TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU VỀ NÉT
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................
CHƯƠNG 1: HIỆU QUẢ NÉT TRONG TRANH KHẮC GỖ......................
1.1
NGUỒN GỐC TRANH KHẮC GỖ....................................................................
1.1.1
1.1.2
TRANH
TRANH
KHẮC
KHẮC
GỖ
GỖ
VIỆT
DÂN
NAM
HIỆM
GIAN
ĐẠI
1.2 SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM VÀ
TRANH KHẮC GỖ TRONG KHU VỰC THẾ GIỚI........................................
1.2.1
1.2.2
KHÁI
NIỆM
VAI
TRÒ
VỀ
CỦA
NÉT
NÉT
CHƯƠNG 2: NÉT TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM.....................
2.1.
2.2.
ĐƯỜNG
ĐƯỜNG
NÉT
VÀ
NÉT
KHƠNG
GIAN
2.3.
HÌNH
DẠNG
VÀ
NÉT
2.4.
MÀU
SẮC
VÀ
NÉT
KẾT LUẬN.........................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Khắc gỗ là một kỹ thuật in đồ họa sử dụng một bản in bằng gỗ có hình
khối. Khắc gỗ dùng để diễn đạt ý tưởng của các nhà nghệ thuật trước nhất là
trong thế kỷ 16 và sau đó là bởi các nhà nghệ thuật theo trường phái biểu
hiện. Từ xa xưa nghệ thuật tạo hình đã sử dụng khơng gian và nét trong tranh
khắc gỗ, là một hiện tượng khơng có trong tự nhiên để làm ngôn ngữ biểu
hiện để diễn đạt tình cảm của con người và của thiên nhiên. Từ chỗ mô phỏng
rồi mô tả sự vật mang đến sức biểu cảm của hình tượng, sáng tạo ra hình
tượng tạo nên giá trị thẩm mĩ. Người ta cho rằng đặc trưng của ngôn ngữ đồ
họa là nghệ thuật dùng nét. như thế cho thấy rằng nét có vị trí rất quan trọng
trong tạo hình đồ họa.
Ở Việt Nam nghệ thuật đồ họa xuất hiện từ rất sớm. Cách chúng ta
hàng vạn năm có những hình chạm khắc đã tồn tại và phát triển qua mấy trăm
năm nay đã đi vào đời sống của nhân dân và được nhân dân u thích giữ gìn.
Đặc biệt là các nét trong tranh khắc gỗ, qua nghiên cứu nội dung và
phương pháp thể hiện của các nhà nghiên cứu mỹ thuật ở nước ta đã phân
chia các loại tranh khắc gỗ là tranh dân gian và tranh khắc gỗ hiện đại. Bằng
những ưu thế về đường nét và hình nền tranh khắc gỗ cũng đem lại hiệu quả
về nét và chiều sâu cho tác phẩm. Tranh khắc gỗ cho ta biết nhiều hơn về
nguồn gốc, tính dân tộc cũng như tri thức, kỹ năng kỹ xảo và cách đơn giản
hóa về hình để kế thừa và phát triển tranh khắc gỗ nói riêng và mỹ thuật Việt
Nam nói chung.
Là một sinh viên năm 3 chuyên ngành đồ họa, qua nghiên cứu thực tế
em nhận thấy rằng Nghệ thuật nét trong tranh khắc gỗ ẩn chứa nhiều điều đặc
biệt tạo nên nhiều cảm hứng với người xem vì vậy em đã chọn và nghiên cứu
để tìm hiểu thêm về Nghệ thuật vẽ nét trong tranh khắc gỗ Việt Nam làm đề
tài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình. Em hy vọng bài nghiên cứu bước
đầu sẽ mang lại cho em những hiểu biết về nghệ thuật vẽ nét trong tranh khắc
gỗ và sẽ giúp các bạn chưa hiểu rõ Về tranh khắc gỗ Việt Nam hiểu hơn về
Nghệ thuật tranh khắc gỗ nước nhà.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Đề tài này được nghiên cứu nhằm những mục đích sau đây :
- Nghiên cứu về cách nhìn và diễn đạt “ Nét ” của nghệ nhân dân gian xưa và
3.
4.
5.
6.
các họa sĩ Việt nam hiện đại trong nghệ thuật khắc gỗ.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
Giải quyết các vấn đề có liên quan đến ghệ thuật khắc gỗ Việt Nam
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Phương pháp điền dã
Phương pháp phân tích dưới góc nhìn nghệ thuật
Phương pháp quy nạp, tổng hợp
Phương pháp thu thập tài liệu, tìm hiểu trên mạng lưới internet, đài, báo
Phương pháp phân tích, so sánh, hệ thống hóa các vấn đề lý luận từ các cơng
trình nghiên cứu về tranh khắc gỗ
Phương pháp tổng kết đánh giá
PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu :
Tranh khắc gỗ Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu :
“ Nét ” trong tranh khắc gỗ Việt Nam
CẤU TRÚC ĐỀ TÀI :
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận bài tiểu luận gồm có cấu trúc 2
chương :
Chương 1 : Hiệu quả Nét trong tranh khắc gỗ
Chương 2 : Nét trong tranh khắc gỗ Việt Nam
Chương 1
HIỆU QUẢ NÉT TRONG TRANH KHẮC GỖ
1.1
Nguồn gốc tranh khắc gỗ Việt Nam
Nghệ thuật khắc gỗ có từ lâu đời ở các nước phương đơng như Trung
Quốc sau đó là Nhật Bản và Viêt Nam. Theo sử sách người Việt đã biết làm
một thứ giấy gọi là mật hương chỉ vào thế kỷ thứ III. Nghề khắc ván, gỗ ở đây
cũng có từ thế kỷ XI, XII. Sách Thiền Uyển tập anh nói là tổ tiên nhà sư tín
học, cuối thế kỷ XII đã làm nghề khắc ván gỗ. Năm 1299 nhà Trần đã cho in
hai bộ kinh khắc ván gỗ để ban bố.Tuy nhiên tranh khắc gỗ dân gian như ta
hiểu ngày nay là một khái niệm đến sau. Bia ký và chính sử chưa giúp gì cho
chúng ta về niên đại.
Theo một số nhà nghiên cứu nghệ thuật cho rằng dân gian Việt Nam và
tranh Đông Hồ nói riêng có thể ra đời từ thời Lý ( 1010 – 1225 ) và thời Hồ
( 1400 – 1414 ) được duy trì và phát triển vào thế kỷ XVII và sản xuất rầm rộ
cuối thế kỷ XX.
Tranh khắc gỗ cịn có tên tranh dân gian: “Tranh Tết”. Có một số tư liệu
chính sử các nhà nghiên cứu cho rằng trước khi tồn tại một dòng tranh tết đã
tồn tài một dòng tranh khắc gỗ khác ( hay còn gọi là tranh in một bản ). Trước
khi pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, người Việt không biết đến một
phương pháp in ấn nào ngoài in khắc gỗ. Phải nói rằng nghệ thuật khắc gỗ đã
đóng một vai trị rất quan trọng trong đời sống người Việt, đặc biệt là trong
lĩnh vực tôn giáo. Việc khắc ván, in tranh chủ yếu phục vụ trên kinh phật
trong chùa chiền hoặc in sách cho triều đình, tranh dân gian in truyện hay thơ
phú cho các văn sĩ. Dù phạm vi hoạt động của tranh khắc gỗ không rộng
nhưng theo thống kê tính đến cuối thế kỉ XIX nước ta có tới 350 cơ sở in khắc
gỗ và một đội ngũ học giả, tổ chức biên soạn và in sách. Con số đó đủ để thấy
nhu cầu in khắc gỗ lớn thế nào.
1.1.1 Tranh khắc gỗ dân gian
Tranh khắc gỗ dân gian là nghệ thuật tạo hình theo nội dung dẫn dắt, dùng
những màu sáng hoặc tươi. Tranh khắc gỗ Việt Nam tuyệt đẹp khơng phải chỉ
ở kỹ xảo mà cịn ở lối biểu hiện nghệ thuật chắc tay và rất đặc biệt, trí tưởng
tượng táo bạo như vốn có trong truyền thuyết và quan niệm tôn giáo. Được sự
đối lập màu sắc là nghệ thuật diễn tả độc đáo của tranh dân gian.
Đường nét của tranh dân gian là nhịp điệu mà nói lên được thanh thốt bay
bổng của người nghệ sỹ. không bị lệ thuộc vào phép tắc ngặt nghèo của
trường quy kinh điển chỉ bằng họa pháp đường viền và tạo hình.
- Tranh Đơng Hồ
Tranh Đơng Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ là
một dòng tranh dân gian việt Nam với xuất sứ từ làng Đông Hồ ( Xã Song Hồ
huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh ). Trước kia tranh được bán ra chủ yếu
phục vụ cho dịp tết nguyên đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên
tường, hết năm lại lột bỏ và dùng tranh mới. Tranh Đông Hồ là một trong
những thể loại tranh dân gian được người Việt mấy trăm năm ln tin dùng và
đã trở thành món ăn tinh thần người bạn gần gũi của người dân. Là một dịng
tranh có nghệ thuật độc đáo và mang đậm tính dân tộc bởi kỹ thuật khắc in
mẫu mực ổn định vì đã trải qua nhiều thế hệ nghệ nhân sáng tạo được lưu
truyền từ đời này qua đời khác
Tranh Đông Hồ phục vụ mọi tầng lớp nhân dân mang niềm vui đến cho
mọi người khi mỗi dịp tết đến thì hầu như ở khắp nơi thì thành phố hay nông
thôn đều bày bán loại tranh dân gian này.
Tranh Đơng Hồ cịn phong phú về đề tài độc đáo về nội dung và điều
đặc biệt nhất của dòng tranh Đơng Hồ đó là về chữ trong bố cục tranh Đông
Hồ. nó làm chặt thêm bố cục và nói rõ nội dung và ý tưởng, quyết định độ
nặng nhẹ của tranh và tạo thành những mảng đậm cần thiết cho bố cục.
Những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng như: “ Gà Đàn”, “Thầy đồ cóc” và
“Lợn đàn” đều là những tác phẩm được duy trì và gìn giữ cho đến tận ngày
nay.
Như bức tranh “ Lợn Đàn ” chỉ bằng đường nét xoáy âm dương và đường
cong lưỡi liềm thế mà nghệ sỹ đã nói lên được cái béo núc ních của con lợn.
- Tranh Hàng Trống
Tranh hàng trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được
làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Cũng có ý kiến
cho rằng nguồn gốc tranh Hàng Trống là từ Đơng Hồ - Bắc Ninh. Dịng tranh
này cũng như các dịng tranh phổ biến khác đều có hai dịng tranh chính là
tranh thờ và tranh tết, Dịng tranh này đa dạng về thể loại phong phú về hình
thức sáng tạo. Là dịng tranh chủ yếu là khắc và in nét bằng gỗ dùng bút tơ
màu có độ phong phú về nét và màu, bên cạnh những nét to khỏe cịn có nét
to nhỏ cong thẳng khác được tỉa trực tiếp bằng tay, tranh tả khối thậm chí cịn
vờn bóng, màu sắc pha trộn nhiều hơn so với tranh Đông Hồ. Tranh cũng chủ
yếu dùng trong sinh hoạt tín ngưỡng phục vụ đền phủ của đạo giáo nhất là
tranh thờ của “ Đạo Mẫu” ( Mấu Liễu Hạnh của phủ giầy Nam Định ) loại
tranh này thường được các cụ chạm bằng vàng hay bạc thật dát mỏng.
Nếu tranh Đông hồ lấy cái thô mộc mạc của những đường nét to khỏe
và màu sắc giản dị tạo nét đẹp và duyên dáng cho mình thì tranh Hàng Trống
sử dụng những nét nhỏ và tinh vi hơn do tỉa bằng tay và tô màu tạo nên độ
mềm mại. Những tác phẩm nổi tiếng của dòng tranh Hàng trống phải kể đến
như tranh “ Ngũ Hổ”, “Cá Chép Chông Trăng” và tranh “Tố Nữ” .
Tuy vậy dịng tranh Đơng Hồ và tranh Hàng Trống là hai dòng tranh
phát triển mạnh và rộng trong cấu thành tranh Dân gian Việt Nam. Chúng tồn
tại và tác động qua lại lẫn nhau.
1.1.2 Tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại
Tranh khắc gỗ hiện đại bắt đầu từ các tác giả tốt nghiệp trường Cao
đăng mỹ thuật Đông Dương. “ Bến Thuyền Sông Hồng ” 1931-1932 của Đỗ
Đức Thuận. “ Gội Đầu ” 1943 của Trần Văn Cẩn .. Từ bố cục cho đến sử lý
ánh sáng xây dựng nhân vật đã kết hợp được nét đẹp truyền thống với cái nhìn
khoa học hiện đại, mở ra một hướng đi đúng nhiều triển vọng cho tranh khắc
hiện đại Việt Nam. Có thể nói trang sử mỹ thuật hiện đại đầu tiên là trang sử
mang đậm dấu ấn trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương hay đúng và đủ
hơn, xúc tích hơn là một trang lịch sử mỹ thuật Đơng Dương.
Từ năm 1945 – 1954 các họa sỹ tập trung sáng tác tranh tuyên truyền
kháng chiến, ca ngợi lãnh tụ động viên sản xuất, tranh được in rộng rãi và
phong phú phục vụ cho các chiến trường trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Năm
1954 đến nay khơng khí sáng tác phong phú và sôi nổi, tranh dân gian được
quan tâm, sưu tẩm, chỉnh lý và phục hồi một cách đúng đắn với truyền thống
và tiếp biến nghệ thuật độc đáo mang tính dân tộc và thời đại.
Kỹ thuật khắc gỗ của các họa sỹ sáng tác có nhiều sáng tạo loại gỗ
được tìn tịi thay đổi phù hợp với thời đại, kỹ thuật in phong phú in đầy, in
mỏng trên giấy do tùy vào ý tưởng của tác giả. Tranh khắc gỗ hiện đại phát
triển rộng rãi và cách biểu hiện thì ngày càng phong phú hơn.
1.2
Sự khác biệt giữa tranh khắc gỗ Việt Nam và tranh khắc gỗ trong khu
vực và trên thế giới
Tranh khắc gỗ Việt Nam có truyền thống lâu đời mang đậm bản chất
của con người Việt Nam. Tranh khắc gỗ Việt Nam khác tranh khắc gỗ Trung
Quốc hay Nhật Bản hay các nước Châu Âu . Trong tranh khắc gỗ dân gian
Việt Nam, nét đã được sử dụng với một khả năng phong phú nhằm diễn hình
tả khối và tạo các đường chu vi giới hạn các mảng có tính khái qt cao và
nịng cốt trong cấu trúc hình thể. Những nét đen to khỏe cịn có khả năng
đóng vai trị trung gian cho màu sắc hài hòa mà vẫn rất mềm mại, gợi cảm.
Đồng thời có những nét mảnh dẻ, bay bướm và cũng có khả năng diễn tả từng
chi tiết. Đường nét trong tranh dân gian còn là những nhịp điệu phản ánh
được sự vật một cách trung thực mà vẫn bốc lên cao làm cho người xem thấy
như tâm hồn mình cũng thanh thoát bay bổng.
Nghệ thuật Trung Quốc coi trọng và đề cao sức truyền cảm của nét.
Trong bố cục không gian tạo hình các họa sỹ trung quốc tạo nên sự độc đáo
nổi bật ở nền nghệ thuật của mình. “ Nét ” vẽ phụ thuộc vào từng đối tượng
diễn tả xúc cảm nghệ thuật do đó nét biến hóa khơn cùng, mỗi nét vẽ là một
sự vận động của tâm hồn và bàn tay của người nghệ sỹ. Thiên nhiên hùng vĩ
hay con người trầm tư được thể hiện trên mặt tranh bằng những đường nét
mang phong cách khác bộc lộ một cách nhìn một quan niệm khác nhau.
Những điều đó có trong các tác phẩm nổi tiếng như “ Lục Pháp Luận ” của Tạ
Hách đời Tấn gọi là cốt pháp dụng bút. Các nét còn được các Hoa Gia trung
quốc gọi là Cơng bút hay Thần bút.
Cịn tranh khắc gỗ nhật Bản quan niệm tạo hình khá chính xác, tranh
khắc gỗ Nhật Bản cho nét có một khả năng diễn tả khái quát và giản lược, cô
đúc, nét vẽ chọn lọc tinh vi, diu dàng, sáng sủa, sâu sắc và chính xác, màu sắc
trau chuốt, nội dung phong phú về nhiều mặt như nhân vật, phong cảnh, sinh
hoạt. Các họa sỹ Nhật cũng chỉ sử dụng những nét viền song nét viền rất nhỏ
và điêu luyện, các hình dáng được phản ánh một cách cân đối sát với tỉ lệ thực
tạo ra sự duyên dáng và uyển chuyển. Khơng những thế tranh khắc gỗ Nhật
Bản cịn làm thay đổi dòng chảy của hội họa Phương Tây vào thế kỷ XIX.
Những bức tranh khắc gỗ rực rỡ từ sau năm 1860 đã tràn vào Châu Âu góp
phần tạo nên phong cách mới của Manet, Monet, Degas và Whistler.
Vào thời EEdo ( 1600 – 1688 ), nhắc đến hội họa người ta nghĩ ngay
đến loại tranh khắc gỗ gọi là UKIYOE ( Phù Thế Hội ). Ban đầu UKIYOE chỉ
là tranh vẽ nhưng cho đến thế kỷ XVIII thì tranh khắc gỗ với các đề tài ukiyo
( ukiyo – Phù thế là các hình dung về cuộc đời như một cỗi phù sinh vơ
thường, do vậy cần tận hưởng nó trong từng khoảnh khắc ) trở nên phổ biến
đến mức danh từ UKIYOE hầu như được dùng chỉ riêng loại tranh khắc gỗ
như một nghệ thuật mới dành cho đại chúng. Bộ tranh Fuji đầu tiên mang tên
Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ ( gồm tất cả 46 tác phẩm ) ra đời là một tiếng
vang lớn vượt qua biên giới xứ sở nơi ngọn núi Phú sĩ ngự trị và tác động sâu
sắc đến trào lưu hội họa đương thời ở Châu Âu và đưa họa sỹ Hokusai trở
thành một danh họa vĩ đại trong làng hội họa thế giới.
Nhìn chung mỗi dân tộc đều có một cách thể hiện hình tượng từ hiện
thực sinh động của thiên nhiên lên mặt phẳng tranh.
Tranh dân gian bắt nguồn từ nhân dân lao động mà ra và phục vụ cho
đời sống tinh thần của nhân dân, tranh có vẽ nét, màu sắc dáng điệu người,
cảnh vật hoa lá chim muông. Không hồn tồn cách điệu hay trang trí sao
chép tự nhiên nguyên vẹn mà mọi thứ được nhìn nhận và phản ánh theo
phong tục tập quán và nền văn minh lúa nước Việt Nam, những nét vẽ to khỏe
chắc nịch, dứt khốt khơng có tính chất vuốt ve hay khiêu gợi như các phái
tân họa Tây Âu, thướt tha như nét khắc gỗ Nhât Bản, bút pháp rồng bay
phượng múa như quốc họa Trung Quốc cổ điển mà tranh dân gian của Việt
Nam rất mộc mạc chất phác như chính bản tính của người nơng dân, có nét
thơ sơ, to khỏe và vững chắc, màu sắc được sử dụng độc đáo, trong sáng, rực
rỡ, sử dụng màu nguyên chất, hoa hòe, hiên, chàm lục. Từ những màu nguyên
chất đó các nghệ nhân đã sử dụng tính linh hoạt hình thành một quan niệm về
hịa sắc độc đáo mang tính dân tộc. Dù bằng truyền thống dân tộc hay cách
thể hiện nào thì các họa sỹ Việt Nam cũng đều sử dụng cái cá nhân, cái truyền
thống dân tộc.
1.2.1 Khái niệm về nét
Trong tự nhiên khơng hề có nét mà chỉ có hình khối, ánh sáng, màu
sắc. Như thế ánh sáng là cơ sở chủ yếu để tạo nên đen trắng, do đó đen và
trắng được xem như hai yếu tố cơ bản để ta nhận biết giữa vật này với vật kia
trong không gian và đồng thời cũng cho ta biết được hình thù, kích thước, vị
trí của mỗi vật cùng với những mối quan hệ của chúng trong phạm vi mắt ta
nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học thì nét là một tập hợp các điểm hay là
quỹ đạo của một điểm di động trong khơng gian, đó là một cách mà con người
tự thống nhất và ghi nhận với thiên nhiên. Sự tách biệt giữa vật này vật kia
trong không gian trước hết là cái lối giới hạn bao quanh hình ấy và từ đó cho
ta khái niệm về đường nét hay chu vi. Do đó vật này che khuất vật kia thì nét
viền giới hạn những vật đó cũng che khuất nhau.
Vì vậy mà nét có khả năng diễn tả được những sự vật đa dạng trong thế
giới tự nhiên.
1.2.2 Vai trò của nét
Từ lâu nghệ thuật tạo hình đã sử dụng nét, một hiện tượng trong tự
nhiên làm ngôn ngữ biểu hiện và diễn đạt tình cảm của con người, thiên
nhiên. Nó từ chỗ mô phỏng rồi mô tả sự vật mang đến sức biểu cảm của hình
tượng, tạo nên giá trị thẩm mỹ. Nghệ thuật hang động cách chúng ta hàng vạn
năm cũng đã cho con người thời đó biết sử dụng đường nét để tạo hình vẽ,
diễn tả thế giới tự nhiên như hươu nai..
Nét khơng những diễn tả hình khối, khơng gian tạo chất mà cịn diễn tả
được sự vận động tĩng tại của sự vật. và còn cao hơn, cịn biểu đạt được
những trạng thái tình cảm của con người và thái độ của con người đối với sự
vật đó.
Người ta thường cho rằng đặc trưng của ngơn ngữ đồ họa là nghệ thuật
dùng nét và mảng, thật ra như thế chưa đúng hoàn toàn nhưng như thế cũng
cho thấy nét, chấm và mảng có vị trí rất quan trọng trong tạo hình đồ họa.
Ở hội họa các yếu tố thường gắn với nhau thành một khối thống nhất
như màu sắc không gian, ánh sáng và bút pháp được thể hiện một cách đồng
thời và gây sự hấp dẫn. Qua đường nét chúng ta cịn có thể thấy được tình
cảm, phong cách tâm hồn hay quan niệm nghệ thuật của từng vùng, từng dân
tộc hay từng cá nhân tác giả.
Tranh khắc gỗ cũng được biến chuyển theo thời đại, kỹ thuật khắc cũng
được thay đổi phù hợp với phương pháp tạo hình mới, trong đó có sử dụng,
vận dụng một cách sáng tạo như định luật tạo hình xa gần, sáng tối. Kết hợp
với phương pháp tạo hình truyền thống khắc gỗ dân tộc, đó là sự cách điệu về
đường nét, ước lệ trong cách tạo không gian và xây dựng hình tượng.
Chương 2
NÉT TRONG TRANH KHẮC GỖ
2.1Đường nét
Đường nét là thủ pháp sử dụng biểu hiện nghệ thuật đồ họa, do con
người sáng tạo ra. Thị giác con người kết hợp với cảm quan hình thức của
đường nét với tính năng của sự vật cho nên có thể nói đường nét là biểu hiện
thống nhất giữa cảm tính thị giác và lý tính phân tích. Đường nét khơng chỉ
biểu hiện vật thể hữu hình mà cịn biểu hiện ý tưởng vơ hình vì vậy mà đường
nét trở thành hình thức cơ bản của hội họa, là phương tiên chủ yếu để tạo hình
nghệ thuật đồ họa nói chung và tranh khắc gỗ nói riêng. Tiền thân của nghệ
thuật vẽ là thuật viết chữ thư pháp, lối chơi chữ đại tự ở Việt Nam được coi là
một trong những giá thuyết ra đời của tranh dân gian. Nghệ thuật sử dụng cây
bút lông thành thạo của các nhà nho giúp cho việc vận dụng đường nét để
sáng tạo các bức tranh trở nên dễ dàng hơn. Sự thật nét khơng có trong thiên
nhiên mà do con người sáng tạo ra, qua một số hình vẽ được thể hiện sau
cùng. Xét về tạo hình đường nét là linh hồn của bức tranh bởi nét là phương
tiện tạo hình, là biên giới các mảng màu cùng với nền tranh.
Tranh dân gian Đông Hồ rất chú trọng đến nét trong tranh và đạt được
hiệu quả cao trong việc sử dụng nét trong tạo hình, tạo nên sức sống mãnh liệt
cho dịng tranh dân gian Đơng Hồ. Đường nét trong tranh dân gian Đơng Hồ
có những đường nét độc đáo mà khơng một dịng tranh nào có được, nét vẽ
của tranh dứt khốt mà mềm mại, bay bướm.Đường nét to khỏe chắc
chắn,đơn giản song lại rất cơ đọng phù hợp với tình cảm đơn hậu chất phác và
thẩm mỹ của người nông dân. Một trong những điểm tiêu biểu và đặc trưng
về đường nét của tranh dân gian Đơng Hồ đó là sự ý thức của các nghệ nhân
trong việc tổ chức cấu tạo các nét khắc để thể hiện khả năng diễn đạt của
đường nét một cách tối đa nhất. Các nghệ nhân xưa ít lợi dụng yếu tố ngẫu
nhiên như phần lớn các bản khắc hiên nay, không gian trong tranh Đông Hồ là
ước lệ nên các nhân vật cũng đều là ước lệ, cấu trúc hình khơng cần đúng giải
phẫu mà chú trọng đến khả năng nắm bắt thể hiện linh hoạt. Các nhân vật đều
được xuất phát từ thực tiễn, óc quan sát tinh tế của nghệ nhân, họ cảm nhận
và quan niệm theo truyền thống phương đơng và họ tạo hình theo cách nhìn
và cách nghĩ của bản thân chính vì vậy mà khơng hề lệ thuộc vào vấn đề gì
khi sáng tác, vẽ những gì nhìn thấy và vẽ những gì bản thân thấy thích.
Đường nét trong tranh thiên về đơn giản,chắc khỏe có xu hướng cách điệu và
trang trí hơn, để diễn tả đường nét mà các nghệ nhân Đông Hồ tìm mọi cách
để tính giản hình vẽ và hạn chế dùng nhiều nét để thể hiện cái bản chất nhất
mà người ta hay còn gọi là “ cái thần ” của sự vật.
2.2 Đường nét và không gian
Như chúng ta đã biết nét là tập hợp các điểm thành các đường ( đường
nét ) hay là quỹ đạo của một điểm di động trong không gian. Trong hội họa và
đồ họa, nét là một quy ước của con người để phân định ranh giới giữa các
hình thể của sự vật và không gian xung quanh trên một mặt phẳng. Sự tách
biệt giữa vật thể này với vật thể kia trong không gian trước hết là ở các giới
hạn bao quanh hình ấy.
Các đường nét gợi lên sự duy trì của sự chuyển động, một đường nét
như thế dẫu ngang qua mặt tranh hoặc tiến sâu vào trong giúp chỉ ra sự hiện
diện của không gian. Ta thấy rằng chỉ bằng những đường nét đã tạo ra không
gian trên bề mặt hai chiều. Hướng và mật độ của nét có thể tạo cảm giác nặng,
nhẹ, gần, xa, đặc hay rỗng khả năng thể hiện nét tăng lên nhiều khi sử dụng sự
thay đổi về hướng của nét thẳng và nét cong. Tính chất động do hướng của
nét thay đổi được sự rộng rãi trong lĩnh vực mỹ thuật và nhất là trong nghệ
thuật đồ họa,Ví dụ điển hình như trong tác phẩm “ Đánh bi ” tranh khắc gỗ
của Lê Phán.
Yếu tố đường nét được người Việt Nam khai thác và sử dụng rất hiệu
quả trong tranh dân gian, Nếu như đường nét trong tranh khắc gỗ Việt Nam to
khỏe, mộc mạc và chất phác mang hơi thở và tâm hồn của người Việt thì
người Nhật lại có những đường nét thanh mảnh và tinh vi hơn, người Trung
Quốc thì có những đường nét gọt dũa mềm mại và khai thác đường nét đến tối
đa hơn. Đường nét đơi khi là tiếng nói của hình ( chặn hình ) hay sự gối chồng
lên nhau của các nét tạo ra không gian và chiều sâu cho tác phẩm .
2.3 Hình dạng và nét
Khi nhắc đến hình thù người ta thường liên tưởng đến khái niệm hình
trừu tượng trong đó bao gồm hình học, hình thị giác và hình tâm lý. Từ các
hình cơ bản đó mỗi ngành lại có sự nhìn nhận và phát triển theo hướng riêng,
các nghệ nhân dân gian đã sử dụng hình dạng và đường nét như các yếu tố
biểu đạt chính cho tranh dân gian. Sự sắp xếp các hình thể hay quan hệ giữa
các hình thể đó tạo nên khoảng cách và các khoảng cách đó gợi nên khơng
gian cho bức tranh.
Xem tranh “ Lá Mít Đánh Vật ” tranh Đơng Hồ các nghệ nhân không
tuân theo luật thấu thị xong cách diễn đạt không gian cũng rất thú vị. Đôi khi
chỉ bằng đường nét và vị trí của các hình thể đã tạo nên không gian cho bức
tranh. Các nghệ nhân dân gian xua thường sử dụng không gian ước lệ như
một thói quen đặc trưng cho nghệ thuật dân gian truyền thống .
2.4 Màu sắc và nét
Trong tranh dân gian giữa mảng màu nọ và mảng màu kia được giới
hạn bởi nét, nét để tạo hình, tạo mảng và phân tích hình, màu nền với nền
tranh, đó là những đường viền to và đậm là đường phân cách, các mảng mẫu
tạo nên sự khác biệt giữa phong cách mảng màu và nét của tranh dân gian
Đông Hồ và tranh khắc gỗ Nhật Bản, Trung Quốc. Tranh Đơng Hồ ngồi màu
nền và nét đen thì màu sắc đã được tinh giản đến tối đa, màu sắc dường như
chỉ có từ ba đến bốn màu và có tranh chỉ có hai màu như tranh “ Đánh vật ” .
Màu sắc thường dùng những màu nguyên chất nhưng chúng được đặt trong
tương quan màu sắc rất hợp lý mang tính trang trí cao, do đó dung hịa những
mảng màu đối lập một cách khéo léo. Sự phân bố mảng màu cùng với việc
diễn tả đường nét nhằm kết hợp hài hòa giữa yếu tố mảng và nét.
Một đặc điểm nổi bật nữa của tranh Đơng Hồ đó là sự kết hợp hài hòa
giữa màu sắc, đường nét và chất liệu. Màu sắc đằm thắm, tươi vui của tranh
Đông Hồ một phần là nhờ lối thiên về dùng màu nguyên chất, đối lập kết hợp
với nền điệp vàng hoa, đỏ hoa hiên cùng với độ xốp của chất liệu giấy và
những gạch được tạo bởi nét quét của chổi thông càng khiến cho bảng màu
của tranh Đông Hoog them rực rỡ tươi vui ,đằm thắm mà vừa biểu hiện được
cái hồn của dân tộc. Sức biểu hiện khéo léo trong việc phối hợp màu sắc
đường nét tạo một phong cách độc đáo, rất riêng của tranh Đông Hồ. Với bức
tranh “ Lợn ăn cám ” chỉ có một nét chu vi to đậm kéo dài thành đường uốn
lượn hình con vật béo, tròn để lại chỗ trống ở giữa cho màu in vào thành
mảng đặc làm cho hình con lợn chắc chắn hơn nổi bật hơn. Nềm tranh màu
vàng them kích thích cộng với hai màu âm – dương xanh đỏ của tranh này
quắc lên kịch liệt như nắng mùa hạ chang chang đổ ngoài trời, tương phản với
màu xám lam trầm hẳn xuống như chìm sâu vào bầu khơng khí ẩm ướt, tối
tăm trong chuồng.
KẾT LUẬN
Nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam khơng cịn là mới, nó khơng phải
loại hình mới xuất hiện và đã tồn tại từ thời xa xưa, nó từng được các nhà
nghiên cứu các nghệ sỹ sáng tác quan tâm.
Cùng với hội họa nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam đã và đang tiến
đến những tiêu chí mới mẻ hơn vì thế nên vấn đề nghiên cứu của nó sẽ không
bao giờ hết.Với bài tiểu luận này em chỉ mong muốn được tìm hiểu rõ hơn và
tiếp cận một cách kỹ càng hơn về Nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam. Qua
bài tiểu luận này em mong muốn giới thiệu về các nét trong tranh khắc gỗ,
cách nhìn nhận và diễn đạt nét trong tranh khắc gỗ của các nghệ nhân tranh
dân gian cũng như các họa sỹ Việt Nam hiện đại và các họa sỹ phương đông,
phương tây tiêu biểu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Quang trứ, Phạm Thị Chinh, Nguyễn Thái Lai(1998), Lược xử Mỹ Thuật
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Học, Nxb Giáo Dục
Danh họa thế giới, Nxb Kim Đồng
Giáo trình đồ họa, Đồ họa mỹ thuật Việt Nam
Những nền tảng Mỹ Thuật(2001), Nxb Mỹ Thuật
Nguyễn Quân(2004), Con mắt nhìn cái đẹp,Nxb Mỹ Thuật
Nguyễn Thái Lai(2002), Làng tranh Đông Hồ, Nxb Mỹ Thuật
Phạm Ngọc Khê(2001), Tranh đạo giáo ở bắc Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật
MINH HỌA
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRANH KHẮC GỖ - TRANH ĐÔNG HỒ TRANH HÀNG TRỐNG
Tranh khắc gỗ “ Gà Đàn ”
Tranh khắc gỗ “ Lợn Đàn ”
Tranh Đông Hồ “ Ngũ Hổ ”
Tranh Hàng Trống “ Tố Nữ ”
Tranh khắc gỗ “ Gội Đầu ”