Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

KĨ THUẬT CHIẾT XUẤT MORPHIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 22 trang )

KĨ THUẬT CHIẾT XUẤT MORPHIN
Mục lục:
I. Đặt vấn đề..........................................................................
II. Nội dung ..........................................................................
2.1 Lịch sử sử dụng, nguồn gốc.............................................
..............................................................................................
2.1.1 Lịch sử sử dụng.............................................................
2.1.2 Nguồn gốc....................................................................
2.2 Khái niệm........................................................................
2.3 Phân loại, cấu trúc............................................................
2.4 Tác dụng sinh học ...........................................................
III. Các phương pháp chiết xuất.............................................
3.1 Nguồn khai thác...............................................................
3.2 Quy trình..........................................................................
3.3 Một số quy trình..............................................................
3.4 Tiềm năng........................................................................


I. Đặt vấn đề
- Thực vật là nguồn cung cấp thuốc đầu tiên và tiếp tục đóng vai trị quan
trọng trong y học hiện đại. Ví dụ, D-tubocurarine được sử dụng để giãn cơ,
có nguồn gốc từ một cây leo ở Nam Mĩ; Alkaloid scopolamine, giúp giảm
buồn nôn liên quan đến chứng say tàu xe, từ cây belladonna và atropine,
được sử dụng để điều trị nhịp tim chậm, xuất hiện một cách tự nhiên trong
họ cây cảnh đêm. Morphine được nhà bác học Đức Sertillrner chiết ra từ
thuốc phiện vào năm 1805 và được coi là một hợp chất đầu tiên có tính base
được tách ra từ thực vật. Đây là một alkaloid có nguồn gốc từ cây Anh Túc,
một trong những ví dụ được biết đến nhiều nhất về một loại thuốc có nguồn
gốc từ thực vật.
- Khi nhắc đến morphin, đến heroin hay một từ thông dụng hơn là ma túy,
chúng ta sẽ liên tưởng ngay đến NGHIỆN, đến một cái gì đó khơng tốt và


cần phải tránh xa. Đó là vì những vật vã, những tác hại khôn lường mà
những chất gây nghiện này gây nên cho người sử dụng và cho cả xã hội. Tuy
vậy, những chất này lại có những tác dụng rất quý giá và được sử dụng nhiều
trong ngành y tế. Do tính gây nghiện của morphine nên việc ứng dụng bị hạn
chế, trên 90% morphin sản xuất ra trên thế giới được dùng bán tổng hợp
thành codein, một thuốc chữa ho đặc hiệu.
- Morphin là một hợp chất hữu cơ có chứa nitơ. Thường gặp ở trong nhiều
loại thực vật, phần lớn có trong cây thuốc phiện (Anh Túc) và đơi khi cịn
tìm thấy trong một số lồi động vật. Đặc biệt, morphin có hoạt tính sinh lí rất
cao đối với cơ thể con người và động vật, nhất là đối với hệ thần kinh, ảnh
hưởng trực tiếp tới não bộ.
- Morphin cũng là thần dược trị bệnh đặc hiệu, có thể giải trừ hiện tượng


chuột rút và ức chế cơ tim, chủ yếu dùng trong co thắt cơ tim tắc động mạch,
làm thuốc giảm đau trong y học... Nhưng nếu dùng nhiều lần, kể cả với một
lượng nhỏ sẽ gây nghiện, bị ngộ độc dần dần ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe. Khiến nạn nhân trở thành “con nghiện” và mất nhiều thời gian cho
việc cai nghiện, tình trạng xấu hơn có thể dẫn tới cái chết.
- Do đó, ngồi việc trồng làm thuốc được quản lí chặt chẽ ra, nhà nước Việt
Nam cấm trồng cây Anh Túc để giảm tình trạng gây nghiện và tệ nạn xã hội.


II. Nội dung
II.1 Lịch sử sử dụng và nguồn gốc
2.1.1 Lịch sử sử dụng
Mốc thời gian nêu bật các giai đoạn quan trọng trong lịch sử của thuốc
phiện và morphin.




- Năm 6000 TCN: Viên nén Cunciform từ lưu vực Mesopotamian đề cập đến các
đặc tính y học của thuốc phiện, gọi nó là "thực vật của niềm vui".
- Năm1500 TCN: The Ebers Papyrus, một cuốn sách của người Ai Cập, liệt kê
opium, cùng với các loại dược liệu khác như tỏi, mandrake (cây tử thần) và lô hội.
-1100-800 TCN: Trong thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo, các thầy thuốc Ả Rập đã
tạo ra nhiều loại thuốc kết hợp với thuốc phiện như một thành phần để chữa bệnh,
trong số đó: bệnh mất trí, động kinh, cảm lạnh thơng thường và mệt mỏi mắt.
-800 TCN: Trong Odysses được sáng tác vào thế kỷ 8 TCN, Homer đề cập đến
việc cả Helen và Persephone đều uống thứ được cho là loại rượu có pha thuốc
phiện để xoa dịu nỗi đau và nỗi buồn của họ.
-500 TCN: Bác sĩ người Hy Lạp Hippocrates (khoảng 460-370 TCN) đã đề nghị
ngâm toàn bộ đầu cây thuốc phiện, không chỉ thuốc phiện, ngâm trong nước để
điều trị cổ chướng.
-300 TCN: bác sĩ phẫu thuật Trung Quốc Hua T'o (khoảng 190-265) ghi nhận việc
sử dụng chất gây mê rượu và thuốc phiện.
- Thế kỷ thứ 1 CN: Thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Nero, Andromachus, đã sử
dụng thuốc phiện để sản xuất một loại thuốc mà ông gọi là Theriaca andromaci.
Pedanios Dioscorides, một bác sĩ-nhà thực vật học Hy Lạp từng phục vụ trong
quân đội La Mã, là người đầu tiên mô tả bằng văn bản cách thu thập thuốc phiện
trong De Materia Medior. Ông đã phát triển một công thức cho "diacodion”, một
chế phẩm đã trở thành nguyên mẫu để thu được xi-rô của anh túc.
- Thế kỷ 5- 15 CN: Vào thời Trung cổ, thuốc phiện vẫn là một mặt hàng tiêu chuẩn
của thuốc bào chế.
- Thế kỷ 14-17 CN: Với Renaissance Nhà giả kim thuật / bác sĩ người Thụy Sĩ
Paracelsus (Theophrastus Bombastus von Hohenheim, 1493-1541), cha đẻ của
ngành dược, đã tạo ra một lọ thuốc phiện mà ông gọi là laudanum.
- Những năm 1600: Bác sĩ người Anh Thomas Sydenham (1624-1689) đã tạo ra
cồn thuốc phiện dựa trên rượu của riêng mình mà ơng cịn gọi là laudenum. Nó trở
thành mặt hàng chủ lực của y học châu Âu và phổ biến được thấy trong văn hoá đại

chúng của thời đại, chẳng hạn như Shakespeare’s Othello.
- Thế kỷ 18-19: Uống cồn rượu laudanem hoặc tiêu thụ một hạt thuốc phiện vì lý
do 'chữa bệnh' hoặc để giải trí đã trở nên phổ biến. Những người nổi tiếng sử dụng
thuốc phiện bao gồm Benjamin Franklin (1706-1790), Samuel Johnson (17091784) và Napoléon (1769-1821) ), nhà văn Samuel Taylor Coleridge (1772-1834),
các nhà văn Edgar Allan Poc (1809-1849), Percy Shclley (1792-1822) và Thomas


de Quincey's (1785-1859). Vào đầu thế kỷ 19, thuốc phiện đã trở thành một loại
thuốc 'chữa bệnh' không cần kê đơn.
-1805-1817: Nhà bào chế người Đức Friedrich Wilhelm Adam Sertürner (17831841) đã phân lập thành phần hoạt chất của thuốc phiện vào năm 1805, đặt tên cho
bột kết tinh là 'morphium'. Với sự giúp đỡ của Nhà hóa học người Pháp J.L. GayLussac (1778-1850), người đã đổi tên thành 'morphin', phát hiện của Sertürner đã
được công bố vào năm 1817. Nhà thuốc bào chế Đức C.F. Wilhelm Meissner
(1792-1853) đã phân loại morphin là người đầu tiên trong nhóm các hợp chất được
gọi là alkaloid.
- 1847: August Lauren (1809-1853) đã xác định cơng thức hóa học chính xác của
morphin bằng cách tạo thành muối morphin.
- Những năm 1850: Việc tạo ra kim tiêm dưới da của Charles-Gabriel Pravaz
(1791-1853) và Alexander Wood (1817-1884) đã thúc đẩy sự phổ biến của
morphine so với các sản phẩm thuốc phiện khác.
- Những năm 1900-1940: Ngài Robert Robinson (1886-1975) sử dụng nguyên lý
hóa học của sự thơm hóa để hợp lý hóa cấu trúc của morphin vào năm 1925. Ơng
được trao giải Nobel Hóa học năm 1947 cho những thành tựu của mình.
- 1952: Cấu trúc của morphin do Robert Robinson đề xuất được xác nhận bởi
Marshall D. Gates, Jr. (1915-2003) và đồng nghiệp của ông Gilg Tschudi, người đã
thực hiện tổng hợp morphin đầu tiên vào năm 1952.


*Sản lượng thuốc phiện trên toàn cầu theo đơn vị tấn từ 1999-2002

Afghanistan là quốc gia sản xuất thuốc phiện hàng đầu thế giới, theo sau là

Myanmar (trước đây gọi là Miến Điện). Các quốc gia khác nổi tiếng về sản xuất
thuốc phiện bao gồm Lào, Mexico và Colombia.
Phần dưới: Sản lượng thuốc phiện tồn cầu tính theo tấn từ năm 2001 đến năm
2002 dựa trên vị trí địa lý. Mặc dù theo truyền thống, thuốc phiện được buôn lậu
vào Bắc Mỹ từ Viễn Đông, nhưng việc sản xuất thuốc phiện đang gia tăng ở
Mexico và Colombia, làm giảm khoảng cách mà ma túy phải vận chuyển để đến
Mỹ.


 MORPHINE NGÀY NAY
Việc sử dụng morphin trong y học vẫn là một phần không thể thiếu, nhưng được
quản lý chặt chẽ trong y học lâm sàng. Trên thực tế, morphin thường được sử dụng
trong bệnh viện để điều trị các cơn đau mãn tính và hậu phẫu. Morphine cũng là cơ
sở cho một loạt các loại thuốc mới tương tự như hóa chất trang điểm. Ví dụ, Cơ
quan Thực thi Dược phẩm Hoa Kỳ (DEA) ước tính rằng trong số 130 đến 140 tấn
morphin được nhập khẩu vào Hoa Kỳ hàng năm, 85% dự trữ morphin còn lại được
chuyển đổi thành các loại thuốc phổ biến khác dựa trên morphin, chẳng hạn như
hydromor-phone (Dilaudid "), oxymorphone (Numorphan"), methadone
(Dolophine), oxycodone (Rixicodon, Percodan, Percocet)...
- Nguồn chính của morphin là phân lập từ cây thuốc phiện. Trong năm 2013,
khoảng 523 tấn morphine đã được sản xuất. Khoảng 45 tấn đã được sử dụng trực
tiếp để giảm đau, tăng gấp bốn lần trong hai mươi năm qua. Hầu hết việc sử dụng
morphine cho mục đích này là trong thế giới phát triển. Khoảng 70 phần trăm
morphine được sử dụng để tạo ra các loại thuốc phiện khác như hydromorphone,
oxymorphone và heroin. Đó là một loại thuốc cấm Schedule II ở Hoa Kỳ, Loại A
ở Vương quốc Anh và Bảng I ở Canada. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc
thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới. Morphine được bán dưới nhiều tên thương
mại. Trong năm 2017, đây là loại thuốc được kê toa phổ biến thứ 155 ở Hoa Kỳ,
với hơn bốn triệu đơn thuốc


2.1.2 Nguồn gốc
Thuốc phiện và morphin có một lịch sử sử dụng lâu dài cả về mặt giải trí và y tế và


khơng có gì ngạc nhiên khi sản xuất thuốc phiện tiếp tục tăng. Suy ngẫm về lịch sử
và tác dụng của những loại thuốc này đã làm dấy lên một mong muốn lớn là tìm ra
các chất thay thế cho thuốc phiện và morphin.

Morphine là một trong những thành phần chính của thuốc phiện, một loại ma túy
cho đến nay vẫn là một trong những chất có ảnh hưởng nhất, phổ biến và được sử
dụng và lạm dụng nhiều nhất trong lịch sử loài người.
Thuốc phiện là loại thuốc tự nhiên được trồng trực tiếp từ cây thuốc phiện. Cây
thuốc phiện thường phát triển đến chiều cao 3 hoặc 4 feet. Trên đầu cuống có một
bầu to giống quả địa cầu chứa hạt của hoa anh túc. Mặc dù các loài hoa khác nhau
tùy thuộc vào loài và điều kiện phát triển, cây thuốc phiện sản xuất thuốc phiện


thường được đánh dấu bằng sự hiện diện của hoa màu trắng hoặc tím và một củ
chứa hạt màu vàng.
- SỰ PHÁT HIỆN RA CỦA MORPHINE
Mặc dù có một số tranh cãi về ngày chính xác của phát hiện, nhưng các sử gia y
học thường chấp nhận rằng cơ sở cho tác dụng mạnh mẽ của thuốc phiện đã được
Friedrich Wilhelm Sertürner phát hiện ra vào khoảng giữa những năm 1805 và
1816. Anh ta là một trợ lý dược sĩ, người có ý định tìm hiểu tại sao thuốc phiện lại
tạo ra những tác dụng như nó, đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khi câu chuyện diễn
ra, Sertürner đã có thể cơ lập một hợp chất tinh thể màu trắng hơi vàng từ thuốc
phiện thô bằng cách ngâm thuốc trong nước nóng và amoniac. Khơng biết về
những gì mình đã khám phá, nhưng tị mị về tác dụng của nó, Sertürner lần đầu
tiên thử nghiệm phát hiện trên một số con chó (tất cả đều chết vì ma túy) và sau đó,
một cách ngu ngốc, trên chính mình và ba cậu bé. Từ thí nghiệm này, ơng ghi lại

rằng hợp chất mới này, giống như thuốc phiện, có thể giảm đau và gây hưng phấn.
Tuy nhiên, cũng rõ ràng rằng, với liều lượng vừa đủ, hợp chất này sẽ tạo ra cảm
giác khó chịu (tức là khơng thích), ức chế hô hấp, buồn nôn, nôn, suy giảm phản xạ
ho và táo bón. Ngồi ra, ơng phát hiện ra rằng thuốc phiện có tác dụng giảm đau
gần gấp mười lần thuốc phiện, vì vậy cần ít thuốc hơn để tạo ra tác dụng tương tự.
Sertürner thực sự đã tìm ra nguyên lý cơ bản của thuốc phiện. Sau đó, ông đặt tên
loại ma túy mới này là "morphine" theo tên của Morpheus, vị thần của những giấc
mơ Hy Lạp.
(Morphine lần đầu tiên được Friedrich Sertürner phân lập trong khoảng thời gian
từ năm 1803 đến 1805. Điều này thường được cho là sự cô lập đầu tiên của một
hoạt chất từ thực vật. Merck Group bắt đầu tiếp thị nó vào năm 1827. Morphine
được sử dụng rộng rãi hơn sau khi phát minh ra ống tiêm dưới da vào năm 1853 1855. Sertürner ban đầu đặt tên chất morphium theo tên của vị thần trong giấc mơ


Hy Lạp, Morpheus, vì chất này có xu hướng gây ngủ.)

II.2

Khái niệm

Morphin được định nghĩa là một loại thuốc giảm đau họ thuốc phiện
được tìm thấy tự nhiên trong một số thực vật và động vật, bao gồm cả
con người. Morphin tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương(CNS)
để giảm cảm giác đau. Nó có thể được dùng để điều trị cho cả đau cấp
tính và đau mạn tính. Morphin thường được sử dụng để giảm đau do nhồi
máu cơ tim và trong khi chuyển dạ. Nó có thể được đưa vào cơ thể qua
đường miệng, bằng cách tiêm vào cơ bắp, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch,
tiêm vào khoảng trống xung quanh tuỷ sống hoặc trực tràng. Hiệu quả tối
đa đạt được sau khoảng 20 phút khi tiêm khi tiêm tĩnh mạch và 60 phút
khi được đưa qua miệng, trong khi thời gian có hiệu lực là 3-7h.

2.3 Phân loại cấu trúc
Tên biệt dược: Duromorph, nepenthe
Công thức phân tử: C17H19No3.H20 = 303,4
Công thức cấu tạo:


Trọng lượng phân tử: 285,3
Nhiệt độ nóng chảy: 243 – 244 C
Kết tinh hình trụ, vị rất đắng, ít tan trong nước, tan trong cồn, benzen, acetic acid.
Morphine là một ancaloid chủ yếu của thuốc phiện. Bột kết tinh màu trắng hoặc
khơng màu, tinh thể hình kim, vị đắng.
Độ tan: 1/5000 phần nước; 1/250 phần ethanol; 1/1500 phần chloroform;
1/125 phần glycerol, tan trong ete ở thể vơ định hình, khơng tan ở thể kết tinh.
Morphine là hoạt chất chính của nhựa thuốc phiện, trong điều kiện bình
thường, morphine ở dạng tinh thể hình kim, bột kết tinh màu trắng hoặc
khơng màu, có vị đắng. Morphine trên thị trường bất hợp pháp có thể có chất
lượng rất khác nhau tuỳ theo quy trình tinh chế, vì vậy mà nó cũng có màu
sắc khác nhau từ trắng, trắng ngà, vàng, sẫm…Morphine được tách ra từ thuốc
phiện có màu vàng sáng, ở dạng bột, tinh thể, hoặc có dạng cục, khơng mùi, có vị
đắng. Chế phẩm Morphine thường dùng trong y học ở Việt Nam là ống tiêm chứa
Morphine chlohydrate 10mg/ml, ngồi ra cịn có Morphine tactrate 30mg/1.5ml
trong tp nhơm có sẵn kim tiêm.


Morphin có 2 nhóm chức quan trọng;
Nhóm phenol ở C3
Nhóm rượu ở C6

Nhóm phenol ở C3
Akyl hố: Giảm tác dụng giảm đau, gây nghiện.  

VD: Codein = methyl morphin
Ester hố: Tăng tác dụng của morphin


Nhóm rượu ở C6:
Khử H cho nhóm ceton
Ester hố => Tăng độc tính, tác dụng/ Giảm thời gian tác dụng
Vd: Heroin: 
­ Acetyl hố cả hai nhóm trên.
­ Tăng mạnh tác dụng giảm đau, gây nghiện.
Morphin có nhiệt độ nóng chảy 2300C, ít tan trong nước. Trong cấu trúc của 
morphin, phần chính quyết định tác dụng dược lý của morphin là nhân thơm, nhân 
piperidin và liên kết ba carbon nối giữa nhân thơm và chức amin bậc 3.

Morphin là thuốc độc bảng A, gây nghiện, thuộc nhóm Alcaloid có nhân piperiden 
phenatren . Ít tan trong dầu, có gốc kiềm yếu, trọng lượng phân tử bằng 258 dalton,
pKa= 7.9; tỷ lệ ion hố là 79 ở pH = 7,4 và 85 ở PH= 7,2. Morphin gắn cố định với
protein huyết tương 30 ­35, chủ yếu là albumin.
TÁC DỤNG SINH HỌC


DƯỢC LỰC HỌC
Morphin có cấu tạo nhân piperidin – phenanthren, thuộc nhóm Opioat. Morphin
có 3 loại receptor: µ (muy),  κ  (kappa) và  δ  (delta). Các receptor của morphin
phân bố   ở  nhiều vị  trí trung  ương (sừng sau tủy sống, đồi thị, chất xám quanh
cầu não, não giữa, vùng chi phối hành vi) và ngoại biên (tủy thượng thận, tuyến
ngoại   tiết   của   dạ   dày,   đám   rối   thần   kinh   tạng).   Morphin   tác   dụng   vào   các
receptor theo cơ chế phức tạp vừa kích thích vừa ức chế.
Morphin tác dụng chủ yếu trên hệ thần kinh trung ương và trên ruột qua thụ thể
muy (1) ở sừng sau tủy sống. Mặc dù morphin có tác dụng tương đối chọn lọc trên

thụ thể muy, nhưng có thể tác động trên các thụ thể khác, đặc biệt ở liều cao. Tác
dụng rất đa dạng, bao gồm giảm đau, buồn ngủ, thay đổi tâm trạng, ức chế hô hấp,
giảm nhu động dạ dày ruột, buồn nôn, nôn, thay đổi về nội tiết và hệ thần kinh tự
động.
Tác dụng giảm đau do thay đổi nhận cảm đau và một phần do tăng ngưỡng đau.
Hoạt tính giảm đau qua trung gian nhiều là do tác dụng khác nhau trên hệ thần kinh
trung ương.
Morphin ức chế hơ hấp là do ức chế tác dụng kích thích của CO2 trên trung tâm hô
hấp ở hành não. Trong số các tác dụng của morphin trén tam thần, tác dụng rõ nhất
là gây sảng khối, nhưng cũng có người bệnh trở thàn trầm cảm hoặc ngủ gà, mất
tập trung và giảm trí nhớ. Morphin làm tăng giải phóng hormon chống bài niệu,
làm giảm lượng nước tiểu.
Morphin làm giảm trương lực và nhu động sợi cơ trơn dọc và tăng trương lực sợi
cơ vịng đường tiêu hóa (cơ thắt mơn vị, hậu mơn, Oddi, bàng quang).
Morphin có thể trực tiếp gây giải phóng histamin, do đó làm giãn mạch ngoại vi
đột ngột, như ở da, thậm chí gây co thắt phế quản. Tác dụng trên tim mạch thường
rất yếu, nhưng đơi khi, ở một số người bệnh, có thể xảy ra hạ huyết áp rất rõ.


Morphin gây nghiện rất nghiêm trọng. Sự quen thuốc cũng phát triển, người bệnh
đau nhiều, cần điều trị lâu dài, thường cẩn liều tăng dần mới khống chế được đau.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Morphin được hấp thu qua đường tiêu hóa, chủ yếuởtá tràng. Sinh khả dụng khi
uống là 25%, và tăng lên nhiều khi ung thư gan.
Trong huyết tương, khoảng 1/3 morphin liên kết với protein. Morphin không ở lâu
trong các mô, và 24 giờ sau khi dùng liều cuối cùng, nồng độ trong mơ cịn thấp.
Mặc dù vị trí tác dụng chủ yếu của morphin là ở hệ thần kinh trung ương, nhưng
chi có một lượng thấp qua được hàng rào máu - não.
Con đường chính chuyển hóa morphin là liên hợp với acid glucuronic để tạo thành
các sản phẩm cịn hoặc khơng cịn hoạt tính. Morphin - 6 - glucuronid, là chất

chuyển hóa chính của morphin và có tác dụng dược lý không khác morphin.
Ở thanh niên, nửa đời của morphin khoảng 2 - 3 giờ. Ở người cao tuổi, nên dùng
liều morphin thấp hơn, do thể tích phân bố nhỏ hơn, chức năng thận giảm ở người
tuổi.
Rất ít morphin thải dưới dạng không thay đổi. Thuốc thải trừ qua lọc ở cầu thận,
chủ yếu dưới dạng morphin - 3 - glucuronid, một chất chuyển hóa khơng cịn hoạt
tính; 90% được thải trừ trong ngày đầu tiên. Morphin và các glucuronid qua vịng
tuần hồn gan- ruột, do đó morphin có ở trong phân.
Ở trẻ sơ sinh và trẻ để non morphin thải trừ chậm hơn nhiều. Nửa đời tới 6- 30 giờ
ở trẻ đẻ non, 7 giờ ở trẻ dưới 1 tháng tuổi. Người bị bệnh gan cũng có thể thải
morphin chậm hơn và cần phải thận trọng về liều dùng để tránh ức chế hơ hấp do
tích lũy thuốc.
CHỈ ĐỊNH
Các trường hợp đau nhiều hoặc đau không đáp ứng với các thuốc giảm đau khác:
Đau sau chấn thương.


Đau sau phẫu thuật.
Đau ở thời kỳ cuối của bệnh, đau do ung thư.
Con đau gan, đau thận (nhưng morphin có thể làm tăng co thắt).
Đau trong sản khoa.
Phối hợp khi gây mê và tiền mê.
CÁCH DÙNG - LIỀU LƯỢNG
Dùng theo sựchỉdẫn của thầy thuốc
Liều uống trung bình là 1 viên 30 mg, cứ 12 giờ một lần. Liều thay đổi tùy theo
mức độ đau. Nếu đau nhiều hoặc đã quen thuốc, liều có thể tăng lên 60 mg, 90 mg
hoặc phối hợp morphin với thuốc khác để được kết quả mong muốn.
Đợt điều trị thông thường không quá 7 ngày.
Đối với người bệnh đã tiêm morphin, liều uống phải đủ cao để bù cho tác dụng
giảm đau bị giảm đi khi uống. Liều có thể tăng 50 - 100%. Cần thay đổi liều theo

từng người bệnh, do có khác nhau lớn giữa các cá thể.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Suy hô hấp.
Triệu chứng đau bụng cấp không rõ nguyên nhân.
Suy gan nặng.
Chấn thương não hoặc tăng áp
Trạng thái co giật.
Nhiễm độc rượu cấp hoặc mê sản rượu cấp.


Trẻ em dưới 30 tháng tuổi.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Khoảng 20% người bệnh buồn nôn và nôn. Phần lớn tác dụng không mong muốn
phụ thuộc vào liều dùng.
Nguy cơ các phản ứng kiểu phản vệ là do morphin có tác dụng giải phóng trực tiếp
histamin.
Nghiện thuốc có thể xuất hiện sau khi dùng liều điều trị 1 - 2 tuần. Có những
trường hợp nghiện chỉ sau khi dùng 2 - 3 ngày.
Hội chứng cai thuốc: Xảy ra trong vòng vài giờ sau khi ngừng một đợt điều trị dài
và đạt tới đỉnh điểm trong vịng 36- 72 giờ.
Thường gặp, ADR> 1/100
Tồn thân: ức chế thần kinh.
Nội tiết: Tăng tiết hormon chống bài niệu.
Tiêu hóa: Buồn nơn và nơn (khoảng 20%), táo bón.
Tiết niệu: Bí đái.
Mắt: Co đồng tử.
Ít gặp, 1∕1000
Thần kinh: ức chế hơ hấp, bồn chồn, khó chịu, yếu cơ.
Gan: Co thắt túi mật.
Hơhấp: Co thắt phế quản. Tiết niệu: Co thắt bàng quang.

Da: Ngứa.
Hiếm gặp, ADR< 1/1000


Tuần hồn: Hạ huyết áp thế đứng.
Thơng báo cho bác  sĩ  những tác dụng khơng mong muốn gặp phải khi sử  dụng
thuốc.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Khơng phối hợp với các thuốc IMAO, vì nếu phối hợp có thé gay truy tim mach,
tăng huyết áp, tăng thân nhiệt, dẫn đến hơn mê và tử vong. Morphin chỉ được dùng
sau khi đã ngừng thuốc IMAO ít nhất 15 ngày.
Các chất vừa chủ  vận vừa đối kháng morphin (như  buprenorphin, nalbuphin, or
làm giảm tác dụng giảm đau của morphin do chẹn cạnh tranh với thụ  thể. Rượu
làm tăng tác dụng an thần của morphin.
Các   dẫn   chất   khác   của   morphin,   các   thuốc   chống   trầm   cảm   cấu   trúc   3   vòng
(amitriptylin,   clomipramin),   các   kháng   histamin   H1   có   tác   dụng   an   thần,   các
barbiturat, benzodiazepin, thuốc liệt thần (neuroleptic), clonidin cùng dẫn chất, làm
tăng tác dụng ức chếthần kinh trung ương của morphin.
TƯƠNG KỴ
Morphin tương kỵ về mặt lý hóa với aminophylin, heparin, clorothiazid, các muối
của methicilin và nitrofurantoin.
THẬN TRỌNG
Morphin phải dùng với liều nhỏ nhất mà có tác dụng và càng ít thường xuyên nếu
có thể, để tránh nghiện. Nguy cơ nghiện thuốc cao nếu dùng thuốc liên tục trên 7
ngày.
Ngừng thuốc đột ngột sau khi dùng thuốc một đợt lâu, sẽ xuất hiện hội chứng cai
thuốc.
Thận trọng khi sử dụng cho người cao tuổi, người suy gan, suy thận, giảm nặng
tuyến giáp, suy thượng thận, sốc, người rối loạn tiết niệu - tiền liệt (nguy cơ bí đái),
hen, tăng áp lực nội sọ (chấn thương đầu), bệnh nhược cơ.



Thuốc làm giảm sự tỉnh táo, vì vậy khơng nên lái xe hoặc vận hành máy.
Thuốc gây phản ứng dương tính khi xét nghiệm doping trong thể thao.
Để giảm đau trong sản khoa, phải điều chỉnh liều để tránh ức chế hô hấp cho trẻ sơ
sinh.
SỬ DỤNG CHO PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ CHO CON BÚ
Thời kỳ mang thai
Các thuốc giảm đau kiểu morphin gây ức chế hô hấp ở thai nhi, do thuốc qua được
nhau thai. Thải trừ morphin ở thai nhi rất chậm. Không được dùng morphin cho
người mẹ vào 3- 4 giờ trước khi đẻ.
Nếu mẹ bị nghiện hoặc dùng morphin kéo dài trong khi mang thai, trẻ đẻ ra sẽ xuất
hiện hội chứng cai nghiện như co giật, kích thích, nơn và thậm chí tử vong.
Thời kỳ cho con bú
Nhiều thông báo trước đây cho biết chỉ có một lượng rất nhỏ morphin bài tiết vào
sữa mẹ và cịn chưa biết có ý nghĩa lâm sàng hay không. Những nghiên cứu mới
đây cho biết trẻ nhỏ bú mẹ nhận được khoảng 0,8% - 12% liều thuốc dùng cho mẹ.
Do đó, nên ngừng cho con bú, nếu mẹ dùng morphin.
TÁC ĐỘNG CỦA THUỐC KHI LÁI XE HOẶC VẬN HÀNH MÁY MĨC
Thuốc làm giảm sự tỉnh táo, vì vậy không nên lái xe hoặc vận hành máy.
SỬ DỤNG Q LIỀU VÀ CÁCH XỬ TRÍ
Triệu chứng
Ức chế hơ hấp, co khít đồng tử, hạ huyết áp, tăng thân nhiệt, hơn mê; có thể rất
nặng hoặc tử vong.
Xử trí


Hồi sức tăng cường tim và hô hấp ở đơn vị cấp cứu chuyên khoa, hỗ trợ hô hấp.
Điều trị đặc hiệu bằng các thuốc kháng morphin:
Nalorphin: 5 - 10 mg tiêm bắp hoặc tĩnh mạch, cứ 15 phút tiêm 1 lần, cho đến tổng

liều 40 mg.
Naloxon: Tiêm tĩnh mạch 0,4 mg, cứ 2 - 4 phút tiêm 1 lần nếu cần, cho đến tổng
liều không quá 4 mg.



×