1
VAI TRÒ CỦA MIỄN DỊCH LIỆU PHÁP
TRONG HEN PHẾ QUẢN
1. đại cương
1.1. Khái niệm:
Miễn dịch liệu pháp (Immunotherapy) (MDLP) hoặc giảm mẫn cảm
(hyposensitization) là phương pháp điều trị đặc hiệu duy nhất làm thay đổi
cách đáp ứng của hệ miễn dịch, làm dừng tiến triển tự nhiên của các bệnh lý
dị ứng đường thở. Cách điều trị dựa trên cơ sở chủng vacxin với liều di
nguyên tăng dần, mục đích để gây ra sù dung nạp miễn dịch đối với dị ngun
mẫn cảm có trong mơi trường sống.
1.2. Lịch sử nghiên cứu:
Kể từ lần đầu tiên, năm 1911, Noon và Freeman dùng triết xuất dị
nguyên phấn hoa điều trị cho bệnh nhân dị ứng với liều lượng tăng dần và đạt
kết quả khả quan, liệu pháp miễn dịch được xem như là một phương pháp
điều trị mới. Năm 1918, những cơng trình nghiên cứu của Cooke đã đưa ra
các kỹ thuật và tìm hiểu cơ chế của MDLP. Từ đó phương pháp này thực sự
phát triển ở Mỹ. Đến năm 1948, Jacques Sclafer đã áp dụng để điều trị cho trẻ
em dị ứng đường thở ở Pháp. Trải qua nhiều thập kỷ, MDLP được tiến hành
theo phương pháp kinh nghiệm chủ nghĩa đã đem lại các kết quả khác nhau
đến mức mà hiệu quả của phương pháp bị nghi ngờ và là một đề tài gây nhiều
tranh cãi.
Những năm nửa sau của thế kỷ 20, cơ chế của MDLP được sáng tỏ dần.
Triết xuất dị nguyên bụi nhà bắt đầu được Henocq (1963) nghiên cứu phân
tích làm tinh khiết hơn để tăng hiệu quả điều trị. Từ đó MDLP được phổ biến
rộng rãi trên khắp thế giới. Nhờ những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực hoá
miễn dịch và miễn dịch phân tử, người ta sản xuất ra các chiết xuất dị nguyên
tinh khiết và chuẩn hoá cao nên hiệu quả của MDLP đạt 75-90% các trường
hợp, phản ứng phụ rất hiếm xảy ra và thường là nhẹ. Các nghiên cứu được
2
công bố từ năm 1980 cho thấy kết quả rất tốt về mặt lâm sàng đạt 90% đối với
các bệnh viêm mũi và đạt tới 80 % đối với bệnh hen phế quản. Chính vì vậy
năm 1988, hội đồng Châu Âu về miễn dịch dị ứng lâm sàng (Académie
Européene d' Allergie Ðt d'Immunologie Clinique - EAACI) đã công bố chấp
nhận phương pháp điều trị này.
Ở Việt Nam, từ những năm 70, MDLP đã được nghiên cứu và áp dụng
điều trị bằng nguồn dị nguyên bụi nhà sản xuất trong nước đem lại hiệu quả
bước đầu. Đó là các nghiên cứu của Nguyễn Năng An (Bộ môn dị ứngTrường ĐH Y Hà Nội), của Nguyễn Văn Hướng, Vũ Minh Thục (viện Tai mũi
họng Trung ương). Các kết quả điều trị ở bệnh nhân HPQ, đặc biệt là Viêm
mũi dị ứng đã khẳng định vị trí quan trọng của phương pháp điều trị miễn
dịch đặc hiệu này.
1.3. Lợi Ých của phương pháp:
Đây là phương pháp đem lại hiệu quả điều trị khả quan khi mà tất cả
các phương pháp khác đều thất bại.
Là phương pháp điều trị dự phịng. MDLP có khả năng làm dừng sự
tiến triển của viêm mũi dị ứng thành hen phế quản và làm giảm xuất hiện mẫn
cảm của bệnh nhân với dị nguyên mới.
- Là phương pháp điều trị đặc hiệu làm thay đổi tiến triển tự nhiên của
bệnh. Hiệu quả điều trị còn kéo dài sau khi dừng điều trị.
- Mang lại lợi Ých kinh tế. Một báo cáo cho thấy ở Đức MDLP sẽ tiết
kiệm 1000Dmark cho mỗi bệnh nhân hen phế quản và 500Dmark cho mỗi
bệnh nhân viêm mũi.
1.4. Triển vọng trong tương lai của MDLP
MDLP đến nay đang là vấn đề thời sự.
- Trên cơ sở hiểu biết về cơ chế của MDLP hiện nay, theo S Durham
(Londres-UK) vấn đề là sự cân bằng giữa Thl/Th2 vì vậy điều trị cần nghiên
cứu đùng IFNγ tại chỗ, các chất ức chế miễn dịch mới, dùng các kháng thể
CD4 và trực tiếp hơn là kháng đặc hiệu IL4 hoặc IL5 .
3
- Để cải thiện hơn nữa hiệu quả điều trị, theo E.Alvarez Cuesta
(Madrid) là khơng ngừng chuẩn hố triết xuất dị nguyên. Việc dùng kháng thể
đơn dòng cho phép định lượng tốt hơn dị nguyên. Nghiên cứu tìm hiểu các dị
nguyên mới, với liều tối ưu hiệu quả và tránh tác dụng phụ cho mỗi dị nguyên
mẫn cảm cũng là vấn đề đặt ra.
2. CƠ CHế điều trị MIễN DịCH LIệU PHáP
Từ khi Cooke và Loveless (l935- 1943) phát hiện ra một loại kháng thể
có thể kết hợp với dị nguyên đặc hiệu nhưng không gây ra phản ứng dị ứng,
khơng gây mẫn cảm da và có tác dụng ức chế phản ứng xưng đỏ trong thực
nghiệm của Prausnitz-kustner. Sau đó một loạt các nghiên cứu của
Lichtenstein (1966), Stannegard (1970), Morman, Tada (1971), Ishizaka
(1972), Giessen (1976) đã tìm ra loại kháng thể IgG, cụ thể là IgG4 còn gọi là
kháng thể phong bế hay kháng thể ức chế có đặc tính sinh học sau:
- Cản trở phản ứng dị ứng với Reagin trong da.
- Có khả năng tranh chấp với IgE tại các thụ thể của tế bào Mast và
Basophil.
- Chịu nhiệt, đi qua rau thai, ái tế bào, hằng số lắng 7S. Trong suốt
những năm 70, cơ chế của liệu pháp miễn dịch được giải thích bằng sự tăng
kháng thể bao vây IgG4 thay thế cho IgE đặc hiệu- giảm trong huyết thanh.
Sù thay đổi này tương xứng với hiệu quả về mặt lâm sàng là giảm bớt các
triệu chứng của bệnh.
Trong những năm 80, nhờ kỹ thuật phân tích sinh hố học và hố miễn
dịch học, các chất trung gian của phản ứng viêm dị ứng đã được hiểu rõ hơn.
Bằng việc phân tích các chất trung gian hoá học trong dịch tiết từ mũi và phản
ứng trung gian, nhiều tác giả đã chỉ ra rằng liệu pháp Miễn dịch làm giảm tỷ
lệ Histamin, Prostaglandin, Kinin và Protease, đồng thời trong đáp ứng muộn
của phản ứng dị ứng thấy giảm hoạt động của các tế bào viêm như tế bào
Mast, Basophil và ức chế sự di chuyển tới tổ chức của tế bào Eosinophil. Đến
4
đây cơ chế lại được bổ xung bằng hiệu quả ức chế các hiện tượng viêm ở tổ
chức mẫn cảm.
Đầu những năm 90, khái niệm về các tế bào lympho Th1 và Th2 được
giải thích trong cơ chế bệnh lý dị ứng tăng IGE. Đáp ứng miễn dịch được hiểu
qua các cytokin của các tế bào tiết ra.
Các nghiên cứu ngày nay cho thấy rằng tế bào lympho T helper Có 2 dưới
nhóm là Thl và Th2. Ở người có cơ địa dị ứng, dưới tác động của dị nguyên,
đáp ứng miễn dịch thiên về tạo thành Th 2. S. Durham (Lon don-UK) đã trình
bày nhiều kết quả chứng minh hiệu quả của LPMD làm cân bằng Th l/ Th2 .
Một số nghiên cứu cho thấy LPMD có tác dụng chuyển Th 2 thành Tho hoặc
Th2 thành Thl . Hai dưới nhóm tế bào này được phân biệt bằng các cytokin do
chúng tiết ra. Thl tiết ra interleukin 2 (IL 2) và interferon y (IFγ ). Hai cytokin
này can thiệp trước tiên vào đáp ứng tế bào: giảm hoạt động của các tế bào
viêm: Mast, Basophil, giảm tập trung tế bào Eosinophil ở niêm mạc mũi và tế
bào Mast ở biểu mô, Th2 sản xuất ra IL3, IL4, IL5, IL13 là các cytokin chủ yếu
gây ra phản ứng viêm dị ứng tăng IgE.
Các nghiên cứu cho thấy LPMD làm giảm IL4, IL5 do đó làm giảm
IgE, làm lợi cho việc hình thành IgG, đặc biệt là IgG4. Do ức chế IL5 nên sự
tăng sinh và hoạt động của tế bào Eosinophil ở tổ chức giảm. Hoạt động của
tế bào mast giảm do IL3 bị ức chế và cũng giảm, tạo thành IgE tại chỗ. Các
cytokin của Thl là IL2 và IFNγ tăng sau điều trị có tác dụng ức chế Th2 sinh
ra IL4 do đó IgE giảm. Tế bào Mast giảm hoạt động nên các chất trung gian
gây phản ứng dị ứng giảm, giảm tính thấm thành mạch, giảm hoạt động của
các yếu tố hoá ứng động và co cơ trơn.
Những nghiên cứu về MDLP của chúng tôi trong suốt gần 20 năm qua
cùng với các nghiên cứu của các tác giả trênthế giới cho thấy cơ chế của
MDLP là:
- Tăng sản xuất các kháng thể phong bế IgG4.Quá trình điều trị với
liều dị nguyên tăng dần đã kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể phong
5
bế thuộc lớp IgG. Các kháng thể này có khả năng ngăn chặn dị nguyên
trướckhi chúng kết hợp vơi IgE trên bề mặt tế bào mast ở niêm mạc mũi, phế
quản.
- Sản xuất tự kháng thể kháng IgE.Các tự kháng thể kháng IgE xuất
hiện sau khi điều trị MDLP. Chúng có khả năng điều chỉnh q trình tổng hợp
IgE.
- Tăng hoạt động của các lympho T ức chế đặc hiệu dị nguyên.Các
lympho T với hoạt động ức chế đặc hiệu dị ngun đã tăng q trình biệt hố
và tăng hoạt động ức chế quá trình sản xuất các IgE đặc hiệu.
- Thay đổi số tế bào thamgia phản ứng viêm dị ứng. Các tế bào mast
giảm hoạt động, do đó giảm giải phóng các chất trung gian hố học gây viêm.
Các tế bào khác nh eosinophil, basophil, tiểu cầu . . . cũng giảm hoạt động
nên không gây tổn thương tổ chức. Các tế bào biểu mô giảm bộc lộ các phần
tử kết dính ICAM, VCAM do đó hạn chế sự di chuyển các tế bào tới tổ chức
viêm.
- Thay đổi cân bằng giữa Th1/Th2 của lympho TCD4. Bệnh nhân dị
ứng có xu hướng tăng đáp ứng của Th2. Liệu pháp miễn dịch có tác dụng
chuyển đáp ứng về Th1 thể hiện qua hoạt động của các cytokin tương ứng mà
chúng tiết ra. Các cytokin của Th2 là IL-4, IL-5, IL-13 làm tăng phản ứng
viêm dị ứng, trong đó IL-4 cần thiết cho tổng hợp IgE. Các cytokin của Th1 là
IL-2 và IFLγ ức chế sản xuất IgE và phản ứng viêm.
- Sự giảm dòng Th2/Th0 đặc hiệu dị nguyên.
- Ngăn ngừa các phản ứng muộn gây bởi dị nguyên ở mũi hoặc phế
quản (giảm giải phóng IL-3, IL-5)
- Điều biến các cytokin: tăng hoạt động của IL2 và IFNγ , giảm hoạt
động của IL3, IL4, IL5, IL13.
- Rất hiệu quả trong việc làm giảm tần số và cường độ các triệu
chứng dị ứng.
6
APC
CD4+
Tếbào T
IL-12
Th1
Th2
IFN-
IL-4
IL-5
IgG
IgE
Eosinophil
Phản ứng pha muộn
Hỡnh 2.1. C ch min dch liệu pháp
3. CHỉ ĐịNH Và CHốNG CHỉ ĐịNH
3.1- Chỉ định:
Trong báo cáo ở hội nghị hàng năm về miễn dịch dị ứng lâm sàng của
Châu Âu (EAACI) tháng 6/1997 đã đánh giá LPMD là cách điều trị duy nhất
có thể điều biến hệ thống miễn dịch có lợi cho bệnh nhân. Tuy nhiên đây là
phương pháp điều trị kéo dài và rất gị bó nên khơng thể áp dụng cho tất cả
bệnh nhân. Theo Garabédian. E.N chỉ định LPMD chỉ được đưa ra khi mà tất
cả các biện pháp điều trị khác đều thất bại và với điều kiện chỉ phát hiện ra
một dị nguyên duy nhất bị mẫn cảm. G.Dutau cũng khẳng định quan điểm của
mình như nhiều tác giả khác rằng LPMD có hiệu quả khi chỉ định đúng và
mẫn cảm với một dị nguyên (monosensibilisation) là một chỉ định tuyệt vời
còn mẫn cảm với đa dị nguyên (polysensibilisation) là một chỉ định tồi. Đối
với F.Leynadier, chỉ định đặt ra trước tiên phải xem xét tuổi của bệnh nhân:
7
từ 35 tuổi trở lên hiệu quả điều trị không tốt. Ở Pháp LPMD được chỉ định
trong 3 trường hợp sau:
- Dị ứng với nọc độc côn trùng
- Viêm mũi dị ứng hoặc viêm mũi- kết mạc dị ứng
- Hen dị ứng.
Việc chọn lọc bệnh nhân để điều trị miễn dịch đặc hiệu là vô cùng quan
trọng là vấn đề mấu chốt để đạt được kết quả điều trị tốt. Bệnh nhân lý tưởng
để chỉ định LPMD là trẻ em và thanh niên mẫn cảm với một DN và có khả
năng theo đuổi điều trị trong thời gian dài.Vì vậy chỉ định được đưa ra như
sau:
- Bệnh nhân đã dùng thuốc điều trị triệu chứng mà khơng có hiệu quả
hoặc gây ra tác dụng phụ.
- Các biện pháp phòng tránh dị nguyên bị thất bại.
- Bệnh nhân hen phế quản dị ứng có tiền sử bệnh Ýt nhất là 2 mùa
(HPQ dị ứng theo mùa) hoặc 6 tháng (HPQ dị ứng quanh năm).
- Bệnh nhân có nghiệm ứng da dương tính hoặc IgE đặc hiệu huyết
thanh với dị nguyên tăng tương ứng với triệu chứng lâm sàng.
3.2- Chống chỉ định:
Những bệnh nhân sau đây bị chống chỉ định LPMD:
- Đang điều trị các thuốc kháng beta (beta-blocker) và các thuốc ức chế
enzym chuyển hoá.
- Bệnh nhân chống chỉ định dùng adrenalin (ephedrin).
- Bệnh nhân mắc bệnh tự miễn
- Bệnh nhân đang có thai hoặc chuẩn bị mang thai
- Bệnh nhân có bệnh về tim mạch, gan, thận, phổi ở giai đoạn mất bù.
- Bệnh viêm mũi nhẹ, polip mũi, không dung nạp aspirin và mẫn cảm
với nhiều dị nguyên.
- Bệnh nhân đang điều trị trong vịng 2 tuần trước đó bằng các thuốc:
kháng Histamin, Corticoid (tại chỗ hoặc toàn thân), thuốc làm bền vững màng
8
tế bào (ví dụ như Cromoglycate…), thuốc kích thích Adrenergic (ví dụ như
Salbutamol…), hoặc các bài thuốc đơng y chữa dị ứng nói chung. Các bệnh
nhân này cũng được cho nghỉ ngơi 2 tuần rồi chọn vào nhóm nghiên cứu nếu
có đủ tiêu chuẩn lựa chọn.
- Bệnh nhân khơng đồng ý với cách điều trị này.
Với những bệnh nhân thoả mãn những yêu cầu trên đây, trước khi kê
liều điều trị, bác sĩ cần phải giải thích kỹ càng với bệnh nhân vì cách thức
điều trị cũng như thời gian điều trị cần phải tuân thủ. Có nh vậy hiệu quả điều
trị mới đạt được nh mong muốn.
4. PHƯƠNG PHáP ĐIềU TRị
4.1. Các sản phẩm sử dụng:
* Dị nguyên (DN) sử dụng được kiểm định bằng các cách sau:
- Theo khối lượng của chất ban đầu (dung dịch 1/100 tương đương 1g
DN trong 100 ml dung môi).
- Theo đơn vị Noon (1 đơn vị noon= 10 -6 g DN ; 1g dung dịch 1/100 =
10 000 đơn vị noon)
- Xác định Nitơ toàn phần (Kjeldahl) (1mg Ni tơ = 100.000 đơn vị)
-Xác định Ni tơ protein [100. 000 PNU (Protein Nitrogen Units) = 1 mgnitơ
protein].
- Chiết xuất được chuẩn độ theo mức độ phản ứng (đơn vị IR)
Ví dụ chiết xuất 100 đơn vị IR khi làm prick-test ở bệnh nhân mẫn cảm
sẽ cho một nốt sần có đường kính 6mm.
Tiêu chuẩn sinh học của chiết xuất DN dựa trên phản ứng da cho phép
xác định một chẩn đoán nhạy cảm bằng phương pháp prick-test.
DN chiết xuất dùng dưới dạng nước hoặc dạng keo. Chiết xuất dạng
keo có thể bảo quản lâu hơn. Ngồi 2 dạng trên người ta cịn sử dụng các
chiết xuất "chậm" để làm giảm số lượng các mũi tiêm , giảm phản ứng phụ và
tăng hiệu quả điều trị. Để làm được điều đó người ta sử dụng:
- Chiết xuất DN hấp thụ với hydroxyt nhôm
9
- Chiết xuất nước pha với hydroxyt nhôm để dùng tức thì
- Chiết xuất DN kết tủa bởi phèn
- Chiết xuất DN hấp thụ với photphat canxi
- Chiết xuất DN hấp thụ với L-tyrosin hoặc với L-tyrosin và polymerisé
bởi glutaraldehyde.
- Chiết xuất DN hấp thụ với alginat.
Hiệu quả của LPMD phụ thuộc trước tiên vào chất lượng DN sử dụng.
E.Alavarez Cuesta (Madrid) cho thấy vấn đề chủ yếu là sản xuất ra các DN
đạt chất lượng cao. Từ khi phát hiện ra các acarien (bọ nhà) là nguồn DN chủ
yếu sinh ra phản ứng dị ứng do bụi nhà đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu sản
xuất ra DN bụi nhà giàu acarien hoặc DN acarien thuần nhất. Từ đó đem lại
hiệu quả điều trị tốt hơn.
Những tiến bộ trong lĩnh vực hoá miễn dịch và miễn dịch phân tử đã
xác định thành phần các kháng nguyên chính của DN. Nhưng đối với DN
acarein, các triết xuất thường có hoạt tính sinh học của 1 lồi chứa số lượng
các DN khác nhau. Ví dơ DN acarein chứa các KN Der p 1, Der p2, Der fl,
Der f2. Thành phần thay đổi theo các mẫu. Một triết xuất LOOBU/ML
(Biologic Unit) phải chứa 40 mg/ml Der pi và 20mg/ml Der p2 .
Các nhà nghiên cứu đã thiết kế cấu tạo DN bụi bọ nhà Der f2 với cấu
trúc cầu nối disunfua ở chuỗi tận cùng có N-C bị phá vỡ để đảm bảo cho
LPMD an toàn và hiệu quả cao hơn. Nghiên cứu đánh giá dùng E.D.P
(Enzym potentiated desensibilization) là hỗn hợp dung dịch gồm DN với liều
cực thấp và 1 enzym be ta- glucozdase tiêm dưới da cho trẻ em dị ứng với
Dermatophagoides cho thấy hiệu quả lâm sàng tốt, dễ dùng và dung nạp tốt.
Nghiên cứu điều trị miễn dịch đặc hiệu bằng DN Der.pi chuẩn hố có thể
phịng ngừa sự phát triển mẫn cảm với các DN mới ở trẻ nhỏ.
Ngày nay với sự hiểu biết rõ ràng hơn về cơ chế của phản ứng dị ứng,
những khía cạnh mới của LPMD đang được nghiên cứu nhằm điều biến đáp
ứng dị ứng như LPMD bẵng các peptit, LPMD với kháng thể đơn dòng
10
kháng IGE, với plasmide của ADN; điều trị hen bằng kháng thể kháng IL5;
điều trị bằng kháng thể kháng CD23 .
11
4.2. Liều dị nguyên:
Hiệu quả của LPMD phụ thuộc vào liều lượng DN sử dụng. Liều thấp
thường Ýt có hiệu quả nhưng liều cao lại tăng nguy cơ xảy ra phản ứng phụ
thậm chí gây phản ứng tồn thân. Vì vậy cần phải cân nhắc chọn liều duy trì
tối ưu nhất vừa có hiệu quả với bệnh nhân vừa Ýt tác dụng phụ.
Liều ban đầu tuỳ thuộc vào từng chiết xuất DN sử dụng phương pháp
Rinkel tiêm với liều DN rất yếu dựa trên liều ban đầu xác định bằng sự mẫn
cảm của bệnh nhân đã được chứng minh là khơng có hiệu quả điều trị đối với
DN đường khí.
Trái với phương trình đã được thiết lập là liều cao =hiệu quả, nghiên
cứu tìm liều tối ưu đối với bệnh nhân dị ứng với acarien đã cho thấy rằng liều
lượng mà ở mức đó bệnh nhân đạt được hiệu quả lâm sàng và dung nạp tốt
cũng cho kết quả tương tự như dùng liều cao và không xảy ra phản ứng phụ.
Liều tối ưu là liều đạt được mối quan hệ tốt nhất giữa sự dung nạp -hiệu quả
điều trị. Liều này cần phải phù hợp với mỗi DN và mỗi bệnh nhân. Các
nghiên cứu gợi ý liều duy trì chứa khoảng 6- 12 µg protein là có hiệu quả và
dung nạp tốt trong thực tế hàng ngày đối với điều trị miễn dịch dạng tiêm.
Đường nhỏ dưới lưỡi theo các tác giả trong và ngồi nước thì liều duy trì cao
hơn so với đường tiêm, thường ở mức 300IR/ml.
Phản ứng phụ thỉnh thoảng xảy ra và thường xuất hiện ở giai đoạn tăng
liều hơn là giai đoạn dùng liều duy trì. Liều dung nạp đạt được này phụ thuộc
vào DN chiết xuất sử dụng, cách thức điều trị, môi trường của bệnh nhân và
phương pháp theo dõi giám sát. Đối với bệnh nhân dị ứng với bụi nhà, các
nghiên cứu cho thấy rằng liều tối đa để đạt hiệu quả với chiết xuất dị nguyên
chuẩn hoá về sinh học là 4mg Der p1 và 2mg Der p2.
4.3. Các phương pháp điều trị miễn dịch đặc hiệu
* Giảm mẫn cảm theo qui ước : thường dùng với các chiết xuất DN
dạng nước hoặc dạng "chậm". Dạng “chậm" thường hay dùng có tác dụng
giãn cách các mũi tiêm và tăng hiệu quả điều trị. Liều lượng tiêm tăng chậm,
12
lúc đầu tăng theo mỗi tuần sau đó 2 tuần tăng liều 1 lần đến khi đạt được liều
duy trì sẽ tiêm nhắc lại 1 tháng 1 lần hoặc kéo dài hơn (tháng rưỡi hay 2 tháng
/ lần).
Phương pháp này được áp dụng phổ biến cho các bệnh nhân mẫn cảm
với mạt bụi nhà. Liều DN tăng chậm và thận trọng cho tới khi đạt được kết
quả dung nạp tối đa ở mỗi bệnh nhân.
* Giảm mẫn cảm "cấp tốc": "accéléreé" (tiếng Pháp ) hoặc là "rush"
(tiếng Anh).
Phương pháp này được Freeman đưa ra năm 1930 nhưng bị cấm một
thời gian do xảy ra phản ứng phụ nghiêm trọng. Ở Pháp năm 1980, nhiều
nhóm nghiên cứu đã dùng phương pháp này bằng DN dạng keo chuẩn hoá
đem lại lợi Ých to lớn và đến nay đã dùng phổ biến.
Người ta tiêm liều DN cấp tốc để đạt được liều tối ưu trong vài ngày
sau đó tiêm liều duy trì tháng/ lần. Phương pháp này đòi hỏi bệnh nhân phải
nằm viện theo dõi chặt chẽ trong 2-5 ngày để đề phòng các biến chứng có thể
xảy ra.
Phương pháp này chỉ dùng chiết xuất DN dạng nước hoặc dạng keo bởi
vì dạng "chậm" có nguy cơ biến chứng cao do các mũi tiêm quá gần. Ở trẻ em
nên bắt đầu bằng chiết xuất DN dạng nước sẽ đáp ứng tốt hơn cho mỗi một
trường hợp. Một nghiên cứu LPMD tăng tốc trong 2-4 tuần đã đạt tới liều duy
trì ở 10 bệnh nhân dị ứng với bụi nhà cho kết quả tốt cả về phương diện lâm
sàng và các xét nghiệm miễn dịch đặc hiệu như tăng IgG đặc hiệu tăng IFNY
và giảm IgE đặc hiệu.
4.4. Đường đưa dị nguyên
4.4.1. Đường tiêm dưới da:
Đường tiêm dưới da được dùng phổ biến nhất từ trước tới nay, vị trí
tiêm thơng dụng nhất, dễ quan sát là mặt ngoài cánh tay hoặc vùng cơ delta.
Đối với bệnh nhân tự tiêm thì vị trí phù hợp là mặt ngoài đùi.
13
Trong toàn bộ các tài liệu nêu ra phần lớn đều chứng minh hiệu quả
LPMD bằng đường tiêm dưới da.
Bảng 2.1. Quy trình GMCĐH theo phương pháp Ado
Thời gian
Liều lượng (ml)
Nồng độ PNU/ml
Tháng thứ nhất
Tuần 1
0,1
10
Tuần 2
0,2
10
(2 mũi/tuần)
Tuần 3
0,3
10
Tuần 4
0,4
10
Tháng thứ 2
Tuần 1
0,1
100
Tuần 2
0,2
100
(1 mũi/tuần)
Tuần 3
0,3
100
Tuần 4
0,4
100
Tháng thứ 3
Tuần 1
0,1
1.000
Tuần 2
0,2
1.000
(1 mũi/tuần)
Tuần 3
0,3
1.000
Tuần 4
0,4
1.000
Tháng thứ 4 (1 mũi/tuần)
0,1 – 0,4
10.000
Tháng thứ 5-6 (1 mũi/2tuần)
0,1 – 0,4
10.000
Tháng thứ 6-12 (1 mũi/4-6tuần)
Tuỳ thuộc vào tiến triển lâm sàng
Trong nghiên cứu với bệnh nhân HPQ dị ứng, qua phân tích thử
nghiệm có thể áp dụng ngay từ đầu mũi tiêm 0,1 ml nồng độ 100 PNU/ml.
Tuy nhiên đường tiêm mặc dù có hiệu quả cao trong điều trị HPQ dị ứng,
nhưng đường tiêm còn một số hạn chế như gây đau, sưng nề tại chỗ tiêm. Do
vậy, đường tiêm thường áp dụng tại các cơ sở y tế và được thực hiện bởi các
nhân viên y tế giàu kinh nghiệm, điều này không thuận tiện cho những bệnh
nhân sống ở xa các cơ sở y tế và hay đi công tác. Cho nên, một sè bệnh nhân
do điều kiện gia đình và cơng việc không đến tiêm đúng ngày điều này làm
giảm hiệu quả điều trị LPMD ở những bệnh nhân này, thậm trí một số bệnh
nhân bỏ điều trị giữa chừng.
4.4.2. Đường tại chỗ:
Đường tại chỗ: Từ 6-7 năm gần đây, LPMD tại chỗ đã được nhiều báo
cáo đề cập đến như là cách điều trị bổ xung cho những nhược điểm của cách
dùng đường tiêm . Quí 1 năm 1998 tổ chức sức khoẻ thế giới (GMS) đã công
bố hồ sơ nhắc tới cách điều trị đặc hiệu này. Hiện nay, tại các nước Châu âu
14
và Mỹ LPMD tại chỗ được coi là phương pháp thơng dụng và thích hợp trong
điều trị dị ứng đường thở .
4.4.3. Đường mũi:
Chiết xuất DN đưa qua đường mũi cũng hấp thu toàn bộ như đường
tiêm và nồng độ đạt tới đỉnh trong 60 phót. G. Passalacqua đã chứng minh sù
thay đổi viêm tại chỗ sau khi LPMD tại chỗ: giảm tập trung tế bào viêm, giảm
bộc lộ các phân tử kết dính ICAM- 1 của tế bào biểu mô.
4.4.4. Đường nhỏ dưới lưỡi:
Cho tới năm 1990, khái niệm điều trị miễn dịch đặc hiệu có nghĩa là
tiêm dưới da. Tuy nhiên, đường sử dụng dưới da đôi khi cũng gây ra những
phản ứng có hại. Thơng qua việc phát triển chế phẩm STALORAL (chế phẩm
dị nguyên), điều trị LPMD theo đường dưới lưỡi, cơng ty STALLERGENES
đã có đóng góp lớn vào việc chứng tỏ tính hiệu quả và tính an tồn của
phương pháp điều trị miễn dịch dưới lưỡi trên phạm vi quốc tế.
1990-1994: Bắt đầu nghiên cứu STALORAL
• Khởi động chương trình thử nghiệm lâm sàng đối với STALORAL
• Cùng thời điểm này, Viện hàm lâm Dị ứng học và Miễn dịch học lâm sàng
Châu Âu (EAACI) khuyến cáo "cần có thêm bằng chứng thuyết phục rằng
phương pháp điều trị miễn dịch là phương pháp hiệu quả trước khi
khuyên sử dụng nó để điều trị bệnh dị ứng"
1994- 1998: Chế phẩm STALORAL được đưa vào sử dụng
• Cơng bố các kết quả của những thử nghiệm có đối chứng đầu tiên cho
thấy tính hiệu quả và tính an toàn của STALORAL trong việc điều trị
bệnh viêm mũi-kết mạc do phấn cỏ
• Khẳng định sự hiệu quả và tính an tồn của STALORAL trong việc điều
trị các bệnh lý phức tạp hơn: HPQ và viêm mũi-kết mạc trên mẫu dị
nguyên khác là phấn hoa ô liu ở đối tượng trẻ em.
15
• Trong năm 1998, phương pháp điều trị miễn dịch dưới lưỡi đã được Tổ
chức y tế thế giới thừa nhận là phương pháp thay thế đáng tin cậy cho
phương pháp điều trị miễn dịch dưới da ở người lớn
1998-2001: Tính hiệu quả được chứng minh rộng rãi.
• Nghiên cứu đầu tiên chứng minh sự hiệu quả và tính an toàn của
STALORAL trong việc điều trị HPQ và viêm mũi-kết mạc dị ứng do mạt
bụi nhà; sự cải thiện chất lượng cuộc sống của BN cũng được chứng minh
• Khẳng định sự hiệu quả của STALORAL trên các mẫu dị nguyên mới: ở
cả trẻ em và người lớn:
- HPQ và viêm mũi-kết mạc mắt do phấn hoa
- Viêm mũi- kết mạc mắt do phấn hoa của cây chữ ma (pellitory) ở trẻ em
• Hiệp nghị ARIA khuyên sử dụng điều trị miễn dịch dưới lưỡi cho các chỉ
định giống chỉ định của điều trị miễn dịch tiêm dưới da, nghĩa là HPQ dị
ứng và viêm mũi dị ứng ở người lớn và trẻ em, với những liều cao (ít nhất
cao hơn gấp 50-100 lần so với liều sử dụng trong điều trị MD tiêm dưới
da).
2001-2004: Viễn cảnh mới
• Chứng minh sự hiệu quả và tính an tồn của STALORAL dựa trên các dị
nguyên mạnh hơn nh phấn hoa cây phấn hương và cây bách.
• Nghiên cứu có đối chứng đầu tiên so sánh hiệu quả và tính an tồn của
STALORAL dưới lưỡi với phương pháp tiêm dưới da: không quan sát
thấy sự khác biệt đáng kể về hiệu quả giữa phương pháp điều trị miễn
dịch dưới lưỡi và phương pháp điều trị miễn dịch tiêm dưới da trong việc
điều trị HPQ và viêm mũi- kết mạc gây ra bởi phấn hoa cây bulơ.
• Trong năm 2003, Trên tạp chí Cochrane, Wilson S đăng bài viết khẳng
định sự hiệu quả của phương pháp điều trị miễn dịch dưới lưỡi trong việc
điều trị viêm mũi dị ứng về cả hai khía cạnh là tính điểm triệu chứng và
tính điểm sử dụng thuốc, kèm theo hồ sơ về tính an tồn cao của phương
pháp này
16
• Trong năm 2004, hồ sơ của Birke về điều trị LPMD dưới lưỡi
STALORAL lần đầu tiên được đăng ký tại Trường đại học Paul-Ehrlich,
Đức.
STALORAL đã được chứng minh một cách thuyết phục là thuốc hiệu quả
trong các thử nghiệm lâm sàng. Cơ chế tác động giống nh cơ chế của điều trị
miễn dịch đường dưới da:
- Làm giảm nồng độ của kháng thể IgE đặc hiệu trong máu
- Điều chỉnh hoạt tính của các lymphocyte Th1 và Th2, dẫn đến những
thay đổi về mức độ các cytokine có khả năng điều tiết sản xuất IgE (ức chế
IL4 và kích thích IFNγ). LPMD gây ra đáp ứng miễn dịch kéo dài, sự đáp ứng
miễn dịch này được duy trì lâu bởi sự ghi nhớ miễn dịch đặc hiệu
Mặt khác, có những bằng chứng thuyết phục hơn về giả thuyết rằng các
tế bào đuôi gai- đặc biệt dày đặc trong niêm mạc má- đóng vai trị chính trong
cơ chế tác động của phương pháp điều trị LPMD dưới lưỡi
Thực tế, các tế bào đi gai:
• Tác động như là những tế bào trình diện kháng ngun tiềm năng
• Sản xuất IL-12 là chất tăng cường sự phát triển của lymphocyte Th1
• Mang các thụ thể IgE ái lực cao dày đặc trên bề mặt của chúng, do vậy
có khả năng kích thích một số lượng lớn tế bào T có mặt trong niêm
mạc má
• Hấp thụ các phân tử dị nguyên khi tiếp xúc với chúng trong mô nuôi
cấy, và sự hấp thụ này diễn ra rất nhanh chóng và theo kiểu phụ thuộc
vào liều lượng dị nguyên
Kết hợp lại, những quan sát này chứng tỏ một cách mạnh mẽ rằng các tế bào
đuôi gai trong niêm mạc vùng má cũng có thể có vai trị then chốt trong cơ
chế tác động của phương pháp điều trị miễn dịch dưới lưỡi.
Do đó, đường nhá dưới lưỡi là đường tốt nhất vì tính hiệu quả, khơng
độc và khả năng dễ chấp nhận của nó, thường dùng cho những bệnh nhân dị
ứng: Hen phế quản, Viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc, . . . Nhiều tác giả nước
17
ngoài nghiên cứu đã nêu ra hiệu quả về lâm sàng của đường dùng dưới lưỡi
đạt kết quả tốt.
Giảm mẫn cảm đường dưới lưỡi đã khẳng định là một liệu pháp hiệu
quả, đơn giản, dung nạp tốt nếu tuân thủ đúng các nguyên tắc cơ bản ( không
vượt quá liều tối đa mà bệnh nhân dung nạp được, duy trì liều tối thiểu có
hiệu quả) : việc tăng liều dần dần một cách thận trọng giúp hạn chế tác dụng
phụ và giảm thiểu chi phí. Ngồi ra liệu pháp này đòi hỏi bệnh nhân phải tuân
thủ nghiêm ngặt các hướng dẫn ( phải giải thích kỹ phác đồ điều trị cho bệnh
nhân và buộc bệnh nhân phải đến khám định kỳ)
Chỉ định của đường dùng tại chỗ rất thích hợp với trẻ em và những
người khơng thích dùng đường tiêm, những bệnh nhân khó tuân thủ theo cách
điều trị đường tiêm như: thời gian qui định chặt chẽ, phải di chuyển nhiều do
học tập, công tác..., những người điều trị bằng đường tiêm thất bại. LPMD tại
chỗ cũng phải tuân theo chỉ định và chống chỉ định của LPMD nói chung, tuy
nhiên LPMD tại chỗ an toàn hơn. Với những tiến bộ về chiết xuất DN, LPMD
tại chỗ có thể dùng cho trẻ sơ sinh có cơ địa atopie để phòng ngừa phát triển
bệnh dị ứng.
Nhược điểm của LPMD tại chỗ là liều dùng phải gấp 80-200 lần cao
hơn liều LPMD bằng đường tiêm do đó mà giá thành điều trị cũng tăng lên.
Hơn nữa những nghiên cứu chi tiết về liều tối ưu hiệu quả, DN chuẩn hoá,
phác đồ điều trị v.v... cũng cần phải tiếp tục để tránh tối đa các phản ứng phụ.
Bảng 4.2: Quy trình điều trị HPQ dị ứng bằng LPMD đường dưới lưỡi
Bousquet J (1999), Td: Vị Minh Thục (2006).
Dị ngun Dermatophagoides pteronyssinus
Thì bắt đầu (25 ngày)
Ngày 1- 4
Ngày 5- 8
Ngày 9- 16
Ngày 17-25
1-3- 4- 6 giọt
1 IR/ml
1- 3- 6-10 giọt
10 IR/ml
1-2-4-6-8-12-16-
5-6-8-10-12-14-
20 giọt
16-18-20 giọt
100 IR/ml
300 IR/ml
18
Thì duy trì (300 IR/ml): 4 giọt mỗi ngày hoặc 8 giọt 3 lần/tuần
Sơ đồ 5: Dụng cụ chứa dị nguyên và cách nhỏ dị nguyên đường dưới lưỡi
4.5. Theo dõi điều trị:
Bệnh nhân HPQ dị ứng, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng điều trị
miễn dịch đặc hiệu thường theo chế độ ngoại trú (trừ phương pháp điều trị
"cấp tốc" ở giai đoạn đầu) dưới sự theo dõi trực tiếp của bác sĩ chuyên khoa.
Các mũi tiêm bắt buộc phải thực hiện ở cơ sở có đầy đủ các phương tiện cấp
cứu cần thiết đề phòng các phản ứng phụ xảy ra (đặc biệt là sốc phản vệ). Đối
với viêm mũi dị ứng rất hiếm xảy ra phản ứng phụ. Mỗi bệnh nhân cần thiết
phải có một hồ sơ theo dõi ghi chép đầy đủ nồng độ DN và số lượng DN của
mỗi lần tiêm hoặc nhỏ dưới lưỡi, đồng thời ghi diễn biến của phản ứng phụ có
thể xảy ra. Mỗi khi tiêm hoặc nhỏ dưới lưỡi dị nguyên, bệnh nhân cần phải
giữ lại theo dõi 30 phót sau khi tiêm hoặc nhỏ dưới lưỡi. Trong vịng 30 phót
sau khi tiêm phản ứng phụ có thể xảy ra thường ở tại chỗ tiêm như xuất hiện
nốt sần ngứa, đỏ. Đường dưới lưỡi: Tê lưỡi, ngứa lưỡi, ngứa họng, cảm giác
mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt. Đường kính nốt sần lớn hơn 4cm cần phải thận
trọng. Mỗi khi tăng liều tiêm hoặc nhỏ dưới lưỡi, phải đảm bảo khơng có
phản ứng phụ xảy ra trong lần tiêm hoặc nhỏ dưới lưỡi trước trong vòng 48
giờ. Nếu lần tiêm trước hoặc nhá mà 48 giê sau tiêm hoặc nhá có phản ứng
phụ thì lần kế tiếp phải giữ nguyên liều hoặc thậm chí thấp hơn liều của lần
19
trước nếu phản ứng phụ là nghiêm trọng. Trước thời gian tiêm hoặc nhỏ 48
giờ nếu có bệnh cấp tính xảy ra thì mũi tiêm lùi lại vài ngày hoặc muộn hơn .
Ngoài phản ứng phụ tại chỗ tiêm, ngứa mũi ngứa họng, ngạt mũi hoặc
biểu hiện toàn thân như mẩn ngứa nổi mề đay, cảm giác tức nghẹt ở họng
hoặc ở ngực. Trong trường hợp này cần phải dùng ngay thuốc kháng
Histamin.
4.6. Thời gian điều trị:
Cho tới này nay chưa có một tác giả nào khẳng định thời hạn chính xác
cho LPMD đặc hiệu. S.Belaich cho rằng cần phải giải thích cho bệnh nhân là
HPQ dị ứng, viêm mũi dị ứng khơng phải là bệnh khó chữa nhưng cần điều trị
kéo dài trong nhiều tháng, thậm chí hơn và khơng nên dừng điều trị sớm vì sẽ
có nguy cơ mắc lại. Thực tế cho thấy nếu phương pháp điều trị này có hiệu
quả thì nên tiếp tục càng lâu càng tốt trái lại nếu không hiệu quả như mong
muốn thì khơng nên kéo dài. Những nghiên cứu mới đây của Vũ Minh Thục,
Phạm Văn Thức, và cộng sự ở bệnh nhân dưới 30 tuổi bị HPQ dị ứng với bụi
nhà cho kết quả sau :
- Hiệu quả tốt sau 3 tháng điều trị GMC là: 37,4%
-
“
6
“
65,2%
-
“
12
“
81,4%
-
“
24
“
87,6%
36
“
90,4%
-
“
Tác giả nhấn mạnh bệnh nhân sau 6 tháng điều trị có hiệu quả đáng kể
và số bệnh nhân dừng điều trị sau 6 tháng, sau 1 thời gian nhóm nghiên cứu
đến tận nhà phát phiếu thăm dò cho thấy hiệu quả đạt được rất khả quan.
Thời gian điều trị sau 6 tháng đối với bệnh nhân HPQ dị ứng quanh
năm cho kết quả cải thiện triệu chứng lâm sàng tương ứng với kháng thể bao
vây IgG4 tăng cao trong huyết thanh. Theo A.J.Frew, LPMD đặc hiệu đối với
acarien khó khăn hơn do DN có ở khắp nơi và quanh năm nhưng các chỉ số về
chủ quan và khách quan rõ ràng tốt lên sau 10 tháng điều trị . Một nghiên cứu
20
tiến hành ở Nhật Bản về đánh giá hiệu quả lâm sàng và sinh lý bệnh của 51
bệnh nhân viêm mũi dị ứng quanh năm với bụi nhà được dùng LPMD từ 612 tháng cho kết quả tốt ở 74,2% (người lớn) và 66,7% (trẻ em). Nhiều báo
cáo đánh giá tốt kết quả sau 1 năm điều trị nhưng thời hạn điều trị từ 3 -5 năm
cũng được đề cập đến.
Thời hạn có hiệu quả lâm sàng sau khi dừng điều trị liên quan tới thời
gian kéo dài điều trị. Điều đó được nhiều tác giả đánh giá khác nhau,theo
chúng tơi kết luận rằng hiệu quả lâm sàng cịn kéo dài thêm 5 - 6 năm sau
điều trị, còn Hedlin lại đánh giá chỉ có 5 năm.
5. CÁC NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA LPMD ĐƯỜNG
DƯỚI LƯỠI
Hãng Stallergenes đã tiên phong trong nghiên cứu điều trị miễn dịch đặc hiệu
đường dưới lưỡi. Hãng đã tiến hành một nghiên cứu toàn cầu trong nhiều năm
mang tiên STALORAL, nghiên cứu này đã chứng minh được tính hiệu quả,
tính tiện lợi, an toàn của LPMD đường dưới lưỡi:
Tác giả
Bệnh lý
Dị
Bệnh
nguyên nhân
Sabbah
Viêm
5 loại
Trẻ em,
A. 1994
mũi-kết
cỏ
người
Clavel
mạc
Viêm
5 loại
lớn
Trẻ em,
R. 1998
mũi- kết
cỏ
người
mạc và
Dạng
STALORAL
Nồng
Liều
dưới
độ duy
lưỡi
Giọt
trì
100 IR
tích lũy gian
4.500
điều trị
4 tháng
IR
Giọt
300 IR
40.700
7 tháng
IR
lớn
Pradalie
hen
Viêm
5 loại
Trẻ em,
Giọt +
r A.
mũi-kết
cỏ
người
viên
1999
mạc và
hen
Thời
lớn
100 IR
11.000
IR
4 tháng
21
*Nghiên cứu của Sabbah là nghiên cứu mù kép (double-blind), có đối
chứng placebo đầu tiên được thực hiện với STALORAL. Nghiên cứu này
đầu tiên này nhằm mục đích phân tích tính an tồn và hiệu quả của
STALORAL
• Bệnh nhân từ 13 đến 50 tuổi bị bệnh viêm mũi- kết mạc dị ứng do phấn
cỏ
• Nhóm điều trị: n = 29 ; nhóm dùng placebo: n =29
• Thời gian điều trị: 16 tuần
STALORAL (giọt). Liều tích lũy: 4.500 IR
Thì bắt đầu (40 ngày)
Ngày 1-10:
Ngày 11- 20
Ngày 21 -40
từ 1 đến 10 giọt.
Từ 1 đến 10 giọt.
từ 1 đến 20 giọt
1 IR/ ml
10 IR/ ml
100 IR/ ml
Thì duy trì (100 IR/ ml)
Tháng 1: 20 giọt một ngày trong vịng 30 ngày
Sau đó: 20 giọt mỗi cách ngày
Thì bắt đầu kéo dài được lựa chọn một cách thận trọng vì khơng có (tại
thời điểm đó) các dữ liệu về tính an tồn của đường sử dụng mới này.
* Nghiên cứu 1998 của Clavel cùng cộng sự đã khai phá ra mảnh đất mới
bằng việc chứng tỏ tính hiệu quả và an tồn của việc sử dụng
STALORAL ở liều lượng cao (300 IR). Những bệnh nhân trong nghiên cứu
này tất cả đều bị viêm mũi do phấn cỏ, một số trường hợp có kết hợp thêm cả
hen mức độ trung bình.
Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, đối chứng placebo của Clavel:
• Bệnh nhân tuổi từ 8 đến 55 tuổi bị viêm mũi- kết mạc (kèm theo
hoặc không kèm theo hen) gây ra bởi phấn cỏ
• Nhóm điều trị: n =62; nhóm sử dụng placebo: n = 58
• Thời gian điều trị: 6 tháng
22
Ngày 1- 4
STALORAL (giọt). Liều tích lũy: 40.700 IR
Thì bắt đầu (25 ngày)
Ngày 5- 8
Ngày 9- 16
Ngày 17-25
1-3- 4- 6 giọt 1- 3- 6-10 giọt
1 IR/ ml
1-2-4-6-8-12-16-
5-6-8-10-12-14-
20 giọt
16-18-20 giọt
10 IR/ml
100 IR/ml
300 IR/ ml
Thì duy trì (300 IR/ ml)
20 giọt / ngày
* Trong năm 1999, A. Pradalier đã nghiên cứu sự hiệu quả của
STALORAL ở những bệnh nhân người lớn và trẻ em mắc bệnh viêm
mũi- kết mạc (kèm theo hoặc không kèm theo hen) do phấn cỏ.
Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, có đối chứng placebo của A. Pradalier:
• Bệnh nhân tuổi từ 7 đến 58 tuổi bị viêm mũi- kết mạc (kèm theo
hoặc không kèm theo hen) gây ra bởi phấn cỏ
• Nhóm điều trị: n = 62; nhóm placebo: n =61
• Thời gian điều trị: 4 tháng
STALORAL (giọt + viên). Liều tích lũy: 11.000 IR
Thì bắt đầu (15 ngày)
Ngày 1- 4
Ngày 5-8
Ngày 9- 15
1- 3- 6- 10 giọt
1- 3- 6-10 giọt
1-2-4-8-12-16-20
giọt
1 IR/ ml
10 IR/ ml
Thì duy trì: 100 IR (viên)
1x 100 IR/ ngày
100 IR/ ml
Trong thì duy trì, liều lượng được hạn chế một cách thận trọng tới 100 IR/
ngày do đây là nghiên cứu đầu tiên có sử dụng thuốc STALORAL dạng viên
* SỰ HIỆU QUẢ TRONG DỊ ỨNG PHẤN CÂY DẠI (WEED POLLEN
ALLERGY)
23
Tác giả
La
Bệnh lý
Viêm mũi-
Rosa
kết mạc và
M.
hen
1999
Andre
C. 2003
Dạng
nguyên
nhân
dưới
Phấn cây
chữ ma
Trẻ em
kết mạc và
phấn
hen
hương
lớn
Phấn cây Trẻ em
T 2004
kết mạc
300 IR
Bệnh
Phấn cây Trẻ em
Viêm mũi-
Giọt
Dị
Viêm mũi-
Bowen
lưỡi
STALORAL
Nồng
Liều
độ duy
tích lũy
trì
và người
phấn
và người
hương
lớn
Giọt và
viên
Giọt
300 IR
300 IR
Thời
gian đ/
trị
15.000
24
IR
tháng
25.000
IR
7 tháng
17.450
2,5
IR
tháng
* Nghiên cứu đầu tiên của La Rosa ở Ý chỉ liên quan đến bệnh nhân trẻ
em đã chứng tỏ hiệu quả của STALORAL 300 IR trong việc điều trị bệnh
nhân trẻ em bị viêm mũi- kết mạc (kèm theo hoặc không kèm theo hen)
gây ra bởi phấn cây chữ ma
Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, đối chứng placebo của La Rosa:
• Trẻ em tuổi từ 6 đến 14 tuổi bị viêm mũi- kết mạc dị ứng (kèm theo
hoặc khơng kèm theo hen trung bình) gây ra bởi phấn hoa cây chữ
ma (Parietaria judaica)
• Nhóm điều trị: n = 20; nhóm placebo: n =21
• Thời gian điều trị: hai mùa phấn hoa (24 tháng)
STALORAL (giọt). Liều tích lũy: 150.000 IR (75.000 IR/ năm)
Thì bắt đầu (30 ngày)
Ngày 1- 15
Ngày 6- 10
Ngày 11 - 20 Ngày 21-30
2-4-6-8-10 giọt 2-4-6-8-10 giọt
1 IR/ ml
10 IR/ ml
2-4-6-8-10-
2-4-6-8-10-
12-14-16-18-
12-14-16-18-
24
20 giọt
20 giọt
100 IR/ ml
Thì duy trì ( 300 IR/ ml)
20 giọt / ngày trong vòng 1 tháng
300 IR/ ml
sau đó là 20 giọt 3 lần / tuần
* STALORAL đã được chứng tỏ là liệu pháp hiệu quả chống lại viêm
mũi- kết mạc gây ra bởi phấn cây phấn hương trong nghiên cứu của
Andre
Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, đối chứng placebo của Andre
• Bệnh nhân người lớn và trẻ em tuổi từ 7 đến 55 tuổi bị viêm mũikết mạc (kèm theo hoặc khơng kèm theo hen trung bình) gây ra bởi
phấn hoa cây phấn hương (ragweed pollen)
• Nhóm điều trị: n = 55; nhóm placebo: n = 55
• Thời gian điều trị: 7 tháng
STALORAL (giọt và viên).
Liều tích lũy: phụ thuộc vào nhóm (trung bình=23.000IR)
Thì bắt đầu (28 ngày)
Ngày 1-9
Ngày 10 - 18
Ngày 19-28
2 đến 18 giọt
1 IR/ ml
2 đến 18 giọt
2 đến 20 giọt
10 IR/ ml
Thì chuyển tiếp
Ngày 29 đến ngày 58
100 IR/ ml
3 viên/ ngày
100 IR
Thì duy trì (100 IR- viên)
1 đến 3 viên, ba lần/ tuần
phụ thuộc vào sự dung nạp của bệnh nhân
* Năm 2004, cuộc thử nghiệm điều trị miễn dịch dưới lưỡi bằng
STALORAL đầu tiên ở Canada do T. Bowen tiến hành đã cho thấy rằng
25
điều trị STALORAL liều cao hiệu quả trong bệnh viêm mũi-kết mạc do
phấn hoa cây phấn hương.
Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép, đối chứng placebo của T. Bowen:
• Bệnh nhân người lớn và trẻ em tuổi từ 6 đến 58 tuổi bị viêm mũi-kết
mạc dị ứng do phấn hoa cây phấn hương
• Nhóm điều trị: n = 37; nhóm placebo: n = 39
• Thời gian điều trị: 2,5 tháng
STALORAL (giọt)
Liều tích lũy: 17.450 IR
Thì bắt đầu (17 ngày)
Dữ liệu của thì bắt đầu được bắt đầu một thời gian ngắn
trước khi bước vào mùa phấn hoa dị ứng (trước 2 tuần)
Ngày 1-4
Ngày 5-8
Ngày 9-17
1-3-6-10 giọt
1-3-6-10 giọt
1-3-6-10-12-1416-18-20 giọt
10 IR/ ml
300 IR/ ml
100 IR/ ml
Thì duy trì (300 IR/ ml)
20 giọt / ngày