. Phân biệt uyển ngữ với nhã ngữ, biệt ngữ, tiếng lóng ........................ 23
1.3.4. Vai trị của uyển ngữ trong đời sống xã hội: ...................................... 26
1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA KIÊNG KỊ VÀ UYỂN NGỮ .............................. 29
1.5. TIỂU KẾT ................................................................................................ 30
CHƯƠNG 2. TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT .............. 31
2.1. VẤN ĐỀ KỊ HUÝ..................................................................................... 31
2.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 31
2.1.2. Phân loại nội dung kị huý ................................................................... 32
2.1.2.1. Quốc huý ..................................................................................... 32


3
2.1.2.2. Gia tộc huý .................................................................................. 34

2.1.3. Ảnh hưởng của kị húy ........................................................................ 36
2.1.3.1. Kị huý làm biến đổi nhân danh.................................................... 36
2.1.3.2. Kị huý làm biến đổi địa danh ...................................................... 38
2.1.3.3. Kị huý làm biến đổi từ ngữ (hiện tượng biến đổi từ) ................... 39
2.2. NĨI TRÁNH NHỮNG ĐIỀU KHƠNG AI MONG MUỐN ..................... 41
2.2.1. Cái chết............................................................................................... 41
2.2.2. Bệnh tật, khiếm khuyết cơ thể ............................................................ 49
2.2.3. Điều rủi ro, buồn phiền, ghê sợ .......................................................... 51
2.3. VẤN ĐỀ THÔ TỤC, NHẠY CẢM, CẦN CHE GIẤU............................. 55
2.3.1. Bộ phận cơ thể kín đáo, nhạy cảm ...................................................... 55
2.3.2. Hoạt động sinh lí thầm kín, riêng tư ................................................... 58
2.4. VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ…………..63
2.4.1. Những từ kiêng kị, uyển ngữ liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo ...... 63
2.4.2. Những từ kiêng kị, uyển ngữ liên quan đến phong tục tập quán ........ 67
2.5. TIỂU KẾT ................................................................................................. 74
CHƯƠNG 3. SO SÁNH TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ TIẾNG VIỆT
VỚI TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ TIẾNG KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG……………………………………………………….……………. 75
3.1. TIẾP XÚC NGƠN NGỮ VIỆT - KHMER................................................ 75
3.1.1. Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ ................................................................ 75
3.1.2. Tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Khmer ........................................................ 77
3.2. SO SÁNH TỪ KIÊNG KỊ, UYỂN NGỮ TIẾNG VIỆT VỚI TỪ KIÊNG
KỊ, UYỂN NGỮ TIẾNG KHMER ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG…... 80
3.2.1. Nói tránh những điều không ai mong muốn ....................................... 80
3.2.2. Vấn đề thô tục, nhạy cảm, cần che giấu ............................................. 86
3.2.3. Vấn đề khác liên quan truyền thống văn hoá ...................................... 90
3.3. TIỂU KẾT ................................................................................................. 97
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 101
DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN ...................................................................... 106

BẢNG PHỤ LỤC ............................................................................................... 108


4
MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài

Kiêng kị (taboo) là một hiện tượng phổ biến từ lâu trong nhiều nền văn hố. Sự ra
đời của nó là kết quả tất yếu của quá trình nhận thức thế giới của con người. Có thể
nói, kiêng kị chứa đựng nhiều tri thức dân gian về mọi lĩnh vực trong cuộc sống và lao
động của con người với mong muốn bảo vệ con người khỏi những bất trắc và tạo ra nét
văn hoá đặc trưng trong cộng đồng.
Tư duy kinh nghiệm và những niềm tin tơn giáo, tín ngưỡng, kiêng kị, hèm tục là
sản phẩm tất yếu của con người thời cổ đại, trong đó có người Việt. Khi đó con người
cịn sơ khai, chưa thể giải thích được những hiện tượng thần thánh, tâm linh, xui xẻo
trong đời sống. Ngày nay, tuy con người bước vào kỉ nguyên khoa học hiện đại, nhưng
không vì thế mà những ảnh hưởng, tàn dư từ lề thói, phong tục, truyền thống hay đơn
giản là từ thói quen của người xưa bị mất đi. Nó vẫn tồn tại hằng ngày, hằng giờ trong
đời sống chúng ta. Với quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, ông cha ta chịu
sự chi phối bởi những điều kiêng kị trong các sinh hoạt thường ngày, trong phong tục
tập quán. Họ xây dựng, duy trì và phổ biến những điều kiêng kị cho thế hệ sau. Trong
các điều kiêng kị đó, có kiêng kị về ngơn ngữ. Người ta kiêng, tránh một từ nào đó,
cách nói nào đó và thay thế nó bằng một từ khác, cách nói khác. Có thể vì nó động
chạm đến một tín ngưỡng, niềm tin, gây tổn thương người khác hoặc cũng có thể chỉ vì
sự kém tế nhị, ngại ngùng nào đó mà từ gây nên.
Bên cạnh từ kiêng kị, trong giao tiếp, người ta thường tránh cách nói q thẳng để
khơng làm tổn thương người đối thoại, gây mất thiện cảm khi đề cập đến cái chết,
những điều không may hoặc đáng sợ, những vấn đề nhạy cảm như khiếm khuyết về cơ

thể, vấn đề thô tục,... hay đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lí, tinh thần của người
phát ngơn và người thụ ngôn. Cuộc sống càng hiện đại, con người càng có nhu cầu vận
dụng, lựa chọn, cải tiến ngôn ngữ để sản sinh ra những lời hay, ý đẹp. Từ đó hình thành
các cách biểu đạt mới với tên gọi uyển ngữ.
Uyển ngữ (euphemism) (hay nói giảm, nói tránh, nhã dụ, khinh từ, nói trại, nhã
ngữ,…) là một hiện tượng ngôn ngữ tồn tại phổ biến trong xã hội. Đồng thời uyển ngữ
cũng là một hiện tượng văn hố, là cách thức quan trọng trong việc dùng ngơn ngữ để
điều phối mối quan hệ giao tiếp ứng xử giữa người với người. Con người khơng thể
nghĩ gì nói nấy, khơng thể bất kì vấn đề nào cũng trực tiếp nói ra mà khơng quan tâm


5
đến thái độ, phản ứng của người nghe. Với uyển ngữ, người ta có thể biểu đạt tư tưởng
của mình một cách tự nhiên, thể hiện sự lịch sự, lễ phép, mang lại cảm giác tích cực
trong giao tiếp,… nhằm đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp.
Dân tộc Việt và dân tộc Khmer là hai dân tộc anh em có mối quan hệ rất gần gũi,
mật thiết. Vì thế, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Việt và tiếng Khmer là rất rõ nét, sâu
sắc. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hiện tượng tiếp xúc ngơn ngữ Việt – Khmer
được cơng bố. Thế nhưng, trong q trình học tập, tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy những
cơng trình nghiên cứu về từ kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt có số lượng khơng
nhiều và chưa được nghiên cứu sâu. Đặc biệt chưa có cơng trình nào so sánh từ kiêng
kị, uyển ngữ trong tiếng Việt với tiếng Khmer. Vì thế, chúng tơi chọn đề tài “Từ kiêng
kị, uyển ngữ trong tiếng Việt (có so sánh tiếng Khmer đồng bằng sông Cửu Long)”
để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chun ngành ngơn ngữ học.

2.

Lịch sử nghiên cứu

Vì là hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ, kiêng kị, uyển ngữ đã sớm được nhiều

học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Có thể kể một số cơng trình tiêu biểu như
sau:
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: Lawrence, Jeremy
(1973), Unmentionable and Other Euphemisms, London: Gentry Books; A Dictionary
of Euphemism and Other Doublespeak của Hugh Rawson (1981); Allan K & Burridge
K (1991) với Euphemism and Dysphemism – language Used as Shield and Weapon,
Oxford University Press; Slang and Euphemism do Richard A. Spears biên soạn
(2001); Salma Haddad (2009) với Euphemising Death, Damascus University Journal,
Vol. 25 No. 1+2, 2009,… đã nêu khá rõ về khái niệm, đặc điểm của uyển ngữ trong
ngôn ngữ tiếng Anh.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, những tài liệu nghiên cứu về từ kiêng kị, uyển ngữ tiếng
Việt cịn khá ít ỏi, chưa thành hệ thống. Nó chỉ được nhắc đến một cách sơ lược trong
các sách về phong cách học, ngôn ngữ học xã hội và ở một số bài báo.
Như trong Phong cách học tiếng Việt của Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hịa
(1993), tác giả có nêu lên khái niệm về uyển ngữ, bàn về uyển ngữ, phong cách học
ngôn ngữ.


6
Trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt (2000), tác giả Đinh Trọng
Lạc cho rằng: “Uyển ngữ thuộc nhóm hốn dụ, là hình ảnh tu từ trong đó người ta thay
tên một đối tượng (hoặc một hiện tượng) bằng sự miêu tả những dấu hiệu cơ bản của
nó, hoặc bằng việc nêu lên những nét đặc biệt của nó” [32; 71]. Tuy nhiên, quyển sách
chỉ dừng lại ở khái niệm, chưa đi sâu phân tích.
Với bài báo “Uyển ngữ xét từ góc độ lịch sử và cấu tạo”, Ngữ học trẻ (1996),
Nguyễn Chiến chỉ đi sâu về nguồn gốc, cấu tạo uyển ngữ.
Nguyễn Đức Dân (2005) trong bài báo nghiên cứu “Từ cấm kị và uyển ngữ”,
được in trong sách Một số vấn đề về phương ngữ xã hội, Nxb KHXH, tr. 41 – 59 cũng
đã đề cập đến kiêng kị, uyển ngữ, nhưng chủ yếu đi sâu lớp ngữ nghĩa của từ kiêng kị,
phương thức cấu tạo của uyển ngữ. Tuy nhiên, đây là bài báo có giá trị cao đối với luận

văn, định hướng cho chúng tơi khi tiếp cận, phân tích vấn đề sâu hơn.
Đoàn Tiến Lực đã cung cấp những hiểu biết về uyển ngữ dưới góc nhìn tri nhận
rất thú vị qua bài báo “Sự tri nhận về cái chết của người Việt qua uyển ngữ”, tạp chí
Nghiên cứu Văn hố, số 1, 2012. Nhưng đáng tiếc chỉ là uyển ngữ trong phạm vi liên
quan đến cái chết. Và vừa rồi, đầu năm 2013, tác giả có bài “Về phương thức cấu tạo
uyển ngữ”, tạp chí Ngơn ngữ, số 2. Ở bài này, tác giả đã đi sâu phân tích một khía cạnh
của uyển ngữ là phương thức cấu tạo.
Mặc dù mỗi cơng trình có góc độ nghiên cứu khác nhau, nhưng đó là những tài
liệu cung cấp những nền tảng lí thuyết giúp chúng tơi nghiên cứu đề tài.
Ngồi ra, nghiên cứu về kiêng kị, uyển ngữ cịn có các luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ của các học viên cao học, nghiên cứu sinh ở các trường đại học. Chẳng hạn:
Trương Viên với Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu uyển ngữ trong tiếng Anh và việc
chuyển dịch sang tiếng Việt”, trường ĐH KHXH và NV, năm 2003.
Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, trường ĐH KHXH và NV, Tp. HCM của Đặng
Trang Viễn Ngọc (2008): “Uyển ngữ tiếng Việt: trường hợp uyển ngữ chỉ trạng thái
Chết (có so sánh với tiếng Anh)”. Luận văn này chỉ giới hạn trình bày uyển ngữ liên
quan đến cái chết. Vạch ra những đặc trưng chính và các đặc điểm về ngữ nghĩa biểu
thị cái chết trong tiếng Việt, có liên hệ với tiếng Anh.
Trần Thị Vân Yên (2009) với “Uyển ngữ trong tiếng Hàn”, Luận văn thạc sĩ
Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH và NV, Tp. HCM. Luận văn này nghiên cứu uyển
ngữ dưới góc độ từ vựng, theo cách nhìn dụng học và văn hoá.


7
“So sánh hiện tượng kiêng kị trong tiếng Hán và tiếng Việt”, Luận văn thạc sĩ
Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH và NV, Hà Nội của Lý Lăng.
Nguyễn Thị Lan Thanh với “Uyển ngữ trong tiếng Hán và tiếng Việt”, Luận văn
thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH và NV, Tp. HCM.
Nguyễn Tuyết Hạnh (2011), “Uyển ngữ trong tiếng Hán (đối chiếu với tiếng
Việt)”, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH và NV, Tp. HCM. Luận

văn này lại đi vào nghiên cứu uyển ngữ dưới tầng “nghĩa văn hoá” trong từ ngữ Hán;
sự ảnh hưởng của uyển ngữ tiếng Hán đối với tiếng Việt.
Tuy nhiên, chúng tơi nhận thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu về cả hai hiện
tượng kiêng kị, uyển ngữ một cách rõ ràng, đầy đủ ở các lĩnh vực thường gặp trong
cuộc sống.
Cùng với tiếng Việt, tiếng Khmer ở Việt Nam là một ngơn ngữ có sức sống mạnh
mẽ. Do đó, nó cũng được nghiên cứu khá nhiều và trên các góc độ khác nhau. Những
cơng trình nghiên cứu tiếng Khmer tại Việt Nam có thể được kể đến là: Tiếng Khmer:
Ngữ âm – Từ vựng – Ngữ pháp của Thái Văn Chải (1997), Luận án tiến sĩ “Tình hình
song ngữ Khmer – Việt tại đồng bằng sông Cửu Long – một số vấn đề lí thuyết và thực
tiễn” của Đinh Lư Giang (2011), “Tiếng Việt gốc Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở
miền Tây Nam Bộ – nhìn từ góc độ ca dao” của Trần Minh Thương, “Tiếp xúc ngôn
ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh)” của Nguyễn Thị Huệ
(2010). “Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam từ những năm 90” với
58 cơng trình (sách, bài viết) về vấn đề chung và 235 cơng trình về các ngơn ngữ dân
tộc khác nhau là quyển sách tập hợp nhiều cơng trình đáng tham khảo. Ngồi ra, cịn có
các cơng trình nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ học, các đặc điểm của tiếng Khmer
ở tạp chí Mơn – Khmer, các bộ từ điển, sách giáo khoa tiếng Khmer của bộ phận trí
thức Khmer.
Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu nhưng các cơng trình trên chủ yếu là nghiên
cứu về đặc điểm tiếng Khmer, về ngữ âm, cấu tạo từ, thanh điệu Việt ở cá thể song ngữ
Khmer, tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Khmer,…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về những đặc điểm, hiện tượng ngôn ngữ
mang tầng nghĩa văn hố trong tiếng Khmer cịn khá hạn chế. Đặc biệt, so sánh hiện
tượng kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt với tiếng Khmer thì chưa thấy có cơng trình
nào.


8
Như vậy, những nghiên cứu về lĩnh vực liên quan đề tài của luận văn này còn khá

khiêm tốn. Trên cơ sở tiếp thu những vấn đề lí thuyết cơ sở, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu về kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt. Thông qua nguồn ngữ liệu khảo sát trong
tiếng Khmer, tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngơn ngữ, hai nền văn
hố. Đề tài chúng tơi thuộc bình diện ngữ vựng, ngữ dụng. Do đó, theo chúng tơi, đề
tài nghiên cứu về “Từ kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt (có so sánh tiếng Khmer đồng
bằng sông Cửu Long)” là một đề tài khá rộng, thú vị và còn khá mới mẻ, mang tính
ứng dụng cao.

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này tập trung tìm hiểu, khảo sát bản chất,
nguyên nhân, đặc điểm của một lớp từ đặc trưng trong tiếng Việt: kiêng kị, uyển ngữ.
Đi sâu nghiên cứu từ ngữ kiêng kị, uyển ngữ của tiếng Việt trên bình diện ngơn ngữ
(cấu trúc, ngữ nghĩa, vai trị, thơng qua những hiện tượng thường gặp trong đời sống).
Đồng thời nghiên cứu đối sánh với lớp từ tương tự trong tiếng Khmer.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các từ kiêng kị,
uyển ngữ được dùng trong đời sống hàng ngày ở các lĩnh vực như: kị huý; những điều
con người sợ sệt, không mong muốn xảy ra: cái chết, bệnh tật; bộ phận cơ thể, hoạt
động sinh lí nhạy cảm; vấn đề liên quan phong tục, tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo.
Từ ngữ kiêng kị, uyển ngữ tiếng Việt nêu trong luận văn được chúng tôi lấy từ
“Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên) (2006), phiếu khảo sát, và các sách văn
học, tài liệu nghiên cứu khác có liên quan. Ngữ liệu tiếng Khmer sử dụng trong luận
văn được lấy từ “Từ điển Việt – Khmer”, (Trần Thanh Pôn, Sôrya (chủ biên)) (1995),
“Từ vựng Việt – Khmer”, “Từ vựng Khmer – Việt” (Ngô Chân Lý biên soạn) và chủ
yếu là tư liệu điền dã thu thập được tại các tỉnh Sóc Trăng, Tây Ninh (do người Khmer
sinh sống tại đây phần lớn có nguồn gốc từ người Khmer ĐBSCL nên chúng tôi cũng
chọn tỉnh này làm nơi thu thập tư liệu cho luận văn), Trà Vinh, Kiên Giang.


4.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích: Qua đề tài, chúng tơi muốn khảo sát, thu thập những từ ngữ kiêng
kị, uyển ngữ trong tiếng Việt, Khmer; so sánh những nét tương đồng, khác biệt giữa
những từ ngữ kiêng kị, uyển ngữ trong hai ngơn ngữ. Từ đó, cung cấp cho người đọc


9
cái nhìn khái quát những nét giống nhau, hay đặc thù về ngơn ngữ, văn hố ở hai dân
tộc.
4.2. Nhiệm vụ: Với mục đích trên, chúng tơi hệ thống hố, tìm lời giải đáp cho
những nhiệm vụ chính sau đây:
+ Khái quát một số lí luận chung về lí thuyết ngôn ngữ học: từ kiêng kị, uyển
ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, ngơn ngữ xã hội, ngơn ngữ tâm lí, ngơn ngữ văn hoá.
+ Khảo sát kiêng kị, uyển ngữ ở bốn vấn đề chủ yếu thường xuất hiện trong giao
tiếp: cái chết; điều con người không mong muốn; điều thô tục, nhạy cảm, cần che giấu
đi và những điều liên quan phong tục, tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo, văn hố.
+ Tiến hành đối sánh với tiếng Khmer, giải thích lí do vì sao kiêng kị, sử dụng
những từ ngữ thay thế. Từ đó rút ra sự tương đồng, khác biệt trong cách dùng từ, trong
quan niệm ứng xử, dựa vào yếu tố văn hoá của hai dân tộc Việt, Khmer.

5.

Phương pháp nghiên cứu

- Trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp với phương
pháp so sánh là chủ đạo. Phương pháp miêu tả được sử dụng chủ yếu ở chương hai,
nhằm trình bày, miêu tả những hiện tượng về từ kiêng kị, uyển ngữ ở tiếng Việt trong

các bình diện thường gặp của cuộc sống. Cịn ở chương ba, chúng tơi dùng phương
pháp so sánh để đối chiếu với lớp từ tương tự trongtiếng Khmer.
- Phương pháp nghiên cứu điền dã tại các tỉnh Sóc Trăng, Tây Ninh, Trà Vinh,
Kiên Giang để tìm thêm tư liệu thực tế cho luận văn trong nhiều môi trường
- Phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính: lập bảng hỏi (phiếu khảo sát),
phỏng vấn sâu.

6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học:
Từ kiêng kị, uyển ngữ là những hiện tượng ngôn ngữ vừa phức tạp vừa phổ biến
trong mọi ngôn ngữ. Bởi nó xảy ra với nhiều kiểu dạng, thể hiện trên nhiều mặt của đời
sống. Nó vừa là một bộ phận của ngôn ngữ vừa là sự thể hiện đặc sắc văn hố của một
dân tộc. Do vậy, việc tìm hiểu từ kiêng kị, uyển ngữ của tiếng Việt một cách tập trung
sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về hiện tượng kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt.


10
Bổ sung cho người đọc những hiểu biết về một bình diện thú vị của ngơn ngữ học xã
hội.
Ngồi ra, việc so sánh từ kiêng kị, uyển ngữ giữa tiếng Việt với tiếng Khmer
vùng ĐBSCL cũng cho ta những nhận định bước đầu sự tương đồng và dị biệt về cấu
trúc, ngữ nghĩa của chúng trong hai ngôn ngữ Việt – Khmer.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm ngữ liệu cho từ điển từ kiêng kị,
uyển ngữ hoặc từ điển phổ thông của tiếng Việt và tiếng Khmer.
Bảng phụ lục mà chúng tôi thu thập được là sẽ là ngữ liệu tham khảo cho những
ai có nhu cầu nghiên cứu những vấn đề có liên quan.

Luận văn cũng góp thêm tư liệu cho việc giảng dạy tiếng Việt, tiếng Khmer. Kết
quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết cho người học tiếng Việt, tiếng
Khmer, cho những ai quan tâm đến văn hoá giao tiếp, đặc biệt là kiêng kị ngôn ngữ,
cách sử dụng uyển ngữ trong giao tiếp. Đồng thời, luận văn cịn góp phần vào lĩnh vực
giáo dục song ngữ Việt – Khmer.

7.

Kết cấu của luận văn

Mở đầu: Nêu lí do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu đề tài. Nêu đối tượng, phạm vi,
mục đích, nhiệm vụ của đề tài cùng phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa mà đề tài đạt
được.
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trình bày các khái niệm: từ, từ kiêng kị, uyển ngữ và những lí thuyết cơ sở liên
quan đến kiêng kị, uyển ngữ trong ngôn ngữ.
Chương 2: Từ kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt
Tập trung miêu tả, phân tích cấu trúc, ý nghĩa cũng như những nguyên nhân chính
dẫn đến việc hình thành từ kiêng kị và uyển ngữ trong tiếng Việt.
Chương 3: So sánh từ kiêng kị, uyển ngữ tiếng Việt với từ kiêng kị, uyển ngữ
tiếng Khmer đồng bằng sông Cửu Long.
So sánh từ kiêng kị, uyển ngữ trong tiếng Việt với tiếng Khmer để tìm ra những
điểm tương đồng và dị biệt trong cấu trúc, ý nghĩa cũng như nguyên nhân hình thành
hiện tượng này trong hai ngôn ngữ.
Kết luận


11
* Một số quy ước trình bày
Dấu ngoặc vng [x; y] hoặc [x; y – z]: x là số thứ tự tài liệu trong danh mục

Tài liệu tham khảo; y là số trang hoặc từ số trang y đến số trang z có chứa phần được
trích dẫn.
Thuật ngữ ngơn ngữ học cần được làm rõ sẽ được in nghiêng.
Các từ kiêng kị được đặt trong dấu ngoặc kép.Uyển ngữ được in nghiêng, hoặc
in nghiêng và gạch chân.
Kí hiệu “”: dẫn đến. Kí hiệu “=” hoặc “/”: bằng, tương đương.
Phần đặt trong kí hiệu /…/: phần phiên âm tiếng Khmer (theo cách đọc trong
tiếng Việt)
ĐBSCL: viết tắt của “đồng bằng sông Cửu Long”.


12
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. KHÁI QUÁT TỪ TRONG NGÔN NGỮ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học, là phạm trù ngôn ngữ
quan trọng bậc nhất của hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị cơ sở giúp con người có thể
tiến hành hoạt động nhận thức và tư duy, tạo ra các sản phẩm ngơn ngữ trên từ. Từ là
đơn vị mang tính chất dùng chung, sở hữu chung, quy ước chung rất chặt chẽ giữa các
thành viên trong cộng đồng ngôn ngữ.
Về mặt khái quát, từ là đơn vị có sẵn, cố định, có tính chất xã hội, giúp con người
nhận thức và giao tiếp. Về mặt hình thức, từ được đề cập đến khi xét một âm thanh để
xác định các âm tố, âm tiết trên bình diện lời nói và âm vị trên bình diện ngơn ngữ. Về
mặt nội dung, trên quan điểm từ vựng học, từ được đề cập đến theo chức năng biểu thị
khái niệm, phản ánh sự vật, hiện tượng, con người, tư tưởng, tình cảm,... thuộc về thực
tế khách quan của loại đơn vị ngôn ngữ này.
Bởi những lí do trên đây, từ là đơn vị cơ bản mang tính tổng thể hữu cơ, tồn diện
và bao quát nhất ở tất cả các phương diện: ngữ âm, chữ viết, ngữ nghĩa, ngữ pháp,
phong cách,... trong hệ thống ngơn ngữ.Trong q trình sử dụng ngơn ngữ, các từ luôn
được tái hiện với tư cách là những đơn vị có sẵn và mỗi một từln được gặp trong
những trường hợp sử dụng riêng biệt khác nhau, tuỳ theo những trường hợp tái hiện

khác nhau.
Từ tiếng Việt là đơn vị cơ bản, trung tâm của hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt. Từ
tiếng Việt là đơn vị mang tính tâm lí học, tri nhận học, mang bản sắc văn hố dân tộc
Việt1.
Hiện nay, có khoảng trên 300 định nghĩa về từ nhưng khơng có định nghĩa nào
phản ánh bao qt hết được bản chất của từ trong mọi ngôn ngữ. Việc đưa ra một định
nghĩa từ tiếng Việt sao cho thoả đáng, được tất cả nhà ngơn ngữ đồng tình là một vấn
đề hết sức khó khăn. Để nhận diện từ tiếng Việt, trong luận văn này chúng tôi chọn
quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý
nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền” [21;
69]. Quan niệm này cũng gần với quan niệm của hai tác giả M. B. Emeneau và Cao

1

. Xem thêm: Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.


13
Xuân Hạo. M. B. Emeneau coi mỗi từ là một âm tiết, một chữ tách rời nhau. Vì vậy,
người ta xác định một từ dễ dàng [21; 9].
Trong tiếng Việt, bên cạnh từ, các nhà Việt ngữ học cũng cho rằng ngữ cố định là
đơn vị tương đương với từ. “Ngữ cố định tiếng Việt cũng giống như từ là những đơn vị
tồn tại hiển nhiên có sẵn, được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử – xã
hội – ngôn ngữ. Ngữ cố định thường gồm một tập hợp các từ kết hợp với nhau theo một
kết cấu tương đối vững chắc, ổn định, bất biến, khó tách rời, ln có ý nghĩa hồn
chỉnh, dùng để tái hiện trong lời nói và gọi tên, biểu thị sự vật, hiện tượng, khái niệm
như các từ” [49; 325], ví dụ: cứng đầu cứng cổ, đầu voi đuôi chuột, ba hoa thiên tướng,
ba chìm bảy nổi, ba cọc ba đồng, chờ hết nước hết cái, nợ như chúa Chổm, kẻ Tấn
người Tần, nhà tranh vách đất, nuôi ong tay áo, vắt cổ chày ra nước, nói trộm vía, nói
một cách khác, như trên đã nói, coi như là,...

Chẳng hạn, chỉ với mấy từ ngữ ngắn gọn, hình ảnh đơn giản, các thành ngữ “ăn
cháo đá bát” hay “qua cầu rút ván”, “qua sơng đấm bịi vào sóng”,... đã thể hiện ý
nghĩa hàm ẩn chỉ những kẻ vô ơn, bội bạc, ăn ở khơng có trước sau, đối xử tệ với
người đã cưu mang, giúp đỡ mình.
Ngữ cố định là một loại đơn vị từ vựng tương đương với từ bởi nhiều lí do sau
đây: Một là trong vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ, nhất là với lối tư duy cụ thể của
người Việt, loại đơn vị ngữ cố định (thành ngữ, quán ngữ) chiếm một tỉ lệ không nhỏ.
Hai là ngữ cố định cũng mang tính chất sẵn có, tính hồn chỉnh về nghĩa (ở những mức
độ khác nhau), tính cố định, tính bắt buộc, tính xã hội,... giống như từ. Ba là ngữ cố
định cũng có khả năng tái hiện trong ngơn ngữ và trong lời nói, được hệ thống hoá
trong các từ điển giống như đơn vị có sẵn – đơn vị từ. Bốn là về mặt ngữ nghĩa, ngữ cố
định cũng biểu thị hiện thực khách quan, phản ánh thực tế khách quan giống như từ.
Năm là về mặt ngữ pháp, ngữ cố định có thể thay thế cho một từ hoặc có thể kết hợp
với từ để tạo câu hoặc chức năng đóng vai trị thành phần câu. Sáu là ngữ cố định cũng
là cơ sở để cấu tạo nên từ mới giống như từ.
Sự giống nhau cơ bản nhất về chức năng của từ và ngữ cố định là chức năng tạo
nên câu. Chức năng đóng vai trị là thành phần câu của chúng giống như từ, chúng có
thể thay thế cho một từ hoặc có thể kết hợp với từ để tạo câu.
Ví dụ: Từ “may mắn” trong câu: “Tôi thành công chỉ là do may mắn thơi ấy mà!”
– có thể thay bằng: “Tôi thành công chỉ là do ăn mày vớ được chiếu manh thôi ấy mà!”


14
Chúng tơi đồng tình quan điểm của các tác giả cho rằng ngữ cố định cũng là một
loại đơn vị từ vựng tương đương với từ. Từ vựng tiếng Việt là tập hợp các từ và các
ngữ tương đương với từ. Do đó, trong luận văn này, chúng tơi xem xét từ kiêng kị,
uyển ngữ với tinh thần như vậy.

1.2. TỪ KIÊNG KỊ
1.2.1. Khái niệm

Từ kiêng kị còn được gọi là từ cấm kị (taboo word). Theo Stephen Ullmann,
taboo nguyên là một từ của tiếng Tongan, một dân tộc ở Polynesia, có nghĩa là điều
kiêng kị (điều cấm kị).
Kiêng trong tiếng Việt có từ nguyên là “kinh” (tiếng Hán), được du nhập vào
nước ta từ thời kỳ Cổ Hán Việt. Để chỉ ý “tránh, kiêng tránh”, tiếng Hán dùng các từ
“kị”, “tị”. Cũng cần lưu ý một sắc thái nghĩa là từ kiêng trong tiếng Việt hầu như chỉ
dùng để chỉ những kiêng tránh cụ thể (như kiêng thịt, kiêng rượu,...) cịn muốn nói khái
qt, chỉmột tập tục, một khái niệm kiêng tránh nói chung thì cần phải dùng đến từ
ghép kiêng kị.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên), “kiêng”có nghĩa là: 1. Tự ngăn
cấm mình, tránh khơng ăn, khơng dùng những thức ăn nào đó, hoặc khơng làm việc
nào đó vì có hại. 2. Tránh điều gì, cái gì vì sợ có điều khơng hay, theo tơn giáo, tín
ngưỡng. 3. Tránh động chạm đến, vì nể sợ. “Kiêng kị” có nghĩa là kiêng (nói khái
quát; thường nói về phong tục, tín ngưỡng hoặc điều mê tín) hay nể sợ, giữ gìn (dùng
trong câu có ý phủ định) [48; 525].
Kiêng là sự dè chừng, cảnh giác của mọi người trong cộng đồng đối với những sự
vật, hiện tượng diễn ra trong cuộc sống. Kị cũng là sự tránh né, dè chừng nhưng được
diễn ra có ý thức cao hơn kiêng. Kị còn được hiểu là cấm kị – nghiêm cấm, không
được vi phạm. Nếu cố làm trái đi, con người sẽ phải gánh chịu những hậu quả. Thông
thường, những điều cần “kiêng” trong cuộc sống diễn ra nhiều và phổ biến hơn những
điều cần “kị”. Về mặt từ ngữ, có thể nhận ra sự khác nhau giữa từ “kiêng kị” và “cấm
kị”: kiêng kị có tính khun răn, chỉ dẫn cho hành vi của từng người trong cộng đồng;
cấm kị – cũng với những chỉ dẫn đó, nhưng được thực hiện trong điều kiện bắt buộc, có
tính pháp chế. Nói cách khác giữa kiêng kị và cấm kị có sự phân biệt: một bên nhấn


15
mạnh về phương diện đạo đức cộng đồng, một bên nhấn mạnh về phương diện pháp
luật.
Từ vựng là tập hợp các từ, là một tổ chức lớn, rất phức tạp nhưng cũng rất quy củ.

Trong mỗi hệ thống từ vựng đều có một lớp từ được coi là “thiêng liêng”, “thần bí”
hoặc “gây sốc”. Trong số những từ “thiêng liêng”, “thần bí”, có những từ liên quan đến
niềm tin tơn giáo, chỉ được giới tu hành, tăng lữ sử dụng trong những lễ nghi tôn giáo.
Những người khác sử dụng chúng một cách bất cẩn sẽ bị coi là có hành vi báng bổ
thánh thần. Do đó, chúng trở thành từ kiêng kị. Trong những từ “gây sốc” cho người
nghe có những từ liên quan đến những chủ đề mà mỗi cá nhân và xã hội khơng thích đề
cập đến. Chúng thường bị coi là “uế tạp”, “không lịch sự”. Chúng cũng trở thành từ
kiêng kị.
Từ kiêng kị là những từ, theo Stephen Ullmann, diễn tả nỗi sợ hãi, những cảm
xúc tinh tế hoặc những ý nghĩa mang tính khn phép. Trong xã hội phong kiến, vua
chúa đã thể hiện quyền lực của mình qua các định luật kiêng huý, từ đó hình thành
những từ kiêng h. Thêm nữa, người phương Đơng nói chung, người Việt Nam nói
riêng có truyền thống tơn kính tổ tiên, nên tên của tổ tiên đều được kị húy. Con cháu
không được gọi tên người lớn, cũng như tên tục của họ. Tên con cháu gần giống hay có
chữ đồng âm với tên người lớn cũng đều phải tránh, nếu không sẽ bị cho là bất kính.
Những từ kiêng kị theo đó gồm có tên vua chúa, tên các vị thần, tên gọi các quan hệ họ
hàng, tên người chết,… Và theo Britton, từ kiêng kị với ý nghĩa tế nhị thường miêu tả
sự ám chỉ gián tiếp đến những chủ đề “khá nhạy cảm” như sự chết, bệnh tật hoặc sự
khiếm khuyết về mặt tinh thần hay thể chất. Trong cuộc sống, người ta cịn kiêng kị
nhắc đến những điều khơng may mắn, khơng được như ý muốn. Một cách khái quát,
đây là những từ mang nghĩa tiêu cực (theo một góc nhìn nào đó)2.
Như vậy, “Những từ cấm kị (kiêng kị) là những từ mà khi dùng sẽ bị coi là “xúc
phạm”, “sỉ nhục” hoặc “vơ lễ” vì chúng đã đề cập đến những vấn đề cấm kị (kiêng
kị)” [12; 42]. Những từ này trước đây thậm chí cịn khơng được thơng báo công khai
bằng văn bản rõ ràng, mà phải in dưới dạng tắt, dạng rút gọn.

2

. Xem thêm: Nguyễn Đức Dân (2005), “Từ cấm kị và uyển ngữ”, Một số vấn đề về phương ngữ xã hội, Nxb KHXH.



16

1.2.2. Đặc điểm
Từ ngữ kiêng kị xuất phát từ tâm lí sợ hãi của con người trước những hiện tượng
tự nhiên, xã hội. Kiêng kị ngôn ngữ thực chất gồm hai mặt: một mặt là bái vật giáo
ngôn ngữ, mặt khác là các từ ngữ chỉ tên gọi, hành động kiêng kị. Vào thời kì đầu, khi
khoa học chưa phát triển, con người luôn cho rằng bệnh tật hay những thiên tai tự
nhiên là sự trừng phạt của trời đất đối với con người, hoặc cho rằng đó là hiện thân của
ma quỷ. Vì thế, khi nhắc đến những sự vật, hiện tượng này, con người luôn tránh,
không dám trực tiếp nói đến. Qua thời gian, nhận thức của con người ngày càng được
nâng cao nhưng từ ngữ kiêng kị vẫn tồn tại.
Chúng ta có thể thấy rằng, đằng sau mỗi việc kiêng kị đều có những nỗi lo âu, sợ
hãi rủi ro, tai hoạ xảy ra. Mà con người tin là có thể qua khỏi được bằng cách kiêng kị.
Chẳng hạn: đêm 30 Tết kiêng đi ra ngoài đường vì sợ gặp ma quỷ, kiêng quét nhà ngày
mồng một Tết vì sợ quanh năm động thổ,... Nhưng khơng phải tất cả những gì lo âu, sợ
hãi đều là đối tượng của khái niệm kiêng kị. Ví dụ: tục kiêng đi biển vì sợ có giơng
bão, tục ni tằm kiêng gió tây,... có ý nghĩa khơng hồn tồn giống với các điều kiêng
kị khác, như: kiêng ăn chân gà vì sợ viết run tay, đi buôn bán kiêng ăn cơm khê vì sợ
khơng may,... Ở hai tục kiêng kị trên, chúng ta nhận ra tính lơgic giữa ngun nhân và
hành động kiêng kị. Cịn hai tục kiêng kị sau thì khơng thể giải thích được ngun do.
Như Lévy Bruhl viết rằng: “Cấm kị là dấu hiệu của cách xử thế cổ lỗ khơng duy lí,
một kiểu tư duy “tiền lơ-gich” (prélohique)”3.
Như vậy, lí do xuất hiện điều kiêng kị, từ kiêng kị nhiều khi không rõ ràng. Ở một
số ngôn ngữ, giữa những từ đồng nghĩa, những từ nào được tầng lớp trên sử dụng
thường được coi là “văn hoá”, “đẹp đẽ”, còn những từ nào được tầng lớp dưới sử dụng
thì bị coi là “hạ đẳng”, “bẩn thỉu”, “tục tĩu”. Như trong tiếng Anh, người ta khơng tìm
ra được bất cứ một lí do gì để giải thích tại sao những người nói “defecate” (bài tiết) là
bình thường, lịch sự, cịn những người nói “shit” (đi đại tiện) lại bị cho là những người
thơ bỉ. Phan Kế Bính từng viết: “Xem các sự kiêng kị của ta thật lắm sự nực cười,

khơng có nghĩa lí gì, mà tục cứ thấy kiêng thì kiêng chứ khơng ai hiểu bởi cớ làm sao
cả” [2; 362 – 366]. Quả thật, những tập tục kiêng kị đơi khi có một cái gì đó khó hiểu
3

. Dẫn theo Daniel de Coppet, “Taboo”, trong Encyclopaedia Universalis, corpus, T.21, Paris, 1990, tr.1090.


17
mà tư duy con người khơng tìm thấy lí do có tính lơgic. Bởi bản thân khái niệm kiêng
kị là một phong tục có tính cộng đồng, ảnh hưởng từ nhiều yếu tố niềm tin, tơn giáo,
văn hố.
Thế giới ln tồn tại nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo khác nhau. Vì thế, có từ ở dân
tộc này, tơn giáo này thì bị kiêng kị nhưng ở dân tộc khác, tơn giáo khác thì lại khơng.
Những từ kiêng kị cịn liên quan đến tình huống giao tiếp, phụ thuộc vào hồn cảnh
giao tiếp. Đồng thời có những từ là kiêng kị đối với những người này nhưng lại không
là kiêng kị đối với những người khác. Chẳng hạn, với người Anh, “bloody” (vấy máu,
dính máu) là một từ cấm kị vì nó vốn được dùng để chỉ máu của chúa Giêsu. Với
những người thuộc tầng lớp trên, đây là một từ “khủng khiếp”, ngang hàng với các từ
“ghê tởm” và thường được in trên báo ở dạng tắt “b–y”. Nhưng nó lại là từ cửa miệng
của những người thuộc tầng lớp dưới.
Có nhiều kiêng kị ngày nay đã trở nên lỗi thời. Một số người khơng tin, gọi đó là
mê tín, dị đoan nhưng trong hồn cảnh nào đó, họ vẫn ... kiêng kị. Họ kiêng kị thậm chí
chỉ để vui đùa, hoặc có thể do tâm lí bị ám ảnh, giằng co nếu khơng kiêng kị, cho nên
thơi thì “có kiêng, có lành”.
Có thể khẳng định rằng kiêng kị là một hình thức tự vệ, nhất là đối với những vấn
đề con người không mong muốn xảy ra, không lường trước được. Một sự kiêng kị
được truyền lại bằng kinh nghiệm, thói quen và bao hàm lợi ích cho chính mỗi cá nhân.
Đó được xem như là một sự hạn chế tự nguyện trong chính tự do của mỗi người vì sợ
hậu quả khơng hay từ lời nói, việc làm, cách hành xử của mình. Trong cuộc sống, con
người khó tránh khỏi việc chạm đến những vấn đề kiêng kị như thế. Nhưng khơng thể

trực tiếp nói thẳng vì sẽ đem lại nhiều phiền phức khơng đáng có cho bản thân, đối
phương tham gia giao tiếp. Khi đó, uyển ngữ xuất hiện.


18
1.3. UYỂN NGỮ
1.3.1. Khái niệm
Uyển ngữ còn được gọi là “khinh từ” (nói nhẹ), “nói giảm nói tránh”, “nhã dụ”,
“nói trại”,… tùy theo quan điểm, góc độ nghiên cứu của mỗi tác giả.
Thuật ngữ “euphemism” (uyển ngữ) trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Hi
Lạp “euphemismos” (nói cho tốt đẹp): “eu” là “tốt đẹp”, “pheme” là “nói năng”. Thuật
ngữ “uyển ngữ” trong tiếng Việt là một danh từ được cấu tạo theo kiểu ghép nghĩa từ
hai thành tố gốc Hán: “uyển” với hàm nghĩa là “uyển chuyển”, “ngữ” là “ngơn ngữ”
hay “lời nói”.
Các nhà nghiên cứu ln có nhiều cách định nghĩa một khái niệm, xuất phát từ
nhiều góc nhìn, nhiều cách tiếp cận khác nhau. Như khái niệm về từ hay các khái niệm
khoa học khác, uyển ngữ cũng có nhiều cách tiếp cận, nhiều khái niệm khác nhau:
1)

“Từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê (chủ biên) giải thích: “uyển ngữ là

phương thức nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm xúc phạm, làm
khó chịu”. Nói “qua đời” thay cho “chết” là dùng uyển ngữ [48; 1088].
2)

“Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học” giải thích như sau: “uyển ngữ

là phép chuyển nghĩa được thể hiện bằng việc biểu thị một sự vật hoặc hiện tượng nào
đó qua cách thể hiện kín đáo, gián tiếp, lịch sử, mềm mỏng”. Ví dụ: khơng đẹp thay cho
xấu, ơng ấy khơng cịn trẻ nữa thay cho ông ấy già rồi [72; 412].

3)

“Phong cách học tiếng Việt” (Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa) định

nghĩa như sau: “uyển ngữ là phương thức diễn đạt tế nhị trong hồn cảnh giao tiếp mà
người nói khơng tiện nói ra vì sợ q phũ phàng hoặc sợ xúc phạm đến người nghe”.
[33; 49]
4)

Nhà ngơn ngữ học Li Yuweithì đưa ra khái niệm: “Uyển ngữ là một cách

nói gián tiếp có tác dụng làm người nghe cảm thấy thích thú hoặc cảm thấy nhẹ nhàng
hơn để thay thế cách nói trực tiếp có thể làm người nghe khơng vui hoặc cách nói thiếu
sự tơn kính đối với người nghe” [46; 17].
5)

Trong An Introduction to Language, uyển ngữ được định nghĩa như sau: “A

euphemism is a word or phrase that replaces a taboo word or serves to avoid
frightening or unpleasant subjects” (uyển ngữ là một từ hay ngữ dùng để thay thế cho
từ cấm kị hoặc để tránh đi những chuyện gây sợ hãi hoặc không vui) [22; 74].


19
Dù được trình bày khác nhau nhưng các khái niệm cũng đã thể hiện sự tương
đồng trong quan điểm của các tác giả. Để tiện nghiên cứu, trong luận văn này, chúng
tơi chọn khái niệm sau làm cơ sở lí luận: “Uyển ngữ là cách dùng một từ, một nhóm từ
theo lối nói gián tiếp, ít mang ý nghĩa trực tiếp và không diễn đạt một cách cụ thể điều
được nói tới. Đó là cách diễn đạt một sự vật, một sự việc nghe chói tai hoặc một điều
kiêng kị bằng những lời ít trần trụi hơn, “mềm” hơn, tạo ra cảm giác dễ nghe, dễ chịu

hơn” [12; 52].
Ví dụ: Người ta nói: xác chết của giặc – thi hài người chiến sĩ.
qua đời, từ trần thay cho chết.

1.3.2. Đặc điểm
Uyển ngữ nảy sinh từ hiện tượng kiêng kị. Nó xuất hiện khá muộn, chỉ khi ngôn
ngữ đã phát triển lên một trình độ nhất định, thốt khỏi trình độ sơ khai. Đến giai đoạn
này, ngôn ngữ không chỉ làm chức năng đơn thuần là gọi tên sự vật, hiện tượng mà cịn
có chức năng biểu đạt sự tinh tế của hành vi giao tiếp. Uyển ngữ là một phạm trù văn
hoá thẩm mĩ trong lịch sử tinh thần của nhân loại. Uyển ngữ phản ánh tín ngưỡng,
phong tục và văn chương nghệ thuật. Uyển ngữ còn xuất phát từ nhu cầu tâm lí của con
người. Trong giao tiếp con người ln muốn bảo vệ thể diện cho mình, ln muốn
được người khác tơn trọng và ngược lại. Vì vậy, khi giao tiếp con người thường dùng
uyển ngữ. Đó cũng chính là lí do vì sao uyển ngữ tồn tại và phát triển đến nay.
Q trình sử dụng ngơn ngữ trong giao tiếp của con người thường bao hàm cả
cảm xúc, tình cảm của bản thân người phát ngơn đối với người thụ ngôn. Các nhà tu từ
học cho rằng từ ngữ có ba cấp độ biểu thị sắc thái biểu cảm: âm tính, trung tính, dương
tính. Uyển ngữ chọn sắc thái biểu cảm dương tính.
Khi đề cập đến khái niệm “từ”, người ta thường nghĩ ngay đến khái niệm “nghĩa”.
“Nghĩa của từ” là khái niệm quan trọng trong ngôn ngữ học, nhưng cũng rất phức tạp,
gây tranh cãi khá nhiều từ các tác giả có quan điểm tiếp cận khác nhau. Theo cách hiểu
ở góc độ dụng học, một từ có khả năng mang bốn loại nghĩa: nghĩa từ vựng, nghĩa ngữ
pháp, nghĩa tu từ, nghĩa văn hoá. Uyển ngữ là khái niệm được vận dụng từ loại nghĩa tu
từ và nghĩa văn hố.
Nghĩa tu từ (có khi được gọi là nghĩa ngữ cảnh) là loại nghĩa vay mượn, có tính
lâm thời, giúp người sử dụng ngơn ngữ biểu đạt nội dung sinh động, uyển chuyển hơn.


20
Do đó, uyển ngữ tu từ ln mang dấu ấn sáng tạo của cá nhân, người vận dụng ngơn

ngữ. Nó mang tính nhất thời, cá biệt, khơng phổ biến, khơng mang tính xã hội. Hay nói
cách khác, nó là biểu hiện tài ăn nói (khẩu tài) của người nói.
Nghĩa văn hoá (hay hàm nghĩa văn hoá của từ) là loại nghĩa mà mọi người trong
xã hội suy rộng ra và gán thêm cho từ, dựa trên cơ sở nghĩa từ vựng. Bao gồm nghĩa so
sánh, nghĩa liên tưởng, nghĩa biểu cảm,... Nghĩa văn hố của từ ln gắn với bối cảnh
xã hội, đặc điểm tâm lí, phong tục tập quán của một dân tộc. Nhiều ngơn ngữ có cả một
lớp từ có hàm nghĩa văn hố, loại nghĩa này thường được đưa vào từ điển. Uyển ngữ
văn hoá là sản phẩm sáng tạo hoặc lựa chọn của nhiều người trong cộng đồng ngơn
ngữ. Nó mang bản sắc văn hố của một dân tộc và ln thể hiện triết lí nhân sinh của
dân tộc đó.
Uyển ngữ chính là lối nói trại đi, thay thế cách nói khác đi vì một lí do nào đó. Sự
thay thế ấy liên quan đến một hành vi trong hoạt động ngơn ngữ, đó là “liên tưởng”.
Khi sử dụng một từ nào đó, người ta quy chiếu giữa tên gọi sự vật với sự vật (nghĩa từ),
liên tưởng đến cái nội dung mà nó hàm chứa: một sự vật, một tính chất, một hành vi,
một trạng thái,... Và khi sử dụng uyển ngữ, người nói bao giờ cũng vận dụng đến
trường liên tưởng về khả năng thay thế đồng nghĩa giữa các từ. Từ đó, ta thấy uyển ngữ
có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng đồng nghĩa, từ vay mượn, các biện pháp tu
từ như: nói vịng, ẩn dụ, hốn dụ,...
Uyển ngữ với tư cách là hiện tượng ngôn ngữ, cũng sẽ thay đổi theo thời gian,
không gian, bối cảnh, phong cách giao tiếp.
* Phương thức tạo uyển ngữ:
Uyển ngữ được tạo nên bởi nhiều phương thức. Có phương thức có mặt ở nhiều
ngơn ngữ, nhưng cũng có những phương thức chỉ có ở ngơn ngữ này mà khơng có ở
ngơn ngữ khác. Do sự chi phối bởi đặc điểm loại hình ngơn ngữ và đặc trưng văn hoá –
xã hội của mỗi dân tộc.Trong tiếng Việt, uyển ngữ được cấu tạo chủ yếu thông qua
việc tác động làm biến đổi, thay thế từ ngữ gốc/ từ ngữ cần kiêng tránh ở ba bình diện:
ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp.
(1) Phương thức về ngữ âm:
- Tỉnh lược âm, viết tắt: lược bỏ một số âm vị trong thành phần cấu tạo âm tiết.
Khi cần tránh thể hiện ra thành lời, thành chữ những từ cấm kị, biện pháp đơn giản

nhất là viết tắt các từ cấm kị: “con c.”, “đ. m”,... hay trong tiếng Anh “b–y” (bloody),


21
“JC” (Jesus Christ), “m. d” “mentally deficient” (ngu đần), “e. s. n” (educationally
subnormal” (kém thông minh),... Người tiếp nhận văn bản chỉ “đọc nhìn” mà khơng
“đọc thành tiếng” những từ viết tắt đó nên “đỡ tục”, “đỡ xúc phạm” hơn.
Ví dụ: (Người bị) H là viết tắt của (người nhiễm) HIV, đ. viết tắt của đéo, c. viết
tắt của cứt,...
- Mô phỏng âm: mô phỏng âm thanh của sự vật, hiện tượng cần biểu đạt.
Ví dụ: “rúc rích” thay cho “ái ân vợ chồng”, tè thay cho đái, ị thay cho ỉa (hai
trường hợp này thường gặp trong ngôn ngữ giao tiếp với/ của trẻ em),...
- Đọc chệch âm: Do việc kiêng tên vua chúa, những người trong hoàng tộc mà
nhiều từ ngữ đã được nói trại đi (đọc chệch âm) và trở thành những biến thể của chúng.
Tục kiêng tên là một nguyên nhân làm từ ngữ trong một ngơn ngữ biến đổi nhanh
chóng.
Ví dụ: hồng  huỳnh, phúc  phước, cảnh  kiểng, quý  quới, hoa  huê,
vũ  võ,...
Hay trong tiếng Anh, “Cripes” thay cho “Christ” (chúa Kitô), “heck” được đọc
chệch từ “hell” (đồ chết tiệt), “darn” được đọc chệch từ “damn”,.. Hay trong tiếng
Trung Quốc, người ta thường dùng từ “đồng âm” để “nói tránh” những từ mà họ cho
rằng nó sẽ mang đến điều không may hay khiến họ liên tưởng đến những điều không
hay trong cuộc sống, như thâu (thua), quang (hết sạch), tản (rời rạc), li (phân li), trầm
(chìm),... Uyển ngữ đồng âm cầu mong may mắn, như dư (thừa, sung túc), hỉ (niềm
vui), giai (cùng nhau),...
- Láy: lặp lại một phần hoặc tồn bộ âm của một từ nào đó. Phổ biến trong tình
huống mà người nói muốn giảm sắc thái “sự thật phũ phàng” mang lại từ từ gốc.
Ví dụ: beo béo thay cho “béo”, thâm thấp thay cho “thấp”,…
(2) Phương thức về ngữ nghĩa
- Uyển ngữ được cấu tạo bằng cáchdùng từ ngữ gần nghĩa, đồng nghĩa:

Ví dụ: đậm đà thay cho (người) “béo”, thay cho (vị thức ăn) “mặn”, (gia cảnh)
tiềm tiệm thay cho “nghèo”, từ trần thay cho “chết”,…
- Dùng từ Hán – Việt: Trong các ngữ cảnh trang trọng, nghiêm túc, khoa học, các
từ thuần Việt giản dị, đời thường sẽ được thay thế bởi các từ Hán – Việt, bởi chúng
thường mang sắc thái trang trọng, hàm súc hơn.
Ví dụ: “đái”  tiểu tiện, “chết”  viên tịch, “quần áo lót”  nội y,…


22
- Dùng từ vay mượn: mượn từ tiếng nước ngoài. Vì các từ ngoại lai ít gây ra
những liên tưởng xấu, thơ lậu.
Ví dụ: “quan hệ tình dục”  sex, “khỏa thân”  nude, “nhà vệ sinh”  WC,...
- Dùng cách chuyển nghĩa từ: ẩn dụ, hốn dụ: Những gì mà con người không
muốn đề cập đến một cách trực tiếp, họtìm cách che đậy đi bằng những biện pháp
chuyển nghĩa, hình thành nên uyển ngữ.
Ví dụ: Ẩn dụ: “chết”  mất, “dương vật”  chim,…
Hoán dụ: “chết”  tắt thở, nhắm mắt, “quan hệ tình dục”  lên giường,
“vú”  ngực,…
* Dùng biểu thức ngôn ngữ dài hơn, với nhiều chữ cái và âm tiết hơn từ gốc mà ta
tạm gọi là nói vịng.
Ví dụ: “thấp”  chiều cao khiêm tốn, “yếu kém”  năng lực có hạn, “chết”
khơng còn trên đời này nữa,…
Như trong tiếng Anh: solid human waste (rác thải rắn từ người) thay cho “feces”
(phân), a little girl’s room (phịng của cơ gái bé nhỏ) thay cho “toilet” (nhà vệ sinh),…
(3) Phương thức về ngữ pháp
- Dùng trợ từ phủ định: không, không được, chưa, nhằm giảm đi sự tác động trực
tiếp của từ kiêng tránh, giữ thể diện cho người tham gia giao tiếp.
Mơ hình: “Khơng + (được) + tính từ + (cho) + lắm”
Ví dụ: Anh ấy hát dở lắm  Anh ấy hát khơng được hay cho lắm.
- Dùng đại từ: ấy, đó, nhằm tạo sự mơ hồ, tránh trực diện.

Ví dụ: dương vật/ âm vật  “cái ấy”, “cái đó”, quan hệ tình dục  “chuyện ấy”
(thường được đặt trong dấu ngoặc kép),…
Uyển ngữ mang tính cố định, cịn uyển cú thì không. Uyển ngữ được lặp lại mà
không bị coi là sáo mòn, trong khi uyển cú là sáng tạo riêng của từng nhà văn, nhà thơ.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát uyển ngữ là một từ, ngữ, nhưng cũng
xin giới thiệu trong thực tế còn loại hình uyển ngữ là một câu, được gọi là uyển cú.
“Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang.
Sầu đã chín, xin người thơi hãy hái!
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường”.
(Lửa thiêng – Huy Cận)


23
Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ và xã hội, uyển ngữ cũng có những phát
triển và thay đổi nhất định. Thuộc về ngơn ngữ, uyển ngữ cũng có những đặc trưng
thay đổi theo thời gian, không gian, theo bối cảnh, tình huống giao tiếp.
Uyển ngữ là một vấn đề thuộc ngơn ngữ học xã hội, có mặt ở hầu hết các ngôn
ngữ. Dân tộc nào cũng dùng uyển ngữ. Uyển ngữ liên quan đến văn hoá, phong tục tập
quán và tôn giáo của một dân tộc. Trong hoạt động giao tiếp, uyển ngữ liên quan chặt
chẽ với phép lịch sự và những điều kiêng huý, cấm kị. Uyển ngữ tận dụng cái đẹp của
ngôn ngữ, là cách sử dụng ngơn ngữ có tính nghệ thuật. Cách thức “mĩ hoá” từ ngữ
như vậy được xem là một trong những nội dung của biện pháp uyển ngữ. Nhìn chung,
uyển ngữ mang hai đặc tính cơ bản là đề cao những vấn đề đáng trân trọng trong cuộc
sống và giảm bớt, làm nhẹ đi những gì cảm thấy khó chịu, gây lúng túng và sợ hãi.

1.3.3. Phân biệt uyển ngữ với nhã ngữ, biệt ngữ, tiếng lóng
Nhã ngữ, theo Đinh Trọng Lạc, “là một biến thể của uyển ngữ, trong đó những
từ ngữ nhã nhặn, lịch sự được dùng để thay thế những từ ngữ thơ lỗ, khó nghe, khơng
đúng mực” [32; 72]. Như vậy, theo tác giả, uyển ngữ và nhã ngữ thực chất là hai biến

thể của một kiểu nói năng. Theo chúng tơi, nhã ngữ cũng được xem là uyển ngữ trong
nhiều trường hợp, tuy nhiên nghiêm ngặt mà nói thì nhã ngữ có nghĩa hẹp hơn. Nhã
ngữ thực chất là chuyển một lối nói có tính thơ tục, thiếu tính văn hố sang một lối nói
mang tính lịch sự, có tính văn hố để người nghe, người đọc thuận tai, thuận mắt hơn.
Còn uyển ngữ là cách nói bóng bẩy, trau chuốt nhằm phản ánh sự vật, hiện tượng một
cách sinh động để đánh thức khả năng liên tưởng của người nghe. Nó khơng chỉ
chuyển một lối nói có tính thơ tục sang một lối nói mang tính lịch sự, nhã nhặn, văn
hố, mà cịn là sự thay thế những lời khơng tiện nói ra vì kiêng kị hoặc sợ xúc phạm,
gây tổn thương đến người khác….
Chúng ta so sánh:
(a)

Nó đang đi ỉa.

(b)

Nó đang đi vệ sinh.

Trong hai ví dụ trên, trường hợp (a) là cách nói dân dã, thơ tục, (b) là cách nói
dùng nhã ngữ.
(c) Thằng bé Nam hôm nay bệnh rồi.
(d) Thằng bé Nam hôm nay nhác chơi rồi.


×