Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bình giảng khổ thơ đề từ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.04 KB, 8 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
BÌNH GIẢNG KHỔ THƠ ĐỀ TỪ TRONG BÀI TIẾNG HÁT CON TÀU
CỦA CHẾ LAN VIÊN
BÀI MẪU SỐ 1:
Chế Lan Viên (1920-1989) là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới 1930- 1945.
Sau này ông tham gia cách mạng và trở thành nhà thơ lớn của nền thơ hiện đai. Ơng được
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1 – 1996). Thơ Chế Lan Viên có
phong cách rõ nét và độc đáo, nổi bật là chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa
dạng, phong phú của thế giới hình ảnh được sáng tạo bởi một ngịi bút thông minh tài hoa.
Tiếng hát con tàu là một trong nhiều bài thơ đặc sắc của ông, rút từ tập Ánh sáng và phù sa
– 1960. Tiếng hát con tàu là hình ảnh có tính chất biểu tượng – biểu tưởng cho con tàu tâm
tưởng, cất tiếng hát về lịng biết ơn, tình u, sự gắn bó với nhân dân, Đất nước; đó cịn là
tiếng hát của một tâm hồn thơ đã giác ngộ được một chân lẽ sống, chân lý nghệ thuật: Hãy
trở về với Đất nước, nhân dân, cội nguồn sáng tạo thơ ca chân chính. Chủ đề của bài thơ
trên hầu như được kết tinh ở bốn câu thơ đề từ:
Tày Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ cịn đâu?
Những câu thơ "đề từ” thường có ý nghĩa đặc biệt đối với một tác phẩm văn học. Nó nêu rõ
ý đồ nghệ thuật và khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà
bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, một bài thơ mang đậm cảm xúc không gian, vũ trụ, đất
nước đã được đề từ bằng câu thơ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".
Đối với bài thơ Tiếng hát con tàu, mấy câu thơ đề từ trên cũng có ý nghĩa nêu lên cảm hứng
chủ đạo. Với phong cách trí tuệ độc đáo, ngay câu thơ mở đầu, Chế Lan Viên đã tạo nên
được một câu thơ đặc sắc: "Một câu hỏi để xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Tây Bắc ư?"
và một câu trả lời rất hàm súc đầy tính chất khẳng định "Có riêng gì Tây Bắc" mà bất kỳ
một vùng đất nào của Tổ quốc, nơi đã để lại nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa yêu thương
trong kháng chiến chống Pháp; nơi có cuộc sống cần lao của nhân dân; nơi đang mong đợi
những cánh tay và tấm lòng đến khai phá dựng xây. Tố Hữu ngày ấy cũng đã viết:
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang.


Hỏi núi non cao đau sắt đau vàng?


… Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy …
Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên Đất nước reo vui bao tiếng gọi…
Và một khi nhà thơ – người nghệ sĩ – công dân đã cảm nhận hết được tình u và trách
nhiệm của mình là phải đóng góp vào sự nghiệp xây dựng kiến thiết Tổ quốc bằng những
sáng tác nghệ thuật "miêu tả chân thật và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới”, thì lúc
đó tâm hồn nhà thơ đã "hóa nhũng con tàu" náo nức trong hành trình về Tây Bắc, về với đất
nước, về với cuộc sống dựng xây cần lao và anh dũng của nhân dân. Cuộc sống xây dựng
cần lao và anh dũng ấy là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật thơ ca. Ở đây nhà thơ đã
khẳng định vai trò của hiện thực khách quan đối với nghệ thuật. Một nhà văn hiện thực Nga
thế kỷ 19 đã khẳng định "cái đẹp là cuộc sống". Hiện thực đời sống là nguồn cảm hứng vô
tận cho sáng tác, là đối tượng, là chất liệu; từ đó làm nên các sáng tác văn nghệ:
Vì thế mà nhìn trơng bạn trẻ hơn 10-15 tuổi!
Bài thơ anh, anh làm một nửa thơi
Cịn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó khơng là anh, nhưng nó là mùa
(Chế Lan Viên)
“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi, hãy nhặt những chữ của
đời mà góp lên trang" Nhưng nghệ thuật không phải tự dưng đến với nhà thơ nghệ sĩ. Nó chỉ
có thể nảy sinh, khi nghệ sĩ chân thành đón nhận và hịa nhập với cuộc đời.
Khi tiếng hát con tàu tâm tưởng của nhà thơ hòa nhập với tiếng hát rộn ràng khơng khí xây
dựng "bốn bề" của Tổ quốc, thì cũng chính là lúc người nghệ sĩ có thể soi vào tâm hồn mình
mà thấy cả đất nước, cả cuộc đời rộng lớn: "Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?". Cuộc đời
rộng lớn sẽ ùa vào thế giới cá nhân và chuyển hóa thành máu thịt tâm hồn cá nhân ấy, kết
tinh thành tác phẩm nghệ thuật. Ở trong bài thơ Chế Lan Viên cũng khẳng định: "Chẳng có
thơ đâu giữ lịng đóng khép". Trước các mạng, thời "Điêu tàn", Chế Lan Viên chỉ soi vào

mình nên chỉ thấy bóng mình mà khơng nhìn thấy Tổ quốc, nhân dân.
Đừng quên nỗi chua cay một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lịng có cũng như khơng
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy

Thơ xuôi tay như nước chảy xi dịng.


Cịn giờ đây hồn thơ ơng đã "thốt khỏi phịng nhỏ bé", "lượn trăm vịng trên Tổ quốc mênh
mơng", thì hình ảnh cuộc đời, đất nước mới được tượng hình trong thơ ông:
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào.
Thấy trời núi nghìn sơng diễm lệ
Như vậy là nhà thơ đã ý thức được một cách rõ ràng vai trò quyết định của hiện thực đời
sống, song cũng không hề coi nhẹ vai trò của chủ thể sáng tạo của người nghệ sĩ. Sáng tạo
nghệ thuật chân chính bao giờ cũng xuất phát từ một thôi thúc của nội tâm, từ khát vọng của
nhà văn muốn thế hiện trong tác phẩm những tâm tư, tình cảm, cá tính, phong cách của
mình. Lao động nghệ thuật mang tính đặc thù so với một số ngành lao động khác. Nó địi
hỏi phải có ngọn lửa từ bên trong, phải có sự thơi thúc của nội tâm. Vì thế những câu thơ
tưởng như có sự trái ngược, mâu thuẫn "lịng ta đã hóa những con tàu" rồi "tâm hồn ta là
Tây Bắc chứ còn đâu?". Những câu thơ ấy rất hợp lý thống nhất một cách chặt chẽ trong
quy luật tư tưởng và sáng tạo nghệ thuật. Đúng là chủ thể và khách thể, ngoại cảnh và nội
tâm, hướng ngoại và hướng nội. Tất cả đều có thế tìm thấy sự hịa hợp thống nhất trong hình
ảnh thơ giản dị mà rất sâu sắc của Chế Lan Viên. Câu thơ của ông cất lên như một sự ngạc
nhiên, ngỡ ngàng trước một phát hiện về chân lý sáng tạo nghệ thuật… Còn câu thơ "Khi Tổ
quốc bốn bề lên tiếng hát", chỉ có mấy chữ nhưng đã tái hiện được một cách khá chân thực
và sinh động hiện thực cuộc sống xây dựng lúc bấy giờ. Có riêng gì Tây Bắc mới náo nức
khơng khí xây dựng mà cả miền Bắc lúc bấy giờ đều lên tiếng hát xây dựng. Ở nơi này là
"Lúa chín rì rào"; ở nơi kia là "ngói đỏ trăm ga”, đâu đâu cũng "mặt đất nồng nhựa nóng cần
lao".
Thơ của Chế Lan viên là tiếng lòng của tác giả. Chỉ có bốn câu thơ đề từ mở đầu bài thơ

Tiếng hát con tàu mà có ý nghĩa như một tuyên ngôn nghệ thuật cho cả một thế hệ nhà thơ
tham gia xây dựng đất nước sau ngày hòa bình lập lại.


BÀI MẪU SỐ 2:
Tiếng hát con tàu được Chế Lan Viên viết năm 1960, trong tâp Ánh sáng và phù sa, nhân sự
kiện Đảng và chính phủ phát động đi xây dựng kinh tế ở niền núi Tây Bắc. Thực ra, sự kiện
kinh tế – xã hội chỉ là cái cớ để nhà thơ bày tỏ niềm khát vọng trở về với cuộc sống rộng lớn
của nhân dân, ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật. Hiểu điều này giúp ta hiểu được ý
nghĩa nhan đề Tiếng hát con tàu và khổ thơ đề từ của tác phẩm.
Thực ra, những năm 60 chưa có đường tàu nào, con tàu nào đi lên Tây Bắc. Hình ảnh con
tàu được nói đến trong nhan đề và ở trong một số khổ thơ là con tàu trong tâm tưởng mang
tính chất biểu tượng, lại đi lặp lại trong nhiều câu thơ, khổ thơ trở thành hình tượng nghệ
thuật của tác phẩm:
- Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
- Ngồi cửa ơ? Tàu đói những vầng trăng…
- Tàu hãy vỗ giùm ta đơi cánh vội
- Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
- Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu khơng mộng tưởng?
Đối với nhiều người thời kỳ ấy, hình ảnh con tàu nói lên khát vọng ra đi đến với nhân dân,
với những miền xa xôi để xây dựng đất nước. Đối với người nghệ sĩ, con tàu là biểu tượng
cho khát vọng vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé, quẩn quanh để đến với nhân dân và cuộc sống
mới, tìm đến nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Như vậy Tiếng hát con tàu là hình ảnh nhân hóa biểu tượng cho khát vọng lên đường say
mê náo nức. Dùng từ tiếng hát nhà thơ đã diễn tả được niềm vui, niềm hạnh phúc của tâm
hồn.
Bình giảng khổ thơ đề từ:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu,
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Nếu con tàu là biểu tượng cho khát vọng ra đi, thì Tây Bắc ngồi nghĩa là một địa danh cụ
thể cịn là biểu tượng cho những miền xa xơi của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà
nặng nghĩa nặng tình của nhân dân, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa nặng tình của


nhân dân, nơi đả khắc ghi những kỉ niệm không quên của đời người trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp vừa qụa, cũng là nơi đang vẫy gọi mọi người chung sức xây dựng cuộc
sống mới.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Với người nghệ sĩ nói chung, nhà thơ Chế Lan Viên nói riêng, Tây Bắc chính là tâm hồn, là
cuộc sống khi người nghệ sĩ biết mở rộng lịng mình với cuộc sống rộng lớn. Nói cách khác,
qua khổ thơ đề từ và cả bài thơ, Chế Lan Viên muốn khẳng định vai trò của cuộc sống với
sáng tạo nghệ thuật. Ý tưởng này được tác giả nhắc lại nhiều lần trong bài thơ.
Chẳng có thơ đâu giữa lịng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ.
Nếu bài thơ là tiếng hát lên đường thì khổ thơ đề từ là khúc dạo đầu mang tính khái quát tạo
âm điệu chung cho cả bài thơ. Đó là người nghệ sĩ phải dấn thân vào cuộc đời rộng lớn mới
mong tạo được sức sống cho ngòi bút.
Từ ý nghĩa nhan đề và khổ thơ đề từ ta hiểu được những hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống
trong bài thơ.
Sự độc đáo của khổ thơ đề từ chính là ở chỗ đã khái quát tư tưởng, cảm xúc của nhà thơ
trong bài Tiếng hát con tàu. Trong bài thơ, có nhiều hình tượng mang tính tượng trưng. Các
hình tượng ấy hoặc sẽ được mở rộng, phát triển, hoặc sẽ làm phong phú thêm cho các hình
tượng ở khổ thơ này: con tàu, tiếng hát, Tây Bắc.


BÀI MẪU SỐ 3:
Chúng ta từng biết đến một Chế Lan Viên siêu hình trước Cách mạng đã “từ thung lũng

đau thương” đến với “cánh đồng vui”, từ “cái tôi” cô đơn bế tắc đến với cuộc đời rộng lớn
của nhân dân, đất nước, cách mạng. Cuộc “trở về” ấy đã được Chế Lan Viên thể hiện trong
những vần thơ chan chứa niềm biết ơn trong tập Ánh sáng và phù sa mà Tiếng hát con tàu là
một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ được sáng tác nhân cuộc phát động nhân dân, nhất là thanh niên đi xây dựng khu
kinh tế mới ở miền núi Tây Bắc. Từ sự kiện kinh tế - chính trị này, Chế Lan Viên đã có dịp
bộc lộ những trăn trở, xúc động, và lịng biết ơn của mình đối với Tổ quốc, Nhân dân cùng
những suy nghĩ về ngọn nguồn sáng tạo của thi ca. Bài thơ hấp dẫn người đọc bởi chất trữ
tình - triết luận, bởi những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, mới lạ ngay từ nhan đề và lời đề từ.
Trước hết phải giải thích hình tượng con tàu.
Đây là hình ảnh mang tính biểu tượng. Trên thực tế, ta chưa có đường tàu lên Tây Bắc.
Nhưng Chế Lan Viên vẫn nghĩ tới hình tượng một con tàu. Con tàu ở đây tượng trưng cho
một cuộc hành trình. Vậy, Tiếng hát con tàu - nhan đề bài thơ - nghĩa là lời ca ngợi cuộc
hành trình.
Căn cứ vào nội dung bài thơ, ta có thể thấy thêm ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Cuộc hành
trình lên Tây Bắc, cũng là cuộc hành trình về với nhân dân, về với Tổ quốc và về với cội
nguồn của cảm hứng thi ca.. Cho nên, Tiếng hát con tàu là bài ca về cuộc hành trình với ý
nghĩa biểu tượng nhiều nghĩa như trên.
Chính Chế Lan Viên cũng đã từng nói: “Thực ra làm thơ chính là nói là viết về cái điều tỏa
ra trước thực tế chứ không phải bằng bản thân thực tế”. Khi viết bài thơ này, nhà thơ cảm
thấy “trong lòng rất day dứt... cảm thấy cuộc sống của mình sẽ chật hẹp bé nhỏ nếu khơng
hịa được với cuộc đời chung” (Chế Lan Viên). Con tàu - hồn thơ đang trong cuộc hành
trình về với nhân dân, thốt khỏi đời riêng nhỏ hẹp. Đây khơng phải hành trình lãng tử bơ
vơ mà là một chuyến tàu giục giã, hối thúc tràn đầy phấn hưng. Con tàu đã làm nên phần
nhạc của bài thơ mà năng lượng là niềm vui, là cảm xúc dạt dào, là “tiếng hát”. Con tàu là
biểu tượng cho khát vọng ra đi, đi đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc. Với Chế Lan
Viên, ra đi thực chất là trở về (Con đã đi nhưng con cần vượt nữa/ Cho con về gặp lại Mẹ
yêu thương) bởi vì trước đây nhà thơ đã đi quá xa (vào thế giới siêu hình), xa đến nỗi tưởng
quên cả đường về. Chế Lan Viên đã đi theo cách mạng cũng hết sức tự nhiên nhưng cịn
nhiều lực cản đặc biệt là phải vượt lên chính mình, vượt lên những “buồn rớt”, “mộng rớt”

trong tâm hồn để tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời, tìm thấy ngọn nguồn của sáng
tạo. Cuộc ra đi - trở về này được nhà thơ hình tượng hóa thành một chuyên tàu lên Tây Bắc,
nơi quê hương cách mạng, nơi đất nước đang gọi, nơi “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.


Con tàu là biểu tượng cho khát vọng lên đường. Tiếng hát biểu thị sự phấn chấn hăm hở, tin
yêu và tự hào. Có một thời chàng thi sĩ này đã khóc. Nhiều người nhầm chàng là hậu duệ
của Chế Bồng Nga bởi chàng trong thân phận của một người dân vong quốc đã khóc thương
cho sự đổ nát “điêu tàn” của đất nước Chiêm Thành. Trong thơ chàng, người ta nghe thấy
tiếng xương gãy, đầu rơi, tủy vọt, tiếng voi gầm ngựa hí, tiếng binh khí thành Đồ Bàn và
tiếng “muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”. Đến với cách mạng, người thi sĩ ấy đã thốt ra
khói “những tháp Chàm lẻ loi, bí mật” và sau một quá trình “nhận đường, “tìm đường” đã
cất lên tiếng hát, tiếng hát của lịng biết ơn vì Đảng, Bác, nhân dân, đất nước đã đem “ánh
sáng và phù sa” đến làm sống dậy một hồn thơ.
Tiếng hái con tàu là tiếng hát của một tâm hồn đang phấn chấn, hăm hở với khát vọng lên
đường đến những miền đất mới mà thực chất là trở về với nhân dân, đất nước - ngọn nguồn
của hồn thơ, của những sáng tạo.
Những nội dung trên đây của bài thơ đã được Chế Lan Viên dồn nén một cách cô đọng,
hàm súc trong bốn câu đề từ:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc
chứ còn đâu!
Trong các tác phẩm văn học, lời đề từ như một tín hiệu chỉ dẫn, lời mách bảo kín đáo con
đường khám phá tác phẩm. Tuy nhiên, khơng phải một lúc chúng ta có thể nhận thức được
hết ý nghĩa của lời đề từ. Muốn hiểu được lời đề từ phải nắm được nội dung tác phẩm. Vì
thế, lời đề từ và nội dung tác phẩm ln soi chiếu lẫn nhau đế vừa hiểu sâu tác phẩm vừa
nhận ra ý vị của lời đề từ vốn có hình thức như một câu đố:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Câu thơ cho ta thấy Tây Bắc là một biểu tượng, tượng trưng cho nhiều địa danh, mang

nhiều ý nghĩa. Tây Bắc là cách nói về Tổ quốc, về Nhân dân, và với tác giả thì Tây Bắc cịn
có ý nghĩa là nơi ngọn nguồn của cảm xúc mà lí tưởng, cuộc đời nhà thơ đang hướng tới.
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Chế Lan Viên đã thống nhất nhiều sự việc trong một biểu tượng: Con tàu - Tâm hồn ta - Tây
Bắc - Tổ quốc - Nhân dân - Cội nguồn sáng tạo... để lôi cuốn độc giả. Khi “phá cơ đơn ta
hịa nhập với người”, khi mỗi con người phá bỏ chủ nghĩa cá nhâu, phá bỏ những quan niệm
nghệ thuật siêu hình bế tắc để hịa nhập với cộng đồng, với thế giới, với nhân dân đất nước


thì tâm hồn mỗi con người sẽ trở thành một thế giới không tầm thường chút nào. Tâm hồn
anh thuộc về nhân dân, được sinh ra từ nhân dân, được nhân dân nuôi sông. Cuộc đời và thế
giới cá nhân đã hóa thân, chưng cất thành tâm hồn nhân dân. Vì thế tâm hồn anh có sự giao
cảm đặc biệt với muôn triệu tâm hồn. Chế Lan Viên đã nhiều lần nói về sự thay đổi kì diệu
này:
“Tâm hồn tơi khi thế giới soi vào Thấy nghìn núi trăm sơng diễm lệ”.
Hoặc:
“Sợi chỉ lịng anh nghèo có một màu
Xe vào cái đa sắc của cuộc đời thèm chói lọi”
Ở Tiếng hút con tàu, Tây bắc cũng soi vào hồn nhà thơ và nhìn vào tâm hồn nhà thơ bỗng
phát hiện ra Tây Bắc đâu chỉ là một miền đất, một vùng quê. Tây Bắc còn sống trong mỗi
con người với những kỉ niệm “máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Tây Bắc là “anh con”, “em
con”, là “mế”, là “bản sương giăng", “đèo mây phủ” là vắt xôi nuôi quân êm giấu giữa
rừng”, là cuộc sông gian lao nhưng trọng nghĩa tình, là tất cả những kỉ niệm tươi rói để kết
lại thành: “Tây Bắc - người là mẹ của hồn thơ”.
Lời đề từ chính là một lời tâm niệm: tâm hồn ta thuộc về nhân dân, đất nước. Nhìn vào tâm
hồn thấy nhân dân, đất nước. Soi vào đất nước, nhân dân lại thấy được lịng mình. Ra đi đến
với cuộc đời, đến với đất nước, nhân dân cũng chính là tìm đến tâm hồn đích thực của mình
với những tình cảm trong sáng, những nghĩa tình sâu nặng. Đó chính là ngọn nguồn của
sáng tạo bởi “chẳng có thơ đâu giừa lịng đóng khép”.

Tiếng hát con tàu có vẻ đẹp hài hòa giữa cảm xúc và suy tư, giữa tình cảm và trí tuệ. Đây
cũng là đặc điểm phong cách Chế Lan Viên trong Ánh sáng và phù sa.



×