Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Phân tích tác phẩm Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.1 KB, 22 trang )

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ĐẠI CÁO BÌNH NGƠ CỦA NGUYỄN TRÃI
Đề 1:
Bình ngơ đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc
Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một
bản tuyên ngôn độc lập.
Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân
Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản cơng. Đến mùa đơng 1427, sau khi đập tan mười năm vạn
quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hồn tồn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngơi
Hồng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố
cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang
một giai đoạn xây dựng hồ bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan
chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.
Trước hết, Bình ngơ đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân
dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng
chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Nhìn đại thể, Bình Ngơ đại cáo có thể chia làm bốn phần:
Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân
tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang
xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).
Phần 3. Mơ tả q trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban
đầu (q trình chiến đấu), những chiến cơng hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp
theo đến củng là chưa thấy xưa nay).
Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất
nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết).
Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngơ đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam
là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện.
Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi khơng khí
trang nghiêm lịch sử.


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác


Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập
của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sơng
nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải,
làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử
dụng cách diễn đạt sóng đơi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một
bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên
người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được
diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như
ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến cơng huy hồng (Cửa
Hàm Tử bắt sống Toa Đơ- Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này,
Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền
thơng oanh liệt của dân tộc.
Bình ngơ đại cáo là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao
Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu
kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung
đất không tha:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hồn tồn khơng phải là cách diễn đạt cường
điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác

người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vơ tội. Ngồi
ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép
xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm
vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê
gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm
trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo
nhóc thay kẻ gố bụa khơn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng
cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều khơng chịu được. Đau
xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.
Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân
danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình
trước thần dân: Đau lịng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược
thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: qn giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta
mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương
thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện


quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng
đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng
ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực
tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận.
Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.
Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân.
Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây,
Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận
đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, qn ta thi càng
đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng

Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thốt thân.
Ở giai đoạn hai, qn ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai
trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc
thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên
cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về
sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng –
Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi
người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất
ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng
giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phịng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn
dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,


Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình
ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mịn
Voi uống nước, nước sơng phải cạn,
Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim mng
Cơn gió to trút sạch lá khơ,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và
từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh
bỉ:
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lịng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thơng, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước
mà vẫn tim đập chân run.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu
của đồng bào và của trời đất tổ tơng khơn thiêng ngầm giúp đỡ.
Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được
diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau
bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo
mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hoá, giọng điệu linh hoạt,
diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm
khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn.



Đề 2:
DÀN Ý
1. Mở bài:
- Sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của quân Minh,
cuộc kháng chiến của quản dân Đại Việt đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm ròng rã
phải chịu đựng thảm khốc dưới ách cai trị tàn bạo của quản xâm lược.
- Thừa lệnh của chủ soái Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết Dại cáo bình Ngỏ đổ tổng Kết CUỘC kháng
chiến vĩ đại, báo cáo rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết.
- Với nghệ thuật chính luận hùng hổn và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ốc tày trời
của giặc Minh, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khói nghĩa Lam Sơn.
2. Thân bài:
* BỐ cục bài vãn gổm 5 đoạn:
+ Đoạn 1: Từ đầu... đến chứng cớ còn ghi: Khẳng định tư tưởng nhản nghĩa và chân lí về chủ
quyền độc lập của quốc gia Đại Việt.
+ Đoạn 2: Tử Vừa rồi... đến Ai bảo thẩn nhân chịu được?: Tô' cáo và kết án tội ác tày trời của
giặc Minh.
+ Đoạn 3: Từ Ta đây... đến lấy lí địch nhiều: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và
những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.
+ Đoạn 4: Từ Trọn hay... đốn xưa nay: Quá trình mười năm kháng chiến và thắng lợi vẻ vang.
+ Đoạn 5: Phẩn còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vả lời tun bố
hồ bình.
* NỘI dung bài Đại cáo bình Ngơ:
+ Ngun lí chính nghĩa của Nguyễn Trãi:
- Bài cáo mở đầu bằng nguyên lí chính nghĩa dựa trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà Nguyễn
Trãi rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
- Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên nển tảng tinh

thương và đạo lí. Theo Nguyễn Trãi, trước hết muốn yên dân thì phải lo trừ bạo để cho dân dược
sổng thanh bình, hạnh phúc. Cứu nước tức cứu dân bởi nuớc với dân là một.
- Tư tưởng nhãn nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Phân định rạch ròi ta lả chinh
nghĩa, giặc lả phi nghĩa. Chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo li nhân nghĩa.
- Bằng giọng văn hào hùng, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng tụ hào, tự tôn về truyền thống vãn hiến
lâu đời của dân tộc ta. Quốc gia Đại Việt có cương vực, ranh giới rõ ráng, có phong lực tập quán
riêng, từ lâu đời đã tồn tại song song với các quốc gia phương Bác. Các triều dại vua nước Nam
xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải lả chư hầu. Tư cách độc lập. chủ quyển quốc gia
của dân tộc Đại Việt lả một chân lí tất nhiên, khơng cố bạo lực nào xâm phạm nổi.


- Tác giả dã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những thất bại thảm hại của Triệu Tiết,
Toa Đố, ô Mã Nhi (các tướng giặc). Đổng thời khẳng định chiến thắng ln đứng về phía những
người đấu tranh bảo vệ chính nghĩa.
+ Tó cáo tội ác dã man của giặc Minh:
- Trước hết, tác giả vạch trẩn âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối
cùng là đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh.
- Nguyễn Trãi vạch trần ốm mưu cướp nước đã có từ lâu, vạch trần luận điệu bịp bợm “phù Trấn
diệt Hổ", để "mượn gió bẻ măng" cướp đất nước ta của chúng.
- Nguyễn Trãi khơng tố cáo chủ trương đổng hố thâm độc mà tố cáo chính sách cai trị hố khắc,
tham tàn của giặc Minh : Vơ vét sản vật quý báu, bóc lột sức người, sức của bằng thuê' má, phu
phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại môi trường sống, tân sát dân chủng vô tội không biết ghẽ
tay.
- Tội ác chất chồng của giặc Minh và khối căm hờn chất chứa của nhân dân ta đã được Nguyễn
Trãi đúc kết bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bần thay, nước Đông Hải không rủa sạch mùi.
■ Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc); lấy cái vô
cùng (nước Dông Hải) so sánh với cái vô cùng (sự dơ bẩn của giặc). Câu văn đẩy tính hình tượng
khắc hoạ vả nhấn mạnh tội ác của quân thù; đổng thời thể hiện thái độ căm phẫn và khinh bỉ của

tác giả.
+ Hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa qn Lam sơn vả những khó khơn trong buổi đẩu dấy nghiệp:
- Hình tượng lãnh tụ Lê Lợi chủ yếu được khắc hoạ trong những ngày đấu dấy nghiệp đầy gian
khổ. Trong hình tượng Lơ Lợi có sự thống nhất, hoả hợp giữa con người bình thường và thủ lĩnh
nghĩa quân, ổng xứng đáng là linh hổn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua hình tượng Lẻ Lợi,
Nguyễn Trãi nói lẽn tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa chống quân Minh.
- Những ngày đầu khởi nghiệp đầy gian nan, vất vả bởi sự chênh lệch quá lớn trong mổi tương
quan giữa ta và địch. Cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn, thử thách và ngày càng 'ôn
mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
- Lê Lợi thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chù. Trong tâm trí ơng ln canh cánh mối lo
đánh đuổi giặc thù để cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ lầm than. Lê Lợi tự tin, tự nguyện
đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai minh. Nhiệt huyết cứu nước đã trở thành hoài bão cao
đẹp của ông. Tài năng của Lê Lợi thể hiện qua ý chí, quyết tâm kháng chiến và ơng đã tìm được
con đường cứu nước đúng đắn.
+ Nguyên nhân dẫn tới thảnh công của sự nghiệp cứu nước:
. - Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích
chiến đấu là nhằm mưu cẩu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến


lâu đới của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yêu tổ quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của chù tướng Lê Lợi.
- Là truyển thống đoàn kết trên dưới một lịng ; là chiến lược đánh giặc vơ cùng linh hoạt vả hiệu
quả của nghĩa quân.
- Tài năng của Lê Lợi thể hiện qua ý chí, quyết lâm đánh giặc cửu nước, qua thái độ trân trọng và
sử dụng người tài, khả nàng thu phục nhân tâm và tài thao lược xuất sắc, đưa ra đường lối kháng
chiến sáng suốt và đúng đắn. Lê Lợi đã dùng chiến lược trướng kì kháng chiến, lấy thoi gian ủng
hộ mình. Trong quán sự, lúc đầu ông dùng chiến thuật lấy 'đoản binh” chổng “trường trận". Đánh
mai phục, đánh bát ngờ, dựa vào địa thế núi sống hiểm trở, dựa vào lòng dản tận tinh giúp đỡ.
+ Quá trinh kháng chiến gian khổ và thắng lợi vẻ vang:
- Nguyền Trãi đã vẽ nên toàn cảnh về những ngày tháng cả dân tốc Đại Việt song trong không khi

chiến đấu sôi sục, khẩn trương. Khi tái hiện giai đoạn hai của cuộc kháng chiến, tác giả hào hứng
miêu tả khí thế đạp trên đầu thú của nghĩa quân và sự thất bại thảm hại của giặc Minh xám lược.
Thơng qua đó khẳng định tính chất chính nghĩa và truyền thống nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn
- Trong đoạn văn này, từ hình tượng đến ngơn ngữ, từ máu sắc tới âm thanh, nhịp điệu đều mang
đậm tính chất anh hùng ca. Độ dải ngắn khác nhau của các câu văn và hàng loạt hình ảnh so sánh
được tác giả vận dụng rất linh hoạt nhằm đặc tả khí thế lấn công như vũ bão của quân ta.
- Thất bại không thể tránh khỏi của giặc cũng được tác giả khắc hoạ tài tinh bằng thù pháp liệt kê
chinh xác.
- Truyển thống nhân nghĩa và tư tưởng hoà binh của dân tộc Đại Việt được thể hiện rất rõ trong
đoạn này. Giặc đại bại, thế lòng trời ta mở đường hiểu sinh, cấp thuyển, cấp ngựa cho chúng về
nước. Thế của ta lả thế của người chiến thắng:
Họ đã tham sống sợ chết mà hồ hiếu thực lịng;
Ta lấy tồn quản la hơn, đổ nhản dân nghỉ sức.
- Đây cũng là tẩm nhìn chiến lược sáng suốt của Lê Lợi, tạo cơ sở cho một nén hồ bình lâu dài
giữa hai nước. Nguyễn Trãi khẳng định:
Chẳng những mưu kế kì diệu,
Cũng là chưa thấy xưa nay.
+ Ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến và 101 tuyên bố hoà binh:
- Trong đoạn kết của bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt chủ tướng Lô Lợi trịnh trọng tuyên bố: Chủ
quyền độc lập của quốc gia Đại Việt đã dược lập lại, một thời ki mới của lịch sử đã được mờ ra:
Xã tác từ đây vững bền,
Giang sơn lừ đây đổi mới.
■ Niềm vui to lớn này là kết quả tất yếu của bao nhiêu gian khổ, hi sinh xương máu, của bao
nhiêu chiến thắng của quân dân Đại Việt:


Kiền khôn bĩ rối lại thái,
Nhật nguyệt hối rổi lại minh.
Mn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục sạch làu.
Xa gần bả cảo,
Ai nấy đều hay.
- Trong lời tuyên bố kết thúc chiến tranh, cảm hứng của Nguyễn Trãi về nền độc lập dân tộc và
tương lai tươi sáng của đất nước đã hoả quyện với niềm tin vào quy luật vận động tất yếu của lịch
sử. Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện quyết tâm xây dựng nền thái bình mn thuở của nhân dân Đại
Việt.
3. Kết bải:
- Bài Đại cao bình Ngơ có sự thống nhất hài hồ giữa yếu tố chính luận và yếu tố nghệ thuật,
nhằm tổng kết cuộc kháng chiến vô cùng gian lao và tuyệt vời anh dũng của quân dân Đại Việt
chống giặc Minh xâm lược.
- Kiệt tác nảy là niểm tự hào võ biển của dàn tộc bởi nó truyền lại cho muôn đời con cháu nhiệt
tinh yêu nước, thương dân, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, tư tưởng nhân nghĩa, hoả binh...
- Bài cáo tuy lấy lời Lê Lợi nhưng đó là tư tưởng, tinh cảm, cuộc sống, máu xương của chinh bản
thản Nguyễn Trãi. Trôn cơ sở chân lí chinh nghĩa tất thắng. Nguyễn Trãi đã viết nên áng "thiên cổ
hùng văn", giống như một tượng đài chiến thắng hoành tráng, cao vút giữa bầu trời nước Việt.
I. BàI LÀM
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng
giặc vương Thơng buộc phải giảng hồ, chấp nhận rú' quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh
của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của
giặc Minh, mở ra kỉ ngun hồ bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi
viết Đại cáo bình Ngơ. Đây là một bản tổng kết về cuộc khảng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi
cho tồn dân được biết. Đại cáo bình Ngơ được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ
Thần của Lí Thường Kiệt, xứng đảng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước
ta.
Với nghệ thuật chinh luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tinh sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời
của kẻ thù xâm lược, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tồn bộ
nội dung Dại cáo bình Ngơ được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lí vế chủ
quyền độc lập của nước Đại Việt.
Bố cục của bài cáo gồm 5 đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu... đến chứng cớ còn ghi: Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí vể chủ quyển
độc lập của quốc gia Đại Việt. (Nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược).
Đoạn 2: Từ Vừa rồi... đến Ai bảo thần nhân chịu được: Tô' cáo và kết án tội ác tày trời của giặc
Minh.


Đoạn 3: Từ Ta đây... đến lấy ít địch nhiều: Hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quản Lam Sơn và những khó
khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.
Đoạn 4: Từ Trọn hay... đến xưa nay: Quá trinh mười năm kháng chiến gian khổ và thắng lợi vẻ
vang.
Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời tun bố
hồ binh.
Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi
quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngơ ?TỪ Ngơ xuất hiện từ khi nhà
Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngơ nhập vào vốn
ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc
phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi dã cố ý dùng cách gọi mà
nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình.
Đoạn 1: Đạo lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi mỏ đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nén tảng là tư tưởng thân
dân mà ông rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân diếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và
đạo lí. Điếu đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới
rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Theo ỏng, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được
sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hồ bình.
Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con
đò chung chung mà đã cụ thể ra là manh, lệ (kè đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là
nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đổng nghĩa với giày xéo

nhân dân Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là
một.
Nhân nghĩa khơng cịn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lí tưởng xã hội,
một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vi thế phải chăm lo cho dân
chúng được no ấm, bình yên.
Tư tưởng nhản nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược,
chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá
của địch và phân định rạch ròi ta là chinh nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tốn
tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng lả một chân lí khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lịng tự hào, tự tơn về đất nước
có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đả chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác
nhau,
So na hào kiệt đời nào .
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ
Thần), từ lâu đời đã song song tổn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng
khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là
chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định
Đại Việt là quốc gia cỏ phủ quyển độc lập, tự do.
So với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của
Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm vể quốc gia và dân tộc. Lí Thưởng Kiệt với bài Thơ
Thần cũng nhấn mạnh chù quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc

xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi
dã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đẻ'chẳng khác gì các đời vua của
Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hồn tồn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng
nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng khơng viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn
hiến, tức nói đến nển văn hố của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc
với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyển của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên,
khơng có bạo lực nào xâm phạm nổi- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính
những chứng cứ cịn 0/7/trong lịch- sử:
Vậy nên:
Lưu Cung tham cơng nơn thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Của Hàm Tử bất sổng Toa Dô,
Sông Bạch Dàng giết tươi Ó Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ỷ:
những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đổng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng vể phía
những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng
hổn và sắc sảo.
Đoạn 2: Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh.
Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm
cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như


rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản
cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.
Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối
cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lịng dân ốn giận.
Qn cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nguyễn Trãi vạch trẩn âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đổng thời vạch
trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hổ”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Hổ cướp
ngơi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ.
Những từ như nhàn (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của
chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên
lập trường dân tộc, nhưng khi tô' cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn
Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất án tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa
diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như
khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.
Ở Dại cáo bình Ngơ, Nguyễn Trải khơng đi sâu vào việc lố cáo chủ trương đổng hoá thâm độc mà
tố cáo những -chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các
sản vật q báu mà cịn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và
huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam
sống trong tinh cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trôn rừng, dưới biển, đúng như lời bài
cáo đã nêu:
Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế,
Gãy binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khố sạch khơng dầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập, thuổng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi
rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,



Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống cơn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vơ tội là hình ảnh kẻ thủ xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng
há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nồ chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát
máu của quân xàm lược.
Để diễn tả tội ác chất chổng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã
kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô
cùng {nước Đông Hải) để nói cái vơ cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã
giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con 'đường duy
nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thẩn nhân chịu được ?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hổn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sơi, khi thì cảm
thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, cám tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những
cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngơ chứa đựng những
nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngơn độc lập” bởi chính những nội dung đã phản tích ở
trên.
Đoạn 3: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy
nghiệp.
Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đẩu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự
sự kết hợp VỚI trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành cơng hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy
nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hồ giữa con người bình thường và thủ tĩnh nghĩa
quân. Lô Lợi xứng đáng là linh hổn của cuộc khởi nghĩa bởi ơng có khả năng tổ chức, tập hợp,
đồn kết mọi người, đổng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù
giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất
nước:
Ngẫm thù lớn hả đội trời chung,
Căm giặc nước thề khơng cùng sống.
Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;


Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoản một nỗi đồ hổi.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thể khơng cùng sống là thái độ và chí hướng của
lãnh tụ. Đau lịng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận... là sự rèn luyện, thử thách đối với
bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời.
Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nén Lê Lợi luôn ở
trọng tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đổ hổi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên
được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yêu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân dã phải vượt
qua mn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu
quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lóng phụ tử mà cuộc khởi
nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phàn công
giành thắng lợi.

Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết,
nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là
nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhàn dân, bảo vệ nển độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của
quốc gia Đại Việt. Sau dó, yếu tô' quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí
mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. ơng thể hiện rất rõ vai trị của một bậc minh chủ: căm
thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.


Đề 3:
Bình Ngơ đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút
của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo
không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngơ” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao
phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn
đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngơ đại cáo” thể
hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng
tới.
Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách
mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm :
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”
Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no,
yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ơng
khơng ít lần nhắc đến điều đó :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân giàu đủ khắp địi phương”
Cũng ln cánh cánh “làm cho khắp thơn cùng xóm vắng khơng cịn tiếng hờn giận ốn sầu”.
Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý
tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi khơng nói đến nhân nghĩa một cách
chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và
có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa khơng có
cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.

Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến
sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân
dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác
định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao
tai hoạ, đến mức:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi
Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch
sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh.
Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định
ở đầu tác phẩm.
Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan
hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng
mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh
hơn 10 vạn binh” của mình để cơng phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà


chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở
cho chúng con đường sống:
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Cấp cho phương tiện trở về:
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền...
Vương Thơng, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa...
Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để khơng gây hậu họa về sau cũng
chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết,
mà hòa hiếu thực lịng / Ta lấy tồn qn là hơn, để nhân dân nghỉ sức".
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa
toàn diện, vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi

thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu
vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức
mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn :
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, qn dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng
chừng không thể :
Khi Linh Sơn lương het mấy tuần.
Khi Khôi Huyện qn khơng một đội
Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp
cho :
Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
...Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống,
một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ
thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ cịn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu
của dân tộc, đất nước.


Đề 4:
Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận lỗi lạc trong nền văn học trung đại Việt Nam, không
những thế ơng cịn là một nhà qn sự, chính trị tài ba kiệt xuất của cả dân tộc Việt Nam. Ông đã
để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn chính luận, trong số đó
phải kể đến “Bình Ngơ đại cáo”, đây được coi là một áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong các
tác phẩm chữ Hán cổ điển của nước ta.
Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về
qua trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Về mặt cấu trúc, tác phẩm có
thể chia thành bốn phần. Phần 1là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”), phần

2 là phần tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc
(Tiếp theo phần 1 đến “Ai bảo thần dân chịu được”), phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng
lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (Tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”), phần 4 là phần
nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa (phần cịn lại).
Ở phần mở đầu tác giả nêu lên triết lí về nhân nghĩa, một triết lí có giá trị lịch sử và tầm vóc của
thời đại. Trong thơ Nguyễn Trãi, vấn đề “nhân nghĩa” không đơn giản chỉ là sự yêu thương giúp
đỡ lẫn nhau mà nó đã được nâng lên và thể hiện trong hành động cụ thể:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đối với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm
no, hạnh phúc. Ơng cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là
“nhân nghĩa”. Những câu thơ tiếp theo tác giả muốn nói về nước Đại Việt của chúng ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong những câu thơ trên Nguyễn Trãi cho rằng “nhân nghĩa” đã có từ lâu đời ở nước ta, đồng
thời khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc được thể hiện ở việc núi sông bờ cõi
đã được phân chia rõ ràng. Vì đã được phân chia nên việc hình thành những phong tục tập qn
cũng có nhiều khác biệt tuy nhiên vẫn có điểm chung là sự tồn tại song song của các triều đại lịch
sử. Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản
tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Chính vì đã có những hành động xâm chiếm nước ta nên họ phải chuốc lấy hậu quả:



“Lưu Cơng tham cơng nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Những kết cục như thế này đều tự do chính họ chuốc lấy vì thơng qua bài tuyên ngôn đầu tiên đã
như một lời cảnh cáo nhưng họ vẫn cố tình thực hiện.
Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau
lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”:
Từ việc:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Cho đến việc chúng bắt nhân dân phải xuống biển mị ngọc trai lên rừng sâu đãi cát tìm vàng,
phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc” và muôn vàn khó khăn nguy hiểm , rồi đến sưu thuế
chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng hành hạ nhân dân ta đủ mọi đường “thằng há
miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, sự độc ác và tàn nhẫn khiến tác giả phải thốt
lên:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Giữa lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy lên tinh thần yêu nước và tiến hành cuộc khởi nghĩa:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Căm phẫn trước tội ác của giặc, bóc lột nhân dân đủ đường khiến nhân dân lầm than cực khổ
khiến người lãnh đạo là Lê Lợi và nghĩa quân mất ăn, mất ngủ, quyết tâm chiến đấu với tất cả tinh
thần vì độc lập nước nhà:
“Căm giặc nước thề khơng chung sống
Đau lịng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”

Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng chỉ còn lo một nỗi về việc tìm kiếm
“nhân tài” và “hào kiệt”, đây là một việc khó vì theo tác giả:
“Hào kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”


Trong khi đó, nghĩa quân vừa dấy quân khởi nghĩa vẫn còn non nớt, thiếu thốn về mọi mặt như
lương thực “KhiLinh Sơn lương hết mấy tuần”, quân sĩ “Lúc Khơi Huyện qn khơng một đội”,
cịn qn thù thì đang rất mạnh, đây chính là khó khăn của chúng ta và cách khắc phục duy nhất
chính là sự đồng lịng của tồn bộ nghĩa qn “Tướng sĩ một lịng phụ tử/ Hịa nước sơng chén
rượu ngọt ngào”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” và
triết lí “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” cùng với sự dũng cảm,
gan dạ của binh sĩ, nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành và lớn mạnh “sĩ khí đã hăng,
quân thanh càng mạnh”, kết quả là nghĩa quân giành được nhiều chiến thắng vang dội “Đánh một
trận sạch không kinh ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim mng”, cịn giặc Minh thì phải chấp nhận
những thất bại liên tiếp và những tên tướng đều có kết thúc thật bi thảm:
“Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”
Tác giả đã ghi lại chi tiết từng mốc thời gian như những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc
nhưng lại là vết nhơ, nỗi nhục nhã đối với giặc Minh.
Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước
khi đã bại trận:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.

Hành động này thể hiện truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời của dân tộc ta, một lần nữa khẳng
định lời của Nguyễn Trãi:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Phần cuối của tác phẩm đã nêu ra bài học lịch sử quý báu về ý thức độc lập chủ quyền và vấn đề
nhân nghĩa, đồng thời khẳng định sự thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Âu cũng nhờ trời đất tổ tong
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”


Đọc áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngơ đại cáo”, người đọc như cảm nhận được sức mạnh to lớn
của dân tộc ta qua mỗi trang thơ của Nguyễn Trãi, càng tự hào bao nhiêu về dân tộc mình bao
nhiêu thì càng căm ghét tội ác của quân giặc bấy nhiêu. Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi xứng
đáng là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.


Đề 5:
Bình Ngơ đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút
của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo
không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngơ” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao
phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn
đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngơ đại cáo” thể
hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng
tới.
Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách
mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm :
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”

Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no,
yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ơng
khơng ít lần nhắc đến điều đó :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân giàu đủ khắp địi phương”
Cũng ln cánh cánh “làm cho khắp thơn cùng xóm vắng khơng cịn tiếng hờn giận ốn sầu”.
Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý
tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi khơng nói đến nhân nghĩa một cách
chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và
có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa khơng có
cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.
Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến
sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân
dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác
định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao
tai hoạ, đến mức:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi
Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch
sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh.
Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định
ở đầu tác phẩm.
Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan
hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng
mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh
hơn 10 vạn binh” của mình để cơng phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà


chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở

cho chúng con đường sống:
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Cấp cho phương tiện trở về:
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền...
Vương Thơng, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa...
Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để khơng gây hậu họa về sau cũng
chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết,
mà hòa hiếu thực lịng / Ta lấy tồn qn là hơn, để nhân dân nghỉ sức".
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa
toàn diện, vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi
thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu
vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức
mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn :
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, qn dân ta có thể khắc phục và vượt qua
những khó khăn tưởng chừng không thể :
Khi Linh Sơn lương het mấy tuần.
Khi Khôi Huyện qn khơng một đội
Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên
thắng lợi vang dội, giúp cho :
Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
...Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống,
một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ
thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ cịn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu
của dân tộc, đất nước.

Trái đã được thừa hưởng tấm lịng vì dân vì nước ấy. Ông là vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi
chiến lược, chiến thuật trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào thực hiện hoài bão xây dựng đất nước
thái bình thịnh trị, vua hồ dân mục, thì bỗng dưng bị chặn lại: ông bị nghi oan và bị bắt giam.
Sau đó, ơng được tha nhưng khơng được tin dùng nữa. Mười năm (1429-1439) Nguyễn Trãi chỉ
được giao chức "nhàn quan", khơng có thực quyền. Ơng buồn, xin về Cơn Sơn (nay thuộc Chí


Linh, Hải Dương). Mấy tháng sau, Lê Thái Tông lại vời ơng ra làm việc nước. Ơng đang hăng hái
giúp vua thì xảy ra thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam: ngày 01 tháng 9 năm 1442, sau khi
nhà vua đi duyệt võ, đã vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Khi vua dời Côn Sơn, về đến Trại Vải
(Lệ Chi Viên, Bắc Ninh) bị chết đột ngột. Lúc chết có Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn
Trãi, lúc ấy phụ trách dạy dỗ các cung nữ (chức Lễ nghi học sĩ) hầu bên cạnh. Bọn triều thần bấy
lâu nay muốn hãm hại Nguyễn Trãi, nhân cơ hội này liền vu cho ông cùng Nguyễn Thị Lộ mưu
giết vua, khiến ông phải nhận án tru di tam tộc (bị giết cả ba họ)
Nỗi oan tầy trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả.
Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Đại cáo bình Ngơ tuy viết bằng chữ Hán nhưng
xứng đáng là áng "Hùng văn muôn thuở". Quốc âm thi tập là tập thơ tiếng Việt (chữ Nơm) sớm
nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững chãi
cho văn học dân tộc.
Nguyễn Trãi - Bậc đại anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài số 1 của lịch sử Việt Nam. Ở Nguyễn
Trãi có 1 nhà chính trị, 1 nhà quân sự, 1 nhà ngoại giao, 1 nhà văn, 1 nhà thơ mang tầm cỡ kiệt
xuất vĩ đại.



×