Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vài trò, chức năng của triết học đối với đời sống của con người trong thời đại công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.58 KB, 12 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Triết học nhưng tựu chung các khái
niệm đều bao hàm một nội dung giống nhau là triết học nghiên cứu thế giới một
cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh
thể đó nói chung, của xã hội lồi người, của con người trong cuộc sống cộng
đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dang duy lý.
Như vây, Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Từ xưa đến nay Triết học luôn thể hiện sự thông thái. Ăng ghen cũng từng
nói “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận”, “nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh
dưới dạng năng lực bẩm sinh cảu người ta mà có thơi. Năng lực ấy cần phải
được phát triển hồn thiện, và muốn hồn thiện nó thì cho tới nay, khơng có một
cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”
Hê ghen và Mác từng nói “Những gì tinh túy nhất của tư tưởng nhân loại
đều được kết tinh ở trong Triết học”.Như vậy cũng có nghĩa là triết học đúc kết
những gì tinh túy nhất được coi là chân lý.
Chính bởi vai trị to lớn của triết học, đòi hỏi chúng ta phải khơng ngừng
nghiên cứu về nó.Bởi tư duy lý luận chỉ tồn tại dưới dạng khả năng, năng lực ấy
phải được rèn luyện, muốn phát triển, hồn thiện nó thì khơng còn cách nào
khác là nghiên cứu triết học một cách bài bản, khoa học.
Triết học cũng giống nhiều bộ môn khoa học khác, có rất nhiều chức năng
như: chức năng nhận thức, chức năng gợi mở, chức năng giáo dục, chức năng
thẩm mỹ, chức năng đánh giá… Trong Triết học có hai chức năng cơ bản được
đề cập nhiều nhất là chức năng Thế giới quan và chức năng Phương pháp luận
Do đó việc nghiên cứu để áp dụng các vai trị của triết học đối với đời
sống là vơ cùng quan trọng, khơng thể thiếu, vì đó là cơ sở, là động lực để phát
triển đất nước. Đó cũng là lý do mà người nghiên cứu cố gắng tìm hiểu, nghiên
cứu về vai trò của triết học đối với đời sống con người trong thời đại ngày nay
làm tiểu luận nghiên cứu cho mình.
Mục đích của đề tài là đưa ra những định hướng, trình bày các vài trị,


chức năng của triết học đối với đời sống của con người trong thời đại cơng
nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được mục đích đó người nghiên cứu
dùng biện pháp phân tích tổng hợp tài liệu nhằm thu thập, phân tích để đưa ra cơ


sở lý luân của Triết học trước Mác và triết học Mác – Lênin làm nền tảng từ đó
đi vào tìm hiểu, phân tích các chức năng, vai trị của Triết học.
Tiểu luận gồm các nội dung chính như sau:
Chương I: Triết học và các vấn đề cơ bản của Triết học
Chương II: Chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp luận của
Triết học
Chương III: Vai trò của triết học đối với đời sống, nhận thức của con
người


CHƯƠNG I
TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện khi con người có sự phân cơng lao động.
Theo quan điểm củaTriết học Macasxit triết học là một trong những hình,
là quy luật của những quy luật chung nhất của thái ý thức xã hội, là học thuyết
về những nguyên tắc chung nhất của sự tồn tạivà nhận thức của thái độ con
người đối với thế giới là quy luật của những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Với tư cách là mơt hình thái ý thức quan trọng nhất và cổ xưa
nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên với sự phát triển của tri thức nhân
loại.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới,
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người, phục vụ nhu cầu
cuộc sống, với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất, triết học ra đời trong điều

kiện: Khi con người đã có vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra
được cái chung trong muôn vàn cái sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Xã hội phát
triển đến hình thành tầng lớp lao đơng trí óc. Họ nghiên cứu, hệ thống hóa các
quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và từ đó triết
học ra đời.Như vậy triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với
mọi khoa học cụ thể.Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra
một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó.Triết học là sự diễn tả thế giới quan
bằng lý luận. Đối tượng mà triết học triết học nghiên cứu chính là những vấn đề
chung nhất của tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người
nói chung, tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
2. Vấn đề cơ bản của triết học:
Theo Ăng ghen vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: mặt bản thể luận và nhận thức
luận. Tức là:
- Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau,
cái náo quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?


2.1 Mặt bản thể luận:
Trả lời mặt thứ nhất là trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Việc trả lời câu hỏi này cho ta
biêt đươc lập trường triết học của người nói là duy vật hay duy tâm hay nhị
nguyên.
Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái
có trước và quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các
môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước

giới tự nhiên; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ
nghĩa duy tâm.
2.1.1 Chủ nghĩa duy vật:
Được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại: Đêmôcrit, Heraclit…mang tính
trực quan nên ngây thơ và chất phác, tuy cịn nhiều hạn chế nhưng với nguyên
tắc cơ bản là đúng. Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự
nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế.
- Chủ nghĩa duy vât siêu hình thế kỷ XV đến XVIII: Bêcơn, Hôpxơ, Lôcơ…
Từ sự phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu
máy móc chiếm vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Mác, Ăng ghen, Lê nin…là kết quả của
quá trình kế thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc
phục những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những
thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách
mạng triệt để và biện chứng khoa học, khơng chỉ phản ánh hiện thực đúng như
bản thân nó mà cịn là cơng cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó.
2.1.2 Chủ nghĩa Duy tâm:
Chia thành hai phái:
- Chủ nghĩa Duy tâm chủ quan:thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp
cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
- Chủ nghĩa Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức,
nhưng đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.


Thực thể tinh thần khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm;
tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới...
Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa

duy tâm tôn giáo, với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy
nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa duy tâm tơn giáo thì lịng tin là cơ sở chủ
yếu, đóng vai trị chủ đạo; cịn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư
duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.
2.1.3 Triết học nhị nguyên:
Vật chất và ý thức song song tồn tại, khơng có cái nào có trước, cả hai đều
là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị ngun có khuynh hướng điều hồ
chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên
thể hiện sự dao động ngả nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
2.2 Nhận thức luận:
Trả lời câu hỏi con người có nhận thức được thế giới hay không? Để trả
lời cho câu hỏi này đã có 03 học thuyết ra đời:
2.2.1 Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết):
Là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời một cách khẳng
định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới. Đại đa số các nhà triết
học (cả duy vật và duy tâm) đều cho rằng con người có khả năng nhận thức
được thế giới.
2.2.2 Hoài nghi luận:
Xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa
là tơi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những
người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức
đã đạt được và cho rằng con người khơng thể đạt tới chân lý khách quan.
Hồi nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy
tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa
nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tơn giáo.
2.2.3 Thuyết bất khả tri (thuyết khơng thể biết):
Là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hồi nghi luận. Theo thuyết này,
con người khơng thể hiểu được thế giới hay ít ra là khơng thể nhận thức được
bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngồi vì các hình ảnh về đối
tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ

phủ nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.


Phương pháp nhận thức thế giới của triết học đó là phương pháp biện
chứng duy vật và duy tâm, siêu hình.
- Phương pháp duy tâm, siêu hình là phương pháp nhận thức đối tượng ở
trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác ở giữa các mặt
đối lập với nhau có một ranh giới tuyệt đối, nhận thức đối tượng trong trạng thái
tĩnh, nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự
biến đổi nằm bên ngoài đối tượng.
- Phương pháp biện chứng: nhận thức đối tương trong các mối liên hệ với
nhau, nhận thức chúng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà
nguồn gốc của sự thay đổi đó là đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn nội tại của chúng.
Đây được coi là công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế
giới.


CHƯƠNG II
CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN, CHỨC NĂNG PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA TRIẾT HỌC
1. Chức năng Thế giới quan:
Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về
bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.
Thế giới quan Triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống, các phạm
trù, quy luật đóng vai trị như những bậc thang trong quá trình nhận thức.Như
vậy triết học đươc coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát
triển của thế giới quan.Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng vai
trị định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng

đồng trong lịch sử.
Chức năng thế giới quan của Triết học bàn về các quan điểm, hệ thống lý
luận của Triết học về thế giới.Nhà triết học Kant người Đức cũng từng đúc kết
“Tựu chung lại mọi vấn đề của triết học là vấn đề về con người.” Với các câu hỏi”
+ Tơi có thể biết gì?
+ Tơi cần phải làm gì?
+Tơi có thể hy vọng gì?
+ Vậy con người là gì?
Đây là những câu hỏi mà bất kỳ ngành khoa học nào cũng muốn nghiên
cứu để trả lời
- Chức năng thế giới quan của triết học tồn tại với thế giới xung quanh, dù
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân
mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế
giới quan.
- Chức năng thế giới quan của Triết học là nhân tố định hướng cho quá
trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như mơt thấu kính qua đó
con người xác định mục đích, ý nghĩa của cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt
mục đích đó.
- Chính trình độ của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người nhất định.
- Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận cảu thế giới quan làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên tổng kết kinh nghiệm


và thực triễn và atri thcs do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan
của triết học.
Chủ nghía duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới
quan của các hệ tư tưởng đối lập.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp,

những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Do đó:
- Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực
giúp con người sáng tạo trong hoạt động.
- Tương tự, khi thế giới quan sai lầm, tức có nghĩa là ta nhìn sự vật hiện
tượng khơng đúng với bản chất vốn có của nó, sẽ làm cho chúng ta thụ động
hoặc sai lệch trong hoạt động
- Nghiên cứu Triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
2. Chức năng Phương pháp luận:
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có
tính ngun tắc chỉ đạo việc tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp.
Phanxit Bêcơn từng khẳng định “Phương pháp là ngọn đèn soi cho người
ta đi trong đêm”, hay “người thọt mà biết đường thì nhanh hơn người lành mà
khơng biết đường, càng không biết đường càng xa dời chân lý”.
Đêcac cũng nói: “Thà khơng đi tìm chân lý cịn hơn làm việc đó mà
khơng có phương pháp”.
Chính triết học đóng vai trò quan trọng cả trong nghiên cứu, cũng như
trong thực tiễn.Người nào nắm được bí quyết trong hướng đi người đó sẽ thành
cơng. Triết học giúp người ta lựa chọn phương pháp, cách đi đúng, thích hợp
Bất kỳ một trường phải triết học nào cũng có chức năng định hướng, chỉ
là định hướng đó đúng hay sai mà thơi.Lựa chọn hướng đi nào, phương pháp
nghiên cứu nào tùy thuộc vào khả năng của mỗi người.
Chính việc nghiên cứu triết học giúp chúng ta có được phương pháp luận
chung nhất trở lên năng động, sáng tạo trong các hoạt động phù hợp với xu thế
chung của sự phát triển.


CHƯƠNG III
ĐÁNH GIÁ CÁC VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG,

NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI
Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ
giữa lý luận và phương pháp nên nắm vững thế giới quan khoa học của triết học,
đặc biệt là triết học Mác-Lenin sẽ là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Nắm vững các nguyên lý, các cặp phạm trù, các quy luật của triết học
giúp ta có khả năng nhận thức đúng đắn cả thế giới tự nhiên cũng như đời sống
xã hội, tư duy con người.Từ đó xác định được phương pháp luận khoa học.
Trong quá trình xem xét các sự vât hiện tượng cần đặt nguyên tắc khách
quan lên trên hết, đồng thời phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng
thời nó cũng giúp ta tránh được thái độ chủ quan, tùy tiện trong việc vận dụng lý
luận và hoạt động thực tiễn.
Đối với các ngành khoa học cụ thể, triết học cũng có mối quan hệ biện
chứng như: các khoa học là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học,
còn triết học cung cấp những công cụ, phương pháp luận phổ biến, đinh hướng
sự phát triển của các ngành khoa học cụ thể. Trong thời đại cách mạng cơng
nghiệp như ngày nay thì mối quan hệ đó càng trở lên đúng đắn hơn.Bởi vậy, hơn
bao giờ hết để đẩy mạnh khoa học, công nghệ phát triển thì những người nghiên
cứu triết học và các nhà khoa học cùng phải có sự hợp tác chặt chẽ.
Từ xưa đến nay, những tri thức triết học không chỉ giúp con người nâng
cao năng lực nhận thức mà còn giúp con người nâng cao năng lực hành động vì
“Lý trí khơng chỉ là năng lực nhận thức tốt nhất mà còn là năng lực hướng dẫn
hành động của con người”. Điều này cũng khẳng định vai trò phương pháp luận
to lớn của triết học. Chính triết học cung cấp cho con người các quan điểm, các
nguyên tắc xuất phát từ những phương pháp để tiến hành hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.
Khi triết học mang lại cho con người những cái nhìn tổng thể, khái qt,
đúng đắn thì việc đó cũng đồng nghĩa với việc triết học đã giúp con người có
được sự định hướng đúng trong hành động, củng cố tư duy, tăng thêm quyết
tâm, nghị lực để hồn thành cơng việc với kết quả tốt nhất có thể.

Triết học cũng mang lại cho con người những khả năng tư duy mềm dẻo,
sự nhanh nhạy, nhạy bén để hiểu được về thế giới và hiểu được vị trí, vai trị của


mình trong thế giới bao la ấy. Những kiến thức, hay chân lý chỉ được kiểm
nghiệm một cách chính xác ở thực tiễn. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của Leenin đã đưa ra 04 kết luận
trong đó có viết: “thực tiễn là nguồn gốc, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức,
kiểm tra chân lý. Thực tiễn được hiểu là tồn bộ hoạt động vật chất mang tính xã
hội của con người”. Bởi vậy, qua thực tiễn những kiến thức mà ta tiếp thu được
qua các học thuyết của triết học dân được kiểm nghiệm, từ đó giúp ta rút ra
những bài học quý báu, đồng thời dự báo được những sự biến động của xã hội
trong tương lai.
Trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như ngày nay rất cần tiếp
thu những tinh hoa, giá trị của nhân loại đã tích lũy từ bao đời, đồng thời cũng
khơng làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc. Tại Nghị quyết Trung ương V
khóa VIII cũng khẳng định “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đảng ta cũng xác định, nước ta đang trong thời kỳ
quá độ đi lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN.Điều này khơng có nghĩa là ta bỏ qua
mọi thành tựu về khoa học mà các nước Tư bản chủ nghĩa đã đạt được, mà chỉ là
bỏ qua chế độ chính trị của bộ máy nhà nước TBCN mà thơi.
Nghiên cứu một cách có hệ thống về triết học giúp chúng ta rút ra nhiều
bài học quy báu, các bài học mà triết học đúc kết ra không chỉ đơn thuần là
những bài học thơng thường mà đó cịn là những bài học được đúc rút một cách
tổng quát hơn, chung hơn, sâu sắc hơn để từ đó tìm ra cái tất yếu, tìm ra cái đóng
vai trị chủ đạo chi phối tồn bộ quá trình, những cái chung nhất, cái phù hợp
nhất tránh vận dụng một cách máy móc mà cịn tùy thuộc cả vào các điều kiện tự
nhiên, xã hội.
Như vậy có thể nói, triết học khơng chỉ giúp con người có được cách nhìn
nhận đúng đắn thế giới mà cịn giúp con người có được khả năng đánh giá

những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà
cuộc sống đặt ra liên quan đến từng cá nhân cũng như đến toàn xã hội và trong
quan hệ với thiên nhiên. Triết học vạch ra những nghịch lý mà con người đang
phải đối diện, đồng thời cũng góp phần chỉ ra lối thốt khỏi những biến đổi thế
giới nhằm hướng tới mục tiêu tất cả vì con người và hạnh phúc của con người.


KẾT LUẬN
Tóm lại Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về
thế giới; về vị trí vai trị của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trị
hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố
và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Việc nghiên cứu hai chức năng cơ bản của Triết học là chức năng thế giới
quan và chức năng phương pháp luận, giúp ta hiểu được triết học đã, đang và sẽ
trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự, cải tạo tự nhiên.Vì suy đến
cùng thì mục đích cuối cùng của sự nhận thức là để phục vụ hoạt động thực tiễn,
cải tạo tự nhiên, xã hội phục vụ sự nghiệp giải phóng con người của những lực
lượng xã hội tiến bộ.
Nhìn chung để áp dụng thành cơng các quan điểm của triết học vào cuộc
sống cũng như hoạt động thực tiễn địi hỏi người nghiên cứu phải có sự đào sâu,
tìm tịi để nắm rõ và hiểu kỹ về lý luận và phương pháp về lý luận để từ đó có
được những chính sách, chiến lược, định hướng… hài hòa, phù hợp với việc
phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2002), Giáo trình Triết học dành cho
Nghiên cứu sinh, cao học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
[2]: CácMac và Ăng ghen (1995) Lời tựa. Toàn tập.
[3]: GS. TS Nguyễn Trọng Chuẩn (2006) (Về vai trò của Triết học trong

giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay), Tạp chí Triết học.



×