VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ TRANG
SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
NHÌN TỪ PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 62 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHAN TRỌNG THƯỞNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chính xác cao nhất có thể. Các tài liệu
tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng, minh bạch.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả
Vũ Thị Trang
MỤC LỤC
MỤC LỤC
ii
1.1Tình hình nghiên cứu và tiếp nhận phê bình phân tâm học......................6
Năm 2011 giáo sư Shaun Kingsley Malarney - một giáo sư nhân chủng học của Viện
Đại học Công giáo Quốc tế Tokyo đã dịch và giới thiệu cuốn Lục xì của
Vũ Trọng Phụng với độc giả thế giới Luc Xi: Prostitution and Venereal
Disease in Colonial Hanoi (Lục Xì: Mại dâm và bệnh hoa liễu ở Hà Nội
thời thực dân). Cuốn sách góp phần giới thiệu Vũ Trọng Phụng đến bạn
đọc quốc tế và tái hiện hiện thực Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
.........................................................................................................21
Chương 2 BA KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC........................42
2.1 Phê bình phân tâm học tiểu sử...............................................................43
2.1.1 Người đặt nền móng cho phê bình phân tâm học tiểu sử - Sigmund Freud44
2.1.2 Một số nhà phê bình phân tâm học tiểu sử tiêu biểu................................48
2.2 Phê bình phân tâm học văn bản.............................................................53
2.2.1 Lý thuyết phê bình siêu mẫu của Jung.....................................................53
2.2.2 Một số nhà phê bình phân tâm học văn bản tiêu biểu...............................58
2.3 Phê bình phân tâm học người đọc.........................................................62
3.1 Những xung đột vô thức ở Vũ Trọng Phụng.........................................78
3.1.1 Không gian cư ngụ và ký thức ấu thơ.......................................................78
3.1.2 Chấn thương tâm lý ấu thời......................................................................89
3.2 Mặc cảm tự tôn và xung đột cái Tôi......................................................93
3.2.1 Mặc cảm tự tôn ở Vũ Trọng Phụng..........................................................93
3.2.2 Sự xung đột giữa ý thức và vô thức..........................................................99
Chương 4 CÁC ÁM ẢNH NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG..........................................................................................103
4.1 Ám ảnh tính dục..................................................................................104
4.1.1 Tính dục là yếu tố cấu thành bản thể......................................................106
4.1.2 Vai trị của tính dục trong xây dựng nhân vật và cốt truyện....................113
4.2 Ám ảnh tâm linh..................................................................................123
4.2.1 Niềm tin vào thế giới tâm linh................................................................125
4.2.2 Sự nhạo báng đối với thế giới tâm linh..................................................129
4.3 Ám ảnh đám đông...............................................................................134
4.3.1 Đám đông nông thôn..............................................................................135
4.3.2 Đám đông thị dân...................................................................................139
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN.....................................................................................152
1.Vũ Thị Trang (2012), Tính dục trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng nhìn từ Phân tâm
học, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Khoa học xã hội............152
2.Vũ Thị Trang (2013), Bản chất tính dục theo quan điểm phân tâm học, Đề tài khoa
học cấp cơ sở, Học viện Khoa học xã hội......................................152
3.Vũ Thị Trang (2014), Phương thức khai thác và nghệ thuật thể hiện tính dục trong
sáng tác của Vũ Trọng Phụng (nhìn từ phân tâm học), Đề tài khoa học
cấp cơ sở, Học viện Khoa học xã hội.............................................152
4.Vũ Thị Trang (2015), Tâm lý đám đơng trong việc xây dựng hình tượng Xn Tóc
Đỏ, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Khoa học xã hội............152
5.Vũ Thị Trang (2015), Ba hệ hình phê bình phân tâm học, Tạp chí Nhân lực khoa học
xã hội, số 04 (23), tr.49-59.............................................................152
6.Vũ Thị Trang (2015), Tâm lý sáng tác Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn phân tâm học,
Tạp chí Lý luận phê bình, số 36, tr.51-59.......................................152
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phân tâm học (Psychanalyse) được sáng lập bởi Sigmund Freud là một thuật
ngữ đã trở nên quen thuộc với giới nghiên cứu khoa học. Dù trên thế giới vẫn còn
nhiều tranh cãi về ý nghĩa cũng như nội hàm của học thuyết này, nhưng khơng thể
phủ nhận nó bao trùm ảnh hưởng lên hầu hết các ngành khoa học xã hội, đặc biệt là
văn học nghệ thuật. Ở Việt Nam, từ những năm ba mươi của thế kỉ XX, các nhà
nghiên cứu như Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu… đã rất quan tâm đến phân tâm
học và ứng dụng vào một số cơng trình phê bình văn học. Sau này, các cơng trình
nghiên cứu của Đàm Quang Thiện, Đỗ Long Vân, Đỗ Lai Thúy đã góp phần khơng
nhỏ trong việc giới thiệu một cách hệ thống, bao quát về phân tâm học và thể hiện
sự ứng dụng khéo léo trong các cơng trình phê bình của mình, tạo ra xu hướng phê
bình phân tâm học ở Việt Nam.
Phê bình phân tâm (Psychoanalysis critisim) là trường phái phê bình dựa
trên những nền tảng lý luận của học thuyết Freud để tiếp cận văn bản, tác giả, và
q trình tiếp nhận, cho phép khám phá những góc độ nguyên thủy và nhân bản
nhất của tác phẩm văn học. Mặc dù trên thế giới, phương pháp phê bình này đã
thịnh hành từ những năm đầu thế kỉ XX. Sức ảnh hưởng của nó đối với phê bình
văn học phương Tây đương thời là rất lớn. Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều cơng
trình ứng dụng phân tâm học trong phê bình văn học. Tuy nhiên, việc xác lập nội
hàm cụ thể về phê bình phân tâm học vẫn chưa được định hình. Mỗi khi nhắc
đến phê bình phân tâm học, người ta vẫn chỉ nghĩ đến việc khám phá xung quanh
phạm trù tính dục với cơng thức phê bình dồn nén - ẩn ức – thăng hoa được
Nguyễn Văn Hanh sử dụng trong cơng trình nghiên cứu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương
từ những năm đầu thế kỉ XX. Các cơng trình của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã
và đang cố gắng xác lập một cái nhìn tồn diện hơn về phê bình phân tâm học,
nhưng vẫn cần nhiều hơn nữa các cơng trình khoa học về vấn đề này.
Phê bình phân tâm học trên thế giới phát triển với nhiều khuynh hướng khác
nhau. Ở cả ba góc độ tác giả, văn bản và người đọc, trường phái này đều thể hiện
được vai trò và sức ảnh hưởng. Phê bình phân tâm học tuy phát triển trên thế giới,
1
song q trình vận dụng nó ở Việt Nam vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nhìn
nhận, đánh giá. Đây chính là động lực nghiên cứu để chúng tơi triển khai đề tài.
Tính đến thời điểm này, Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn Việt
Nam được đánh giá là xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán. Trong
nền văn học Việt Nam, ông cũng được đánh giá là một trong những hiện tượng văn
học phức tạp bậc nhất. Vì thế mà sáng tác của Vũ Trọng Phụng đã có rất nhiều cơng
trình khảo sát, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau từ thể loại, thi pháp, nhân vật, thế
giới nghệ thuật, vấn đề tư tưởng… Tuy nhiên, chưa có một cơng trình độc lập nào
nghiên cứu chuyên sâu về Vũ Trọng Phụng tiếp cận từ phê bình phân tâm học. Sử
dụng cách tiếp cận này tạo ra cái nhìn mới trong việc tìm kiếm giá trị thẩm mỹ cũng
như nhìn thấu thế giới tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Với đề tài Sáng tác của Vũ Trọng Phụng nhìn từ Phê bình phân tâm học,
chúng tôi cố gắng xác lập một cái nhìn hệ thống về phê bình phân tâm. Từ đó sử
dụng các lý thuyết phê bình này để chỉ ra các ám ảnh nghệ thuật tiêu biểu trong tác
phẩm, đồng thời mở ra cách tiếp cận mới và hệ thống về thế giới nghệ thuật cũng
như thế giới tinh thần phức tạp của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1 Cơ sở lý thuyết
Cho đến nay, phê bình phân tâm học vẫn đang trong quá trình phát triển với
nhiều hướng nghiên cứu khác nhau như nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học tộc
người (G.Devereux), phân tâm học và thiền (E.Fromm), phân tâm học và folklore
(V.Dundes) đến các nghiên cứu về chủ đề (C.Mauron, G.Bachelard), nghiên cứu tác
giả (M.Bonapart, J.Delay, J.Bellemin-Noel), kết hợp phân tâm học với chủ nghĩa
cấu trúc, nghiên cứu vô thức văn bản (Lacan), nghiên cứu về người đọc
(N.Holland),… Thậm chí, cịn xuất hiện nhiều trường phái phê bình trái ngược với
những nội dung khởi thủy của phân tâm học như Phê bình nữ quyền (feminist
criticism); Phân tâm học hiện sinh (psychanalise existentielle)…
Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng thể hiện trong luận án của mình các tiền đề
hình thành, nền tảng triết học của học thuyết phân tâm và xác lập cái nhìn bao quát
2
nhất về phê bình phân tâm học. Theo đó, phê bình phân tâm được chúng tơi phân
chia thành ba khuynh hướng: phê bình phân tâm học tiểu sử, phê bình phân tâm học
văn bản và phê bình phân tâm học người đọc. Ở mỗi khuynh hướng cụ thể, chúng
tôi cố gắng đưa ra những đại diện tiêu biểu nhất, phù hợp với đối tượng nghiên cứu
của luận án.
Chúng tôi không lựa chọn một phương pháp phê bình phân tâm nào cụ thể mà sẽ
vận dụng các thao tác một cách đa dạng và linh hoạt vào quá trình nghiên cứu sáng tác
Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không dùng sáng tác Vũ Trọng Phụng như một
công cụ minh họa cho lý thuyết mà sẽ đặc biệt lưu ý những đặc thù riêng trong sáng tác
của ông cũng như đặc điểm phơng nền văn hóa Việt Nam.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi phối hợp nhiều phương pháp trong quá trình nghiên cứu để tạo nên
hiệu quả cao nhất, trong đó chủ yếu là các phương pháp:
- Phương pháp loại hình – lịch sử: khảo sát sự hình thành vận động và phát
triển của phân tâm học, những đặc trưng của các phương pháp phê bình phân tâm cổ
điển và hiện đại.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: nghiên cứu xuyên suốt các phương pháp
phê bình phân tâm học từ cổ điển đến hiện đại. Các sáng tác của Vũ Trọng Phụng
cũng được khảo sát bằng phương pháp này.
- Phương pháp văn hóa – lịch sử: dùng để khảo sát quá trình hình thành phân
tâm học và phê bình phân tâm học (điều kiện xã hội, hoàn cảnh văn hóa, q trình
phát triển…) và nghiên cứu những đặc trưng của văn hóa, xã hội, lịch sử trong sáng
tác Vũ Trọng Phụng.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử dụng kết hợp các phương pháp của
các ngành tâm lý học, triết học, tôn giáo… để tiến hành khảo sát và nghiên cứu các
sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
- Phương pháp phê bình phân tâm học: sử dụng các thủ pháp đặc thù của phê
bình phân tâm học như: xếp chồng văn bản, phân tích chủ đề, ẩn dụ ám ảnh, phê
bình cổ mẫu, phê bình văn hóa… để khảo sát văn bản. Ngồi ra chúng tơi sử dụng
các thao tác nghiên cứu kết hợp: thống kê, so sánh, đối chiếu…
3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án lấy đối tượng nghiên cứu đầu tiên là các lý thuyết phê bình phân tâm
học (từ cổ điển đến hiện đại). Tuy nhiên, do dung lượng của một luận án tiến sĩ nên
chúng tôi chỉ lựa chọn những đại diện tiêu biểu nhất để dẫn chứng cho mỗi luận
điểm của mình. Đối tượng nghiên cứu thứ hai là bộ phận chủ yếu các sáng tác của
Vũ Trọng Phụng. Hai đối tượng này quan hệ biện chứng và soi tỏ nhau để chứng
minh vấn đề mà luận án chúng tơi đặt ra.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp và đa dạng của các phương pháp phê bình phân tâm nên
khó có thể đi vào chi tiết. Vì vậy, chúng tơi giới hạn nghiên cứu phê bình phân tâm
học đối với một số phương pháp nổi bật, đại diện cho từng khuynh hướng cụ thể.
Đồng thời các phương pháp phê bình được luận án chú trọng cũng tương thích với
đối tượng thứ hai là sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
Việc giới hạn nghiên cứu với sáng tác của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi tập trung
khảo sát ở những thể loại và tác phẩm có nhiều dữ kiện phân tâm nhất. Vì tính phức tạp
và phong phú của các phương pháp phê bình phân tâm học sẽ khiến cho việc nghiên
cứu sáng tác Vũ Trọng Phụng dễ trở thành minh họa, vì vậy chúng tơi tập trung khai
thác khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử và phê bình phân tâm học văn bản
để làm nổi bật vấn đề. Trong phạm vi luận án, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp
phê bình của Charles Mauron (psychocritique) để khảo sát văn bản và từ đó đối chiếu
với tiểu sử tác giả. Phương pháp này sẽ làm nổi bật hệ thống các ám ảnh nghệ thuật
trong tác phẩm và soi chiếu thế giới tinh thần của nhà văn.
Đặc biệt, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu các sáng tác văn học nghệ thuật
của Vũ Trọng Phụng. Những bài luận, phê bình liên quan đến việc thể hiện tư tưởng
chính trị của Vũ Trọng Phụng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án
này.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Về mặt lý luận
4
Luận án nỗ lực thể hiện những vấn đề cơ bản nhất của học thuyết phân tâm
học và phác họa sự hình thành, phát triển của các phương pháp phê bình phân tâm
học tiêu biểu một cách lơgic, hệ thống. Luận án cũng cố gắng thể hiện những nội
dung chủ yếu về những phương pháp phê bình phân tâm học được đưa ra.
4.2 Về mặt thực tiễn
Khảo sát sáng tác Vũ Trọng Phụng dưới góc nhìn phê bình phân tâm học góp
thêm một góc tham chiếu mới, mong muốn tạo ra một cái nhìn mới mẻ và khoa học
về các sáng tác của nhà văn. Qua đó tìm hiểu thế giới tinh thần phức tạp ở Vũ Trọng
Phụng trong thế đối sánh với các sáng tác của ơng.
5. Đóng góp của luận án
Dựa trên những kết quả nghiên cứu về phê bình phân tâm học trong sáng tác
của Vũ Trọng Phụng, luận án đưa ra những nhận định đánh giá mới về sáng tác của
Vũ Trọng Phụng. Đồng thời luận án cũng chỉ ra những đặc điểm của phê bình phân
tâm học trên thế giới, qua đó nhìn nhận lại phân tâm học và phê bình phân tâm ở
Việt Nam. Từ đó góp phần tạo một cái nhìn tồn diện hơn về phê bình tâm tâm học
cũng như việc áp dụng vào nghiên cứu từng trường hợp cụ thể.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần danh mục Tài liệu tham khảo, Nội
dung luận án triển khai bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Ba khuynh hướng phê bình phân tâm học
Chương 3: Những động cơ vô thức sáng tạo của Vũ Trọng Phụng
Chương 4: Các ám ảnh nghệ thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng
5
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong chương Tổng quan, chúng tơi triển khai và trình bày tình hình nghiên
cứu theo hai chủ đề chính: một là tái hiện tình hình phát triển phê bình phân tâm
học trên thế giới và Việt Nam; hai là tình hình nghiên cứu sáng tác Vũ Trọng Phụng
(trong đó nhấn mạnh đến nghiên cứu ở Việt Nam là chủ yếu).
1.1 Tình hình nghiên cứu và tiếp nhận phê bình phân tâm học
1.1.1 Giới thiệu chung
Thuật ngữ Phân tâm học (psychanalyse) do Sigmund Freud đưa ra năm 1896
là tập hợp những lý thuyết và phương pháp tâm lý học có mục đích tìm hiểu những
mối quan hệ vô thức của con người qua tiến trình liên tưởng tự do để chữa trị một
số rối loạn nhiễu tâm (psychoneurotic disorders). Sigmund Freud sinh ngày 6 tháng
5 năm 1856 tại Moravie Tiệp Khắc. Cha của Sigmund Freud là Jacob Freud (18151896), một thương gia người Do Thái bn vải sợi, từng có hai đời vợ trước khi kết
hôn với mẹ của Sigmund Freud. Năm 1860 khi gia đình gần như bị phá sản, Jacob
Freud cùng gia đình dọn về Viên - nơi tập trung dân cư tứ xứ khắp mọi nơi. Thành
phố Viên thế kỉ XIX thực sự là một lò lửa chứa đựng những mâu thuẫn kinh tế, xã
hội, tư tưởng. Nơi đây tồn tại những thành kiến của một xã hội bảo thủ làm nảy sinh
thói đạo đức giả và nạn cùng khổ về ức chế tình dục. Trong khi ở các nước khác lúc
bấy giờ lại chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của phong trào chống đè nén tình dục và
xuất hiện các cơng trình nghiên cứu về bệnh tình dục, tình dục trẻ em và những ảnh
hưởng của những dồn nén tính dục đến sức khỏe tinh thần và thể chất con người.
Theo nhiều nguồn tài liệu thì Sigmund Freud thừa hưởng tính hài hước, thái
độ hồi nghi trước cuộc đời từ người cha và sự nhu nhược đa cảm từ người mẹ
[116]. Sigmund Freud là người rất yêu mẹ và sau này lớn lên, trong q trình nghiên
cứu, ơng đã tự phân tích mình và khám phá ra đồng thời sự ham muốn tính dục đối
với mẹ và tình cảm hai mặt của mình đối với cha. Trong suốt quãng thời gian thơ ấu
của mình, Sigmund Freud có nhiều ấn tượng thất vọng về người cha. Chính điều
này là mầm mống cho những nghiên cứu khoa học về sau của ông.
6
Từ nhỏ, Freud đã tỏ ra là người say mê văn học và có khiếu ngoại ngữ. Ngồi
hai cổ ngữ La tinh và Hy lạp, ơng cịn giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và học thêm tiếng
Ý, tiếng Tây Ban Nha. Từ lúc lên 8 tuổi ông đã mê đọc Shakespeare. Khi 17 tuổi
ông thi tú tài và phải dịch từ tiếng Hy Lạp 33 câu thơ vở kịch Oedipe làm vua của
Sophocle. Đây chính là kỉ niệm về sau giúp ông xây dựng mặc cảm Oedipe trong
học thuyết của mình. Năm 1896 một tình cảm lạ lùng xuất hiện trong giấc mơ về
người cha đã chết của Freud đánh dấu sự phát hiện mặc cảm Oedipe. Ơng tìm thấy
mình trong một hoàn cảnh tương tự như trong bi kịch của Sophocle năm xưa. Ông
đã rút ra kết luận đầu tiên: “Sự thích thú của chúng ta đối với văn chương và kịch
nghệ căn cứ vào sự kiện chúng ta nhìn nhận có một mối quan hệ giữa thân phận của
nhân vật và thân phận của chúng ta. Việc phát hiện ra mặc cảm Oedipe là thiết yếu
cho việc điều trị bệnh tâm thần” [116]. Chính những phát hiện, lý giải về vơ thức,
tính dục, giấc mơ, mặc cảm Oedipe… của Freud đã gây chú ý với các ngành khoa
học xã hội, trong đó có nghiên cứu văn học.
Trong một bức thư gửi cho Fliess năm 1897 trích trong Sự hình thành của
phân tâm học (La naissance de la psychanalyse), Freud nhắc đến vở bi kịch Oedipe
làm vua của Sophocle và lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ mặc cảm Oedipe. Tiếp theo
là tiểu luận về tác phẩm Người đàn bà làm thẩm phán của Meyer (1829) với những
phát hiện thú vị. Tám năm sau tiểu luận của Meyer, Freud bắt tay vào phê bình
truyện Gradiva của Jensen với tên gọi Hoang tưởng và giấc mơ trong truyện
Gradiva của Jensen (Délires et rêves dans la Gradiva de Jensen), trong đó ơng chỉ
ra những đặc điểm về người sáng tạo, huyễn tưởng, giấc mơ, biểu tượng... Sigmund
Freud tỏ ra càng ngày càng thích thú với phê bình văn học. Năm 1913, trong cuốn
Sự thích thú của Phân tâm học (L’intérêt de la Psychanalyse), Freud đã lý giải
nguyên nhân sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Cùng năm này, Freud viết một bài với
tựa đề Chủ đề ba cái tráp trong cuốn Tiểu luận về Phân tâm học ứng dụng (Essais
de psychanalyse appliquée), ứng dụng vào vở kịch Người lái buôn thành Venise của
Shakespeare. Năm 1914, trong cuốn Viết cho lịch sử của trào lưu Phân tâm học
(Pour l’histoire du movement psychanalytique), ông tiếp tục cho rằng phân tâm học
đã tiết lộ những đặc điểm của sự sáng tạo văn học.
7
Năm 1919, Freud ra mắt một tiểu luận quan trọng đối với nghiên cứu văn học
mang tên Tính lạ lùng gây lo sợ (L’inquiétante étrangeté). Trọng điểm của cuốn tiểu luận
là những ví dụ được rút ra từ văn học. Từ cơ sở là những bài giảng, những tiểu luận đó
đã hình thành nền tảng của một xu hướng phê bình mới - phê bình phân tâm học.
1.1.2 Sự phát triển của phê bình phân tâm học trên thế giới
Lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud mặc dù ngay từ khi xuất hiện đã
gây nên nhiều tranh cãi nhưng ảnh hưởng của nó đến các lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật, đặc biệt là văn học lại được khẳng định. Việc đọc tác phẩm theo xu hướng
phân tâm học ngày càng phát triển với nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Phê bình
phân tâm học là trường phái phê bình dựa trên những nền tảng lý luận của học
thuyết Freud để tiếp cận văn bản, tác giả và quá trình tiếp nhận, cho phép khám
phá những góc độ nguyên thủy và nhân bản nhất của tác phẩm văn học. Nhà
nghiên cứu Liễu Trương cho rằng: “Phê bình văn học theo xu hướng phân tâm
học là một phê bình diễn giải và là một phê bình biến đổi cách nhìn văn bản”
[260, 110]. Nhà phê bình hải ngoại Nguyễn Hưng Quốc thì cho rằng: với tư cách
là một phương pháp phê bình, phân tâm học xem tác phẩm văn học như một thế
giới huyễn tưởng trong đó, nhân vật có đời sống riêng, với những quy luật tâm lý
riêng. Tất cả mọi chi tiết được mô tả trong thế giới huyễn tưởng ấy đều được
xem là những biểu tượng phản ánh những ước muốn âm thầm cũng như những
dồn nén trong vô thức của tác giả.
Việc đọc tác phẩm văn học theo xu hướng phân tâm học không ngừng phát
triển. Các đồ đệ của Sigmund Freud đã nhanh chóng tìm thấy trong lĩnh vực văn
học nhiều điều lý thú. Tiếp nhận ảnh hưởng của Sigmund Freud, nhà tâm lý học
Thụy Sỹ C.Jung đã đưa ra lý thuyết về siêu mẫu (có người dịch là nguyên mẫu, cổ
mẫu, điển mẫu…) và vô thức tập thể, tạo ra một cú huých đáng kể trong phê bình
văn học và ảnh hưởng khơng nhỏ đến các nhà phân tâm học thế hệ sau (như Gaston
Bachelard). Với phương pháp phê bình phân tâm học vật chất, Gaston Bachelard đã
cho ra đời các chuyên luận như Phân tâm học về lửa (1938), Nước và giấc mơ, Đất
và sự nghỉ ngơi… Bên cạnh đó, nhà phân tâm học V.Dundes lại đưa ra một hướng
8
nghiên cứu gắn phân tâm học với Folklore với chuyên luận Folklore - Nhìn từ Phân
tâm học.
Năm 1929, nhà phân tâm học Charles Baudouin cho ra đời cuốn sách Phân
tâm học về nghệ thuật (La Psychanalyse de l’art) đã tìm cách dung hịa những đóng
góp của Jung và Freud, trong đó ơng bàn đến vấn đề sáng tạo văn chương bằng cách
đi từ thần thoại và những mặc cảm nguyên thủy. Ông cũng cho rằng cần nghiên cứu
văn bản trong mối quan hệ với các văn bản khác và tìm ra mối quan hệ giữa cái đẹp
và sự thanh cao hóa. Đây được xem như cuốn biên khảo đầu tiên về mỹ học đặt trên
nền tảng phân tâm học. Đến năm 1963, Charles Mauron tiếp tục cho ra đời cuốn
biên khảo mang tên Từ những ẩn dụ ám ảnh đến huyền thoại cá nhân (Des
métaphores obsédantes au mythe personnel), được cho là cuốn biên khảo đầy đủ
nhất về phê bình tâm lý. Phương pháp phê bình từ huyền thoại cá nhân tập trung
quan tâm đến văn bản, mục đích tìm hiểu về cá tính vơ thức của nhà văn thơng qua
văn bản. Thông qua phương pháp xếp chồng văn bản, làm nổi bật các cấu trúc nhằm
tìm kiếm huyền thoại cá nhân của nhà văn. Phương pháp phê bình phân tâm này
không chỉ nổi tiếng trên khắp nước Pháp, mà cịn có ảnh hưởng khơng nhỏ đến phê
bình văn học thế giới.
Năm 1931, René Laforgue với biên khảo Sự thất bại của Baudelaire
(L’Échec de Baudelaire) đã trình bày chứng loạn tâm thần của tác giả tập thơ Ác
hoa nổi tiếng; Marie Bonaparte (1882-1962) với cuốn Edgar Poe viết năm 1933 với
những kiến giải thú vị về tác phẩm và cơ chế sáng tạo ở Poe; Jean Delay với chuyên
khảo Tuổi trẻ của André Gide (La jeunesse d’André Gide) dựa vào tiểu sử tác giả
những năm đầu đời để kiến giải tác phẩm. Các nhà phân tâm học này đã có cơng
xác lập nên một khuynh hướng phê bình mang tên phê bình phân tâm học tiểu sử.
Năm 1970, Jacques Delattre đã trình bày cơng trình nghiên cứu về Đồng tính
nam và văn học (Homosexualité masculine et littérature) trình bày những nghiên
cứu của ông liên quan đến các nhân vật đồng tính trong văn học. Sau đó, nhà phân
tâm học Didier Anzieu cho ra đời cuốn Thân xác của tác phẩm (Le corps de
l’oeuvre) với mục tiêu là nghiên cứu sự sáng tạo một tác phẩm văn học. Những
9
nghiên cứu của ơng đã đóng góp thêm một cách đọc văn bản mới, đó là ngồi việc
tìm hiểu tiểu sử tác giả, văn bản, cịn cần tìm hiểu q trình sáng tạo tác phẩm đó
như một vơ thức.
Giữa thế kỉ XX, sự xuất hiện của trào lưu Cấu trúc luận có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến các ngành khoa học nhân văn. Các nhà phân tâm học cũng cố
gắng dung hòa một quan niệm của cấu trúc luận về tâm lý con người với tâm lý
học của Sigmund Freud. Đó là trường hợp của Jacques Lacan (1901-1981).
Lacan nổi tiếng với tuyên bố “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” đã làm
mới tư tưởng về vơ thức. Ơng đã đưa ngữ học vào phân tâm học, đặt vô thức gần
với cái biểu đạt là lời nói. Năm 1966, Lacan cho xuất bản tác phẩm Luận thuyết
(Écrits) bàn về vấn đề này và đưa ra nhiều ý tưởng mới về cách đọc văn bản:
dùng cấu trúc luận để đọc vô thức trong văn bản. Những luận điểm của Lacan có
ảnh hưởng khơng nhỏ đến các nhà phê bình thế hệ sau như: Jean Bellemin-Noel
với khái niệm vô thức văn bản hay phương pháp phân tích văn bản; Pierre
Bayard với phương pháp văn học áp dụng…
Như vậy, có thể thấy rằng Sigmund Freud là người đặt nền móng đầu tiên
cho một hướng phê bình mới – phê bình phân tâm học, mở ra nhiều lối diễn giải tác
phẩm. Có những phương pháp chủ yếu dựa trên những luận điểm cơ bản của học
thuyết phân tâm, cũng có những phương pháp kết hợp phân tâm học với các lý
thuyết khác, tạo nên sự đa dạng và phong phú. Thậm chí cũng có những lối phê
bình đi ngược lại với quan điểm ban đầu của Sigmund Freud như phê bình nữ
quyền, phân tâm học hiện sinh… Ví dụ như phân tâm học hiện sinh (psychanalyse
exisetntielle) của Jean Paul Sartre cố gắng kết hợp giữa hai lối phân tích mác xít và
phân tâm học: nghĩa là vừa chú ý những quan hệ xã hội bên ngoài lại vừa chú ý đến
những biểu hiện độc đáo trong tác phẩm, trên cơ sở coi trọng lí tính lẫn phần vơ
thức của nhà văn. Trong cơng trình Phê phán lý tính biện chứng, Sartre cho rằng
cần kết hợp chủ nghĩa của Marx với chủ nghĩa Freud, đặt cá tính con người vào một
phạm trù xã hội nhất định, nhưng chú ý nghiên cứu quá trình hành trình cá tính con
người ngay từ thuở ấu thời. Mặc dù Sartre dùng chủ nghĩa Freud để lấp chỗ trống
10
cho chủ nghĩa Marx nhưng ơng lại khơng đồng tình với Freud ở chỗ coi tính dục
quyết định mọi hành vi tâm lý của con người…[155, 270].
Theo Từ điển Bách khoa America, hiện nay trên thế giới có hàng ngàn nhà
phân tâm học, theo đó, phê bình phân tâm học cũng chia ra thành nhiều xu hướng
và phát triển không ngừng.
1.1.3 Tiếp nhận phân tâm học và phê bình phân tâm học tại Việt Nam
Phân tâm học du nhập vào Việt Nam từ những năm 30 của thế kỉ XX. Tuy
nhiên, sự phát triển của nó có nhiều đứt nối quanh co và do đó có những giai đoạn
và đặc điểm tiếp nhận khác nhau. Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước chia
cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị thì sự tiếp nhận phân tâm học cũng có
những khác biệt giữa hai miền Nam – Bắc. Chúng tôi chia làm hai giai đoạn trước
và sau năm 1975.
1.1.3.1 Trước năm 1975
Trước năm 1975, phân tâm học được giới thiệu vào Việt Nam chưa thành
một hệ thống lý thuyết hồn chỉnh. Một mặt, do văn hóa Việt Nam cịn nặng tư
tưởng Nho giáo nên vấn đề tình dục chưa được bàn luận thoải mái. Mặt khác, trên
thế giới lúc bấy giờ phân tâm học cũng gây nhiều tranh cãi nên những nhà nghiên
cứu của ta mới chỉ tiếp xúc ở thái độ dè dặt. Thời điểm này, phân tâm học chủ yếu
được tầng lớp trí thức có dịp du học ở nước ngoài dịch và giới thiệu về Việt Nam.
Chính vì chưa được giới thiệu thành hệ thống hoàn chỉnh nên mỗi ngành khoa học
tiếp cận phân tâm học ở một góc độ khác nhau. Đối với văn học nghệ thuật, phân
tâm học chủ yếu được giới thiệu và khai thác ở khía cạnh bản năng tính dục, đặc
biệt là trong lĩnh vực sáng tác.
Đất nước bị chia cắt đã ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Với hai chế
độ chính trị khác nhau, phân tâm học được tiếp nhận, nghiên cứu ở hai miền Nam, Bắc
cũng có những khu biệt. Trước năm 1975, chúng tơi chia làm hai giai đoạn trong q
trình tiếp nhận phân tâm học tại Việt Nam, đó là trước và sau năm 1954.
Giai đoạn trước năm 1954, ở góc độ lý thuyết chỉ xuất hiện cuốn chuyên
khảo Học thuyết Freud của Tô Kiều Phương. Tuy nhiên cuốn chuyên khảo này cũng
11
giới thiệu khá đầy đủ và cơ bản về phân tâm học của Freud. Trong lĩnh vực sáng
tác, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã lần đầu tiên khắc họa những ham muốn
bản năng của nhân vật và khẳng định sức ảnh hưởng của học thuyết Freud trong
sáng tác của ông. Ở lĩnh vực nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu như Đỗ Đức
Hiểu, Hồng Nhân có giới thiệu phân tâm học trong một số giáo trình văn học nước
ngoài. Năm 1936, Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh áp dụng lý thuyết của Freud
để giải thích, lý giải hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Các bài viết như Cái ám ảnh
của Hồ Xuân Hương của Trương Tửu đăng trên tờ Tiến Hóa, Hồ Xuân Hương: Tác
phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh. Trương Tửu và Nguyễn Văn
Hanh đã dựa vào những dữ kiện trong tiểu sử Hồ Xuân Hương để phê bình thơ của
bà dựa trên những hiểu biết cơ bản nhất về lí thuyết của Freud. Sau đó Trương Tửu
cũng dựa trên những lý thuyết này để phân tích mảng ca dao dâm tục và thơ Hồ
Xuân Hương trong tác phẩm Kinh thi Việt Nam; Nguyễn Du và Truyện Kiều [122]
để xét đoán tâm lý Nguyễn Du và giải đoán tâm lý nhân vật Thúy Kiều. Tuy nhiên,
những giả định này của tác giả không nhận được nhiều sự ủng hộ của giới phê bình.
Những hiểu biết sơ lược nhất về phân tâm học đã đưa các nhà nghiên cứu tới một số
sai lầm cơ bản. Hồ Xuân Hương là một tác giả chưa được khẳng định về mặt thân thế
nên rất khó dùng tiểu sử để nghiên cứu tác phẩm. Nhìn chung, ở thời điểm này, các nhà
nghiên cứu mới hiểu về phân tâm học một cách giản đơn nhất và chủ yếu sử dụng
phương pháp phê bình phân tâm học tiểu sử để tiếp cận tác phẩm.
Giai đoạn sau năm 1954, xã hội Việt Nam phân chia thành hai miền Nam –
Bắc. Sự tiếp nhận các luồng tư tưởng mới nói chung và phân tâm học nói riêng giữa
hai miền cũng có sự khác biệt.
Ở miền Bắc diễn ra cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc và nhiệm vụ
chính mà Đảng ta đưa ra lúc này là xây dựng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất
đất nước. Với sự hỗ trợ tập trung từ các nước xã hội chủ nghĩa nên trên mặt trận tư
tưởng, chủ yếu là chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các học thuyết tư
tưởng khác khơng có điều kiện được giới thiệu rộng rãi. Phân tâm học cũng chỉ xuất
hiện trên một số bài viết khái quát trong các giáo trình tâm lý học. Một số nhà
12
nghiên cứu như Vũ Hoàng Địch, Bùi Đăng Duy, Phạm Minh Lăng, Hoàng Trinh,
Nguyễn Khắc Viện… thuộc Trung tâm khoa học xã hội quốc gia (nay là Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam) có giới thiệu phân tâm học trong một số bài viết
của mình. Sau năm 1954, tình hình ứng dụng phân tâm học vào nghiên cứu văn học
có vẻ tiến triển hơn. Lúc này xuất hiện các bài nghiên cứu như: Xuân Diệu với Hồ
Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm (1958); Văn Tân viết về thơ Hồ Xuân Hương trong
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (Văn Sử Địa, 1959); Nguyễn Đức Bính với Người
Cổ Nguyệt, Chuyện Xuân Hương (1962). Tuy nhiên, cách ứng dụng của các nhà phê
bình lúc này khơng chỉ dựa vào tiểu sử tác giả mà còn dựa vào những điều kiện kinh
tế chính trị xã hội nên rơi vào kiểu phê bình xã hội học cịn nhiều phiến diện.
Ở miền Nam do hoàn cảnh xã hội lịch sử lúc bấy giờ, miền Nam chịu ảnh
hưởng của Tây phương nên có cái nhìn thống hơn, dễ tiếp nhận những học thuyết
mới. Phân tâm học được giới thiệu rộng rãi và thậm chí cịn được giảng dạy trong
nhà trường. Từ năm 1963 khi chế độ chính trị Ngơ Đình Diệm sụp đổ, có thể nói,
hai trào lưu chiếm giữ vị trí thượng phong trên các diễn đàn học thuật lúc bấy giờ là
chủ nghĩa hiện sinh và phân tâm học. Chính vì vậy xuất hiện nhiều giáo trình, nhiều
sách dịch về phân tâm học ở miền Nam như: Phân tâm học nhập môn của Freud
(Nguyễn Xuân Hiến dịch, 1969). Đây là cuốn sách lý thuyết có tính chất định
hướng của ngành nghiên cứu phân tâm học. Với bản dịch hơn 500 trang được chia
làm 3 chương, cuốn sách đã vẽ ra một bản đồ tâm lý học với những cơ sở vững
chắc. Tiếp đó là cuốn Nghiên cứu phân tâm học của Freud (Vũ Đình Lưu dịch, Nxb
An Tiêm, 1969). Một số cơng trình biên khảo, dịch thuật, những bài viết giới thiệu
về phân tâm học như: Phân tâm học của J.P.Charrier (Lê Thanh Hồng Dân dịch,
Nxb Sài Gịn Trẻ, 1972); Hành trình vào phân tâm học của Vũ Đình Lưu (Nxb
Hồng Đơng Phương, 1968); Tâm lý học ứng dụng của Phạm Xuân Độ (Trung tâm
học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, 1970); Tâm phân học & tôn giáo của E.Fromm (Trí
Hải dịch, Đại học Vạn Hạnh, 1968); Tâm thức luyến ái của E.Fromm (Tuệ Sỹ dịch,
Ca Dao xuất bản, 1969); Thế giới tình dục của Henry Miller (Hồi Lãng Tử dịch,
Ca Dao xuất bản, 1969); Thiền và phân tâm học của SuZuKi, Fromm, Martino (Như
13
Hạnh dịch, Kinh Thi xuất bản, 1973); Dục tính văn minh của Herbert Marcuse,
(Hoàng Thiên Nguyễn dịch, Kinh Thi xuất bản, 1973)…
Trong lĩnh vực phê bình, các nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều yếu tố trong
nội hàm thuật ngữ phân tâm học để giải mã tác phẩm như: Lược khảo văn học 3
(1968) của Nguyễn Văn Trung; Nhà văn hơm nay tập 1 (1969) của Nguyễn Đình
Tuyến; Dư vang nghệ thuật (1971) của Trần Nhựt Tân; Đi tìm tác phẩm văn chương
của Huỳnh Phan Anh (1972); Vũ trụ thơ (1972) của Đặng Tiến; Mười khuôn mặt
văn nghệ hôm nay (1972) của Tạ Tỵ; Các nhà văn nữ Việt Nam 1900-1970 (1973)
của Uyên Thao (1973); Nguồn thơ tượng trưng của Lý Thượng Ẩn (1963) của Lam
Giang; Tìm hiểu Hồ Xuân Hương hay một vài nhận định về tâm lý học, phân tâm
học và văn học (1964) của Nguyễn Mạnh Côn và Hồng Vũ; Ngun Sa và ngơn
ngữ tình u trong thơ ca (1969) của Tạ Tỵ ; Đọc thơ Điên của Tam Ích (1970);
Đọc thơ hay của Tam Ích (1971); Chế Lan Viên và khuynh hướng siêu thực (1974)
của Thanh Huy; Tâm lý văn nghệ trong Truyện Kiều của Nguyễn Đăng Thục; Ý
niệm bạc mệnh của Truyện Kiều của Đàm Quang Thiện; Bản lược đồ văn học Việt
Nam (1967), Đoạn Trường Tân Thanh hay là cuộc đời kỳ quái của Nguyễn Du được
chiếu hắt bóng lên tác phẩm của ơng của Thanh Lãng (1971); Cuộc đời và tác
phẩm của Nguyễn Thị Hồng (1971)…
Nhìn một cách tổng thể, tình hình tiếp nhận phân tâm học ở miền Nam giai
đoạn này có sự khác biệt so với miền Bắc. Các học thuyết triết học được du nhập
vào miền Nam dường như đã hòa trộn với nhau, đặc biệt là phân tâm học và triết
học hiện sinh, tạo nên một bộ mặt tư tưởng rất đặc sắc. Tuy nhiên, có thể thấy phân
tâm học dù được giới thiệu sớm và phong phú ở miền Nam nhưng vẫn chưa tạo
được một khung lý thuyết hồn thiện. Đơi khi, các nhà phê bình cịn nhìn nhận một
cách giản đơn khiến việc áp dụng vào phê bình đối tượng cịn trở nên khiên cưỡng.
Mặt khác, các nhà phê bình lại nhìn thấy ở khía cạnh “tính dục” q nhiều thứ để
vận dụng mà lại khơng nhìn thấy ở khía cạnh “vơ thức” những mảng cần khám phá
nên nhìn chung, cái nhìn về phân tâm học lúc này còn nhiều hạn chế.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng ở giai đoạn trước 1975, ở cả hai miền Nam –
Bắc, việc tiếp nhận phân tâm học và ứng dụng vào trong phê bình văn học đã được
14
các nhà nghiên cứu chú ý. Ở những ngày đầu, các nhà phê bình thường chỉ sử dụng
những thuật ngữ đơn giản nhất của phân tâm học và chủ yếu áp dụng phương pháp
phê bình phân tâm học tiểu sử để lí giải q trình sáng tạo, dùng những chi tiết đặc
biệt trong tiểu sử tác giả để kiến giải tác phẩm. Càng về sau, phương pháp phê bình
phân tâm học văn bản được áp dụng càng nhiều hơn và đưa lại những kết quả
nghiên cứu khả quan.
1.1.3.2 Sau 1975
Sau năm 1975, đất nước thống nhất tạo ra một bầu khơng khí xã hội tư tưởng
chung. Việc giới thiệu và ứng dụng các lý thuyết phương tây đã phát triển hơn. Phân
tâm học đã được giới thiệu rộng rãi ở cả hai miền Nam - Bắc và được nhiều ngành
khoa học (triết học, xã hội học, tâm lý học, tôn giáo, văn hóa tâm linh, dân tộc
học…) khai thác với biên độ và chiều sâu tồn diện hơn. Nhiều cơng trình nghiên cứu
lớn liên quan đến phân tâm học được hoàn thành. Trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật,
giai đoạn này phân tâm học có ảnh hưởng sâu sắc trên các phương diện của đời sống
văn học cả về phê bình lẫn sáng tác. Về mặt dịch thuật, có thể nói gần như đầy đủ các
cơng trình của Sigmund Freud đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam.
Về dịch thuật:
Năm 1998 Lê Văn Luyện và Huyền Giang dịch cuốn Freud đã thực sự nói gì
của David Stafford-Clark với gần 300 trang. Cuốn sách của Clark có thể nói là “một
cuốn nhập môn về tư tưởng của Freud được viết rất sáng rõ với nhiều trích dẫn, đã
từng được bạn đọc nước ngoài rất hoan nghênh” [197]). Cuốn sách đã hệ thống lại
quá trình bổ sung lý thuyết phân tâm và nhiều sửa đổi của Freud với nhiều vấn đề,
qua đó làm rõ hơn “bản lược đồ” về lý thuyết phân tâm dành cho những người mới
làm quen với học thuyết này. Có thể nói đây là cuốn sách tạo nên sự hứng thú tìm
hiểu phân tâm học đối với nhiều nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc Việt Nam.
Năm 1999 nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cho xuất bản cuốn Vật tổ
và cấm kỵ (Nguồn gốc của văn hóa và tơn giáo) của S.Freud do Lương Văn Kế dịch
từ nguyên bản tiếng Đức. Tác phẩm này được chia làm 4 chương chủ yếu trình bày
những quan điểm cơ bản của Freud về văn hóa và tôn giáo (totem and taboo – “vật
15
tổ và cấm kị”) và các lý giải xung quanh khái niệm mặc cảm Oedipe về tính dục.
Như vậy là tiếp nối Freud đã thực sự nói gì, cuốn sách này giới thiệu đến bạn đọc
Việt Nam một cái nhìn độc đáo về văn hóa và tơn giáo.
Năm 2002, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin phối hợp cùng Trung tâm văn
hóa Đơng Tây cho xuất bản tác phẩm Jung đã thực sự nói gì? Của Edward
Amstrong Bennet do Bùi Lưu Phi Khanh dịch. Với hơn 200 trang sách được chia
làm 7 chương đã đưa ra “những chỉ dẫn sâu sắc về tư tưởng chính của Jung bằng
một ngơn ngữ mà bất kì ai đều có thể hiểu được”. Cùng năm này, nhà xuất bản Văn
hóa thơng tin tiếp tục cho ấn hành cuốn Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt đời
thường do Trần Khang dịch. Cuốn sách với 12 chương chủ yếu nghiên cứu về
những triệu chứng bệnh Hystéria và những nguyên nhân tạo ra chứng bệnh đó.
Cuốn sách đã giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam những nghiên cứu sâu hơn về phân
tâm học.
Năm 2005 nhà xuất bản Thuận hóa phối hợp cùng Trung tâm ngơn ngữ Đông
Tây cho xuất bản cuốn Ximôn-Phrơt của Diệp Mạnh Lý. Tác phẩm đã khái quát gần
như toàn bộ học thuyết và quá trình nghiên cứu phân tâm học của S.Freud. Cùng
năm này, nhà xuất bản Thế giới cho ra mắt Các bài viết về giấc mơ và giải thích
giấc mơ do Ngụy Hữu Tâm dịch. Cuốn sách đã bổ sung thêm những ý kiến chuyên
sâu hơn về giấc mơ mà Sigmund Freud đã đề cập trong cuốn Giấc mơ năm 1900.
Ngồi ra cịn phải kể đến các bài viết, cơng trình khác giới thiệu về phân tâm
học như tác giả Ngô Hương Giang với loạt bài Tiếp nhận Phân tâm học ở Việt Nam
từ 1975 đến nay nhìn từ lý thuyết và ứng dụng; Nguyễn Tiến Dũng với Tâm lý học
miền sâu và sự biểu hiện của nó (1998), Bùi Đăng Duy – Nguyễn Tiến Dũng với
Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (1999); Nguyễn Hào Hải với Người đàn
ơng có nhiều ảnh hưởng đến văn chương (1999), Phạm Minh Lăng với S.Freud và
Tâm phân học (2000)…
Về phê bình:
Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, việc ứng dụng phân tâm học vào nghiên
cứu văn học đã được nhiều nhà phê bình quan tâm, tiêu biểu là nhà nghiên cứu Đỗ
16
Lai Thúy. Chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực (Nxb Văn hóa Thơng
tin, Hà Nội, năm 1999) có thể xem là cơng trình vận dụng phân tâm học bằng con
đường vơ thức tập thể (hay cịn gọi tâm lý học phân tích, tâm lý học chiều sâu của
C.G.Jung) trong nghiên cứu văn học thành công nhất ở thời điểm đó. Nhà phê bình
Đỗ Lai Thúy chọn cách tiếp cận thơ của Hồ Xuân Hương từ góc độ văn hóa học để
đưa cái dâm, cái tục trong thơ bà về với ngọn nguồn của nó là tín ngưỡng phồn thực
thuở “tục là thiêng, thiêng là tục”. Đỗ Lai Thúy kết luận rằng trong thơ của Hồ
Xuân Hương thanh - tục là yếu tố hợp nhất tạo nên sự đặc sắc riêng biệt: trong tục
có thanh, trong thanh có tục. Từ đó đưa ra kết luận: tác phẩm Hồ Xuân Hương đề
cao cái tự nhiên và tranh đấu cho nhân quyền của con người. Cũng từ điểm xuất
phát này, Đỗ Lai Thúy đã mở ra những cách lí giải khác cho phong cách nghệ thuật
(phong cách sử dụng ngôn ngữ lệch chuẩn), thể thơ Đường luật mới hay bản chất
tiếng cười… trong thơ Hồ Xuân Hương.
Năm 2000, Đỗ Lai Thúy cho xuất bản chuyên luận Phân tâm học và văn hóa
nghệ thuật. Cuốn sách với hơn 400 trang, chia làm 7 phần, được Đỗ Lai Thúy biên
soạn và chú giải khá tỉ mỉ. Ông khẳng định mối quan hệ giữa vô thức và sáng tạo,
đặc biệt xem giấc mơ như là ngọn nguồn của sáng tạo nghệ thuật. Năm 2002, Đỗ
Lai Thúy tiếp tục cho xuất bản Phân tâm học và văn hóa tâm linh với hơn 500 trang
sách đã cung cấp một cái nhìn khá tồn diện về lý thuyết nghiên cứu văn hóa trên
nhiều bình diện, trong đó con người là trung tâm của chủ thể văn hóa. Trên đà hứng
thú trong nghiên cứu về phân tâm học, năm 2003 Đỗ Lai Thúy tiếp tục cho xuất bản
cuốn Phân tâm học và tình yêu với trên 500 trang sách. Cuốn sách đã giới thiệu đến
độc giả Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục của S.Freud, Phân tâm học tình yêu của
E.Fromm, Siêu hình học tình yêu của A.Schopenhauer, Siêu lý tình yêu của
V.Soloviev. Đặc biệt phần cuối cùng của cuốn sách là những trang áp dụng phân
tâm học vào lý giải hình ảnh trong thơ Hồng Cầm. Đó là một trong những trang sách
đầy tài hoa của Đỗ Lai Thúy. Nếu như với đối tượng thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai
Thúy nhờ đến phân tâm học của C.G.Jung thì với cơng trình này, ơng lại nhờ đến phân
tâm học của S.Freud với sự vận dụng nội dung của khái niệm mặc cảm Oedipe để giải
17
phẫu những ẩn ức tình cảm trong mối quan hệ chị - em xuất hiện trong thơ Hồng
Cầm. Từ đó, Đỗ Lai Thúy lí giải nhiều đặc điểm riêng biệt khác trong thơ Hồng Cầm,
tạo nên cái nhìn nghệ thuật rất đặc sắc và thú vị.
Năm 2009, cuốn tiểu luận Bút pháp của ham muốn của Đỗ Lai Thúy tiếp tục
đánh dấu sự quay trở lại của phương pháp phê bình phân tâm với văn học Việt Nam.
Cơng trình gồm hai phần, phần giới thiệu về phân tâm học nghệ thuật và phần
nghiên cứu bút pháp nghệ thuật. Tiểu luận đã dùng phân tâm học để khám phá bút
pháp và thế giới nghệ thuật của các nhà thơ từ cổ chí kim như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Gia Thiều, Bà Huyện Thanh Quan, Xn Diệu, Hồng Cầm, Chế Lan Viên.
Có thể nói, những cơng trình nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy đến nay vẫn là những
cơng trình thành cơng nhất ở góc độ vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu phê
bình văn học.
Ngồi Đỗ Lai Thúy, xuất hiện một số cơng trình khác về phân tâm học như
Phân tâm học và phê bình văn học của Liễu Trương (2011). Đây là cuốn sách giới
thiệu về phân tâm học một cách “dễ đọc”, với cách viết mộc mạc dễ hiểu, có thể
làm tham khảo cho những độc giả không chuyên. Cùng năm này, nhà xuất bản Thời
Đại cho xuất bản cuốn Thiền và Phân tâm học do Nguyễn Kim Dân dịch. Cuốn
sách này có nguồn gốc từ một hội thảo về thiền và phân tâm học được tổ chức tại
Mexico. Cuốn sách chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa phân tâm học và phật giáo
phương Đông, tạo ra một sự liên hệ gần gũi đối với độc giả Việt Nam.
Ngoài ra một số nhà nghiên cứu phê bình đã vận dụng phân tâm học để áp
dụng nghiên cứu trong một số trường hợp như: Nguyễn Thành với Ảnh hưởng của
phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng (Tạp chí Văn học số 41997); Nguyễn Hồng Đức với bài Dục tính, chân móng hay đỉnh tháp văn
chương? đã khái quát những vấn đề cơ bản của "dâm tính" và "dục tính" trong văn
học, trong đó đặt ra vấn đề cần phải xem những mặt của dục tính như trọng tâm của
nghiên cứu và sáng tạo văn học. Trần Minh Thương với bài Tản mạn về những yếu
tố tính dục trong văn học Việt Nam đã có những vận dụng phân tâm học vào việc
nghiên cứu một loạt các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học
18
trung đại đến văn học hiện đại một cách khái quát; Trần Thanh Hà với Học thuyết
S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam (2008)…
Nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà với loạt bài Hướng tiếp cận từ phân tâm học
trong truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975; Tình yêu trong các truyện ngắn hiện đại
Việt Nam nhìn từ các phức cảm đăng trên Tạp chí sơng Hương (2008) đã khái quát
toàn cảnh những ảnh hưởng của phân tâm học đối với sáng tác của các nhà văn trẻ.
Nhà phê bình Trần Hồi Anh có bài viết Vấn đề ứng dụng Phân tâm học vào phê
bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975 cũng đã có cái nhìn khái qt về việc
ứng dụng phân tâm học trong khu vực đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975. Trần
Nhật Tân trong Dư vang nghệ thuật khi phân tích thơ Huy Cận; Thanh Huy trong
Chế Lan Viên và khuynh hướng siêu thực lý giải quá trình sáng tác của tác giả trong
Điêu Tàn từ những ám ảnh tuổi thơ…
Ở khu vực miền Nam, phân tâm học tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ và đã được
nghiên cứu ở một số luận văn thạc sĩ. Ngay từ năm 1986, xuất hiện cơng trình
nghiên cứu của Nguyễn Văn Sỹ với Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại,
Trần Thị Mai Nhi với Văn học hiện đại – văn học Việt Nam: Giao lưu và gặp gỡ…
Phân tâm học trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình, bài viết, luận
văn luận án khoa học của các ngành tâm lý học, triết học, văn học, tôn giáo học, dân
tộc học… Các cơng trình như Lý luận nhân cách và ảnh hưởng của nó đến phương
pháp xây dựng đời sống tâm lý nhân vật trong đô thị miền Nam dưới thời Mỹ Ngụy (1954 - 1975) của Phùng Đình Mẫn; Từ lý thuyết phân tâm học tiếp cận một
số tác phẩm văn học đương đại của Lê Nam Hải; Chủ nghĩa Freud và biểu hiện của
nó trong văn học tính dục miền Nam Việt Nam trước năm 1975 của Hoàng Đức
Diễn; Chủ nghĩa Freud – Lịch sử và sự hiện diện ở Việt Nam của Nguyễn Thị Bích
Hằng; Quan điểm của phân tâm học về tôn giáo của Nguyễn Văn Quế; Khảo sát sự
du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam
trước năm 1975 của Nguyễn Phúc…
Những năm gần đây, phân tâm học được các nhà nghiên cứu triết học chú ý,
nhiều chuyên luận, sách tham khảo được xuất bản. Một loạt các sách tham khảo của
19
các tác giả Viện nghiên cứu Triết học giới thiệu, phân tích nhìn nhận về nhân học
triết học trong phân tâm học như: Lịch sử triết học phương Tây (tập 3, 2014), Triết
học hiện sinh (2014), Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học
triết học phương tây hiện đại của Đỗ Minh Hợp, Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời
của nó do Phạm Văn Đức chủ biên với nhiều nhận xét ưu ái: “Với những đóng góp
to lớn trong việc nghiên cứu vơ thức và tâm lý học, S.Freud được thế giới biết đến
với tư cách người sáng lập ra phân tâm học, người đã góp phần quan trọng trong
việc hình thành một thứ triết học về thế giới tinh thần của con người. Những nghiên
cứu có tính nền tảng của Freud đã “nâng phân tâm học lên tầm cao của triết học nhân loại học và được mệnh danh là chủ nghĩa Freud” [73, 25]. Trong lĩnh vực
nghiên cứu văn hóa cũng xuất hiện các cơng trình nghiên cứu như Dịng chảy văn
hóa Việt Nam của N.I.Niculin, Văn hóa Việt Nam – tìm tịi và suy ngẫm, Một nét
bản sắc của văn hóa Việt Nam: khả năng ứng biến, Nguyên lý mẹ của nền văn hóa
Việt Nam của Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm,
Tìm hiểu văn hóa và tộc người của Từ Chi…
Như vậy có thể nói, phân tâm học được giới thiệu ở Việt Nam từ rất sớm.
Tuy nhiên lúc này nó mới chỉ được nhìn nhận ở mức độ sơ khai nhất. Trên lĩnh vực
văn học nghệ thuật chủ yếu chỉ khai thác ở yếu tố tính dục với cái nhìn cịn mơ hồ.
Ở miền Nam, phân tâm học được giới thiệu rộng rãi hơn nhưng cũng chưa tạo ra
được một cái nhìn tổng thể, toàn diện. Từ sau 1975 đến cuối thế kỉ XX, nhiều nhà
phê bình nghiên cứu và các nhà văn đã chú trọng khai thác nhiều khía cạnh khác
nhau, tạo nên một cái nhìn đa chiều hơn về phân tâm học. Đầu thế kỉ XXI, nhiều
cơng trình nghiên cứu cấp nhà nước, nhiều ngành khoa học, đặc biệt là văn học
nghệ thuật đã tham gia dịch, giới thiệu và khai thác học thuyết này đã tạo nên cái
nhìn đầy đủ và toàn diện hơn. Ứng dụng phân tâm học trong sáng tác, nghiên cứu
phê bình cũng mềm dẻo và tạo hiệu quả khả quan hơn.
1.2 Tình hình nghiên cứu sáng tác Vũ Trọng Phụng
1.2.1 Nghiên cứu sáng tác Vũ Trọng Phụng trên thế giới
Trong bài điếu văn đọc bên mộ Vũ Trọng Phụng vào ngày 15/10/1939, nhà
thơ Lưu Trọng Lư đã từng so sánh Vũ Trọng Phụng trong đời sống văn học Việt
20