ĐỀ TÀI: TRẦM CẢM VỚI CÁC RỐI LOẠN CƠ THỂ
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ nhiều thập kỷ trước đây, cùng với những tìm kiếm làm rõ các hội
chứng bệnh học tâm thần kinh điển, người ta đã phát hiện ra các biểu hiện,
nhận dạng ra nhiều trạng thái tâm thần phức tạp không biệt định trong hệ
thống phân loại bệnh. Trong số đó, được chú ý đặc biệt là trầm cảm với các
rối loạn cơ thể – một hình thái có liên quan đến sự chuyển đổi bệnh lý với rối
loạn cảm xúc nhẹ khơng điển hình có khuynh hướng chuyển dạng cơ thể hoá,
gọi là “Trầm cảm Èn” (Masked Depression) (Kiclholz V.A., 1987) [24].
Trong thực hành lâm sàng chung không riêng cho lĩnh vực thực hành
tâm thần học, trầm cảm với các rối loạn cơ thể gặp khá phổ biến. Các bác sĩ
đa kho trong dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chung tiếp cận với người bệnh nhận
thấy khoảng 30 – 70% các rối loạn cơ thể có liên quan đến bệnh lý trầm cảm.
Wayne Katon M.D., 1991 [4] nhận thấy 74% bệnh nhân trầm cảm có biểu
hiện bằng rối loạn cơ thể đến khám tại phòng khám nội khoa tổng hợp và hệ
thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Trầm cảm với các rối loạn cơ thể đã gây ra không Ýt những khó khăn,
gây lầm lẫn trong chẩn đốn và điều trị khơng có kết quả. Trong những năm
gần đây, trầm cảm với các rối loạn cơ thể đã thu hút sự chú ý của các thầy
thuốc tâm thần và các thầy thuốc chuyên khoa khác nhau và đã trở thành vấn
đề quan tâm đặc biệt đối với thực hành y học đặc biệt trong lâm sàng tâm thần
học. Bởi vậy, việc nhận thức đúng, đặc biệt là nhận dạng được các hình thái
khác nhau của quá trình “cơ thể hố cảm xúc” che đậy q trình bệnh lý cảm
xóc khi tiếp cận bệnh nhân, là vấn đề cấp thiết trong thực hành nâng cao chất
lượng chẩn đoán, điều trị hiện nay.
Để góp phần làm sáng tỏ hiểu biết một cách hệ thống trầm cảm với các
biểu hiện cơ thể, bài tổng quan này sẽ tìm hiểu thực chất của các rối loạn cơ
thể, thực vật – nội tạng ở bệnh nhân trầm cảm, đồng thời hệ thống hoá lại mối
quan hệ tâm thần – cơ thể của những rối loạn cơ thể do bệnh lý cảm xúc bị rối
loạn.
I. QUAN NIỆM VỀ TRẦM CẢM VỚI CÁC RL CƠ THỂ
Trầm cảm với các rối loạn cơ thể đã được nhiều nghiên cứu quan tâm
đến từ đầu thế kỷ 19. các nghiên cứu chú trọng mô tả lâm sàng các hình thái
biểu hiện và mối quan hệ của tâm thần và những biến đổi thể chất trong các
bệnh lý cảm xúc “Loạn khí sắc chu kỳ”, “Loạn thần chu kỳ hưng trầm cảm”.
Kahlbaum, 1889, khi nghiên cứu các hình thái biểu hiện của loạn thần
chu kỳ, trong đó có “Khí sắc chu kỳ”. Các triệu chứng cơ thể: ngứa, mày đay,
thống phong, đau đầu, rối loạn chức năng dạ dày – ruột được xuất hiện liên
quan trực tiếp đến những rối loạn cảm xúc cơ bản.
Trong cơng trình “Những khảo cứu lâm sàng của loạn khí sắc chu kỳ”,
Cannabic, 1914 mô tả triệu chứng đau đầu mức độ khác nhau trong rối loạn
cảm xúc trầm cảm.
D.D. Pletnhev, 1927 khi nghiên cứu “Những vấn đề thể chất của loạn khí
sắc chu kỳ”, ông đưa ra tên gọi “Bệnh tâm thần – cơ thể chu kỳ”. Trong đó,
các triệu chứng cơ thể và tâm thần có thể đi cùng nhau, hoặc là biểu hiện độc
lập, riêng rẽ. Có trường hợp, loạn khí sắc chu kỳ được xác định bởi các rối
loạn khí sắc dao động lúc trầm lúc hưng phấn vui vẻ, trường hợp khác có thể
là triệu chứng cơ thể nhiều loại. Các triệu chứng cơ thể, bao gồm những triệu
chứng rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác nhau do ảnh hưởng qua hệ
thần kinh – nội tiết vỏ não và dưới vỏ – rối loạn thực vật nội tạng.
Lange, 1928 lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Tương đương trầm cảm”
(Equivalent depressif) và Becterep, 1928 đưa ra mối quan hệ “tâm thần thể
chất”, trong đó, hình ảnh rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác nhau
được biểu hiện ở bệnh lý loạn khí sắc chu kỳ bằng các triệu chứng cơ thể
phong phú và đa dạng.
Gần đây, bằng nhiều cơng trình nghiên cứu các tác giả đã chỉ ra nguồn
gốc của trầm cảm được biểu hiện bằng những triệu chứng cơ thể. Những triệu
chứng cơ thể được biểu hiện liên quan chặt chẽ với những chu kỳ của rối loạn
tâm thần (Schick, 1947; Protopopop V.P., 1948; Kranuskin E.C., 1960) [27].
Từ những năm 70, vấn đề trầm cảm với các rối loạn cơ thể đã được các
tác giả tập trung nghiên cứu nhiều hơn về lâm sàng bệnh học và điều trị
(Angst, 1971; lopezIbor, 1972; Radmayr, 1974; Snejnevski A.V., 1973, 1975;
Dexiatnhicov V.F., 1975; Kielholz P., 1972, 1973, 1975), v.v.
Theo Kielholz P., 1973, 1975 [20], trầm cảm với các rối loạn cơ thể là
một hình thái bệnh lý mà trong đó các triệu chứng cơ thể được bộc lộ chiếm
ưu thế ở vị trí hàng đầu, cịn những triệu chứng rối loạn cảm xúc lại ở vị trí
thứ yếu không rõ ràng. Theo Avơruxki G.IA. và cộng sự., 1987 [24], trầm
cảm với các rối loạn cơ thể được xem như là một tổng hợp các triệu chứng
phức tạp nhưng thống nhất, bao gồm trong đó là sự suy nhược, loạn cảm giác
bản thểm rối loạn thực vật – nội tạng trên nền rối loạn cảm xúc trầm cảm một
cách kín đáo nhẹ nhàng. Trong nghiên cứu của mình Avơruxki G.IA. đã nhận
xét rằng, trầm cảm với các rối loạn cơ thể được coi là một hình thái có liên
quan đến sự chuyển đổi bệnh lý với rối loạn cảm xúc trầm cảm nhẹ, không
điển hình có khuynh hướng chuyển dạng cơ thể hố, mà tác giả thường mô tả
là hiện tượng cơ thể hoá cảm xúc.
Theo Pichot P., 1973 [22], trầm cảm với các rối loạn cơ thể là sự biểu
hiện cảm xúc trầm cảm mờ nhạt và sự ngụy trang bởi các rối loạn cơ thể thần
kinh nội tạng khác nhau.
Theo Wayne Katon M.D., 1991 [4], trầm cảm với các rối loạn cơ thể là
hình thái bệnh lý mà trong đó rối loạn cảm xúc trầm cảm nhẹ mờ nhạt với hội
chứng cơ thể đa dạng chiếm ưu thế, bao gồm:
Sự mệt mỏi dai dẳng mặc dầu được nghỉ ngơi.
Đau nhức thường khơng phân định được.
Rối loạn giấc ngủ.
Lo âu, dễ kích thích.
Rối loạn dạ dày – ruột (khó chịu vùng thượng vị, kích thích ruột).
Rối loạn tim mạch (đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, thay đổi huyết áp
v.v.).
Theo tribolet S.; Paradas C., 1993 [23] gọi trầm cảm với các rối loạn cơ
thể bằng trầm cảm Èn khi triệu chứng tâm thần ở vị trí thứ 2, cảm xúc trầm
buồn bị che phủ bằng triệu chứng cơ thể chiếm ưu thế đậy trên bề mặt của
cảm xúc. Triệu chứng cơ thể thường gặp là:
Đau đớn về tâm thần và đau đớn về cơ thể, đau luôn biến đổi, đau ở các
vị trí khác nhau mất tính hệ thống theo phân khu thần kinh cảm giác, cường
độ lúc nặng lúc nhẹ, biến đổi thất thường.
Người bệnh thường đã tìm đến nhiều chuyên khoa cơ thể để khám phát
hiện bệnh, nhưng thường không tìm được một tổn thương nào xác đáng.
Nhiều rối loạn tiêu hoá nh: đau bụng, chán ăn, ỉa lỏng, táo bón, buồn
nơn, nơn, cảm giác đầy bụng, ợ hơi, nấc,…
Các nghiên cứu đều thống nhất về nhận dạng biểu hiện cơ thể của trầm
cảm, đó là một hình thái trầm cảm nhẹ, Èn khuất ở bên dưới được biểu thị
trong lâm sàng bằng những triệu chứng cơ thể đa dạng và những rối loạn hệ
thống thần kinh thực vật phong phú. Những hình thái rối loạn cơ thể được các
tác giả giải thích như là sự phát triển và biến dạng các trạng thái cảm xúc trầm
cảm.
Chính vì vậy biểu hiện lâm sàng của trầm cảm với các rối loạn cơ thể rất
đa dạng, phức tạp khó xác định ranh giới lâm sàng đâu là tổn thương thực tổn,
đâu là triệu chứng chức năng của cơ thể trong trầm cảm (Dexiatnhicov V.F.,
1986) [27].
Nh vậy, bằng những nghiên cứu của mình, các tác giả đã làm rõ khái
niệm về trầm cảm với các rối loạn cơ thể, đó là:
Một hình thái bệnh lý rối loạn cảm xúc trầm cảm mờ nhạt, khơng điển
hình thể hiện kín đáo, nhưng xuyên suốt quá trình bệnh lý.
Các triệu chứng cơ thể nhiều loại che phủ lên bề mặt mang tính chất “trá
hình” biểu hiện đa dạng phức tạp hỗn độn.
Ở Việt Nam, từ sau những năm 85 tại khoa Tâm thần Bệnh viện Bạch
Mai nay là Viện sức khoẻ Tâm thần Quốc gia đã có một số nghiên cứu về
“Trầm cảm với các rối loạn cơ thể”. Nhưng khoảng chục năm trở lại đây, các
cơng trình nghiên cứu chun biệt “Lâm sàng trầm cảm với biểu hiện cơ thể
đặc biệt là bệnh lý rối loạn tiêu hoá dạ dày- ruột” (Trần Hữu Bình; Nguyễn
Viết Thiêm; Nguyễn Việt, 2000) đã thể hiện sự nhạy cảm lâm sàng, cập nhật
được những tiến bộ trong nghiên cứu sâu về trầm cảm, trong đó có trầm cảm
với các rối loạn cơ thể giúp cho việc thực hành lâm sàng sớm nhạy cảm hơn,
giảm được sai lầm trong chẩn đoán, phát hiện được sớm và đặc biệt là các
phương pháp điều trị thích hợp. Đã sớm giúp đỡ nhiều người bệnh thốt khỏi
tình trạng bệnh lý ảnh hưởng nặng nề đến khả năng thích nghi và chất lượng
sống của họ, tạo được lối ra sáng sủa cho nhiều người bệnh vì bệnh lý rất
nhạy cảm và phức tạp này.
II. NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ TÂM THẦN – THỂ CHẤT
TRONG TRẦM CẢM VỚI CÁC RỐI LOẠN CƠ THỂ.
Khi xem xét mối quan hệ tâm thần – thể chất trong trầm cảm với các rối
loạn cơ thể, các tác giả dựa trên việc sử dụng đúng đắn các tư tưởng của học
thuyết thần kinh khi bình thường và bệnh lý. Nghĩa là, hệ thần kinh trung
ương thực hiện vai trị điều hồ cơ bản và phối hợp trong hoạt động của cơ thể
nh một khối tồn vẹn, và nhờ chính hệ thống đó mà thực hiện sự phản ánh, sự
tiếp xúc với cơ thể và tác động của nó (Topolianski V.D., 1986) [30]. Nhưng
khi nhấn mạnh vai trị của vỏ não, khơng thể phủ nhận và hạ thấp vai trò của
các phần nằm dưới vỏ (gian não, cấu trúc lưới, hệ viền…), kể cả hệ thống nội
tiết và tồn bộ cấu trúc hố học trong hoạt động chức năng của nó. Những cơ
chế điều hồ và thích ứng của cơ thể khơng những chỉ chịu ảnh hưởng của các
phần cao cấp của hệ thần kinh, mà chính chúng lại có ảnh hưởng tới các bộ
phận đó. Vì thế khi xem xét đến những ảnh hưởng và tác động qua lại của vỏ
não- nội tạng củng cần nhớ đến giữa sự “toàn bộ” của cơ thể và các “bộ phận”
của chúng, và ngược lại giữa “bộ phận” và “toàn bộ”, cũng như giữa trung
tâm và ngoại vi giúp cho ta hiểu tốt hơn bệnh tật và điều trị bệnh đúng hơn.
Trong trầm cảm với các rối loạn cơ thể, mối quan hệ tâm thần – thể chất
được biểu hiện giữa tình trạng rối loạn cảm xúc với những biến đổi chức năng
sinh lý của chúng. Mỗi một cảm xúc, mỗi một xúc động, kể cả trầm cảm đều
có sự thể hiện ra bên ngồi và bên trong (đó là sự biểu cảm), trong đó những
biến đổi thể chất kèm theo cảm xúc thường quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên
hội chứng tâm – sinh lý thống nhất.
Mối quan hệ rõ rệt giữa cảm xúc và sự thể hiện của cơ thể, trước hết cần
nhận xét ảnh hưởng của cảm xúc đến điệu mặt, tư thế của người đang sợ hãi.
Nếu trong sự sợ hãi thường thường mọi chức năng của cơ thể đều hoạt động
và ở trong trạng thái chuẩn bị hành động, thì trong trầm cảm chúng bị ức chế
và chậm chạp. Tình thế khác nhau của cơ thể khi sợ hãi và trầm cảm đều ảnh
hưởng đến hoạt động của từng cơ quan và hệ thống tim mạch (mạch nhanh,
huyết áp khơng ổn định…), hệ thống tiêu hố (tăng tiết dịch dạ dày, thay đổi
hoạt động co bóp…). Mối quan hệ tâm thần – cơ thể được biểu hiện bằng hội
chứng nghi bệnh. Về mặt tâm thần – cơ thể, hội chứng nghi bệnh chiếm vị trí
trung gian giữa trầm cảm lo âu và hoang tưởng. Trong nghi bệnh, thấy có mối
quan hệ chặt chẽ giữa các cảm giác khó chịu trong các cơ quan khác nhau với
các hội chứng bệnh học tâm thần và các bệnh lý trong cơ thể. Trong trầm cảm
cơ thể, nhận thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa tâm thần và thực vật, và trong
những trường hợp đó một số tác giả gọi là “trầm cảm thực vật” (Loper Ibor,
1973; Kielholz P., 1975; Avơruxki G.IA., 1987 [20], [21], [24].
Như vậy, bệnh nhân với các trạng thái trầm cảm cần được phân biệt theo
bệnh học tâm thần và cơ thể, vì giữa hình ảnh bệnh lý tâm thần và các rối loạn
cơ thể và tâm thần là một phản ứng toàn vẹn, là hậu quả của nguyên nhân
chung và của một cơ chế thống nhất, trong đó giữa nguyên nhân và hâu quả
có tác động qua lại và quan hệ tương hỗ phức tạp. I.P Pavlov cho rằng, không
thể tách riêng sinh lý, cơ thể khỏi tâm thần trong các phản xạ phức tạp, nghĩa
là không thể tách khỏi các chịu đựng của những cảm xúc mạnh (nh tức giận,
trầm cảm, lo âu…).
III.
DỊCH TẾ HỌC TRẦM CẢM VỚI CÁC RL CƠ THỂ
1. Tỉ lệ mắc chung
Tần suất trầm cảm với các rối loạn cơ thể trong thực hành chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, Wayner Katon M.D., 1991 [4] nhận thấy 30% bệnh nhân được
xác định trầm cảm với các rối loạn cơ thể trong số người bệnh có rối loạn
trầm cảm đến khám ở lĩnh vực nội khoa chung. Ông ước tính khoảng 1/3 bệnh
nhân trầm cảm với các rối loạn cơ thể đến khám với thầy thuốc chăm sóc sức
khoẻ ban đầu có tới 6 lần trong 1 năm do những triệu chứng cơ thể che giấu
những rối loạn trầm cảm kín đáo.
Nghiên cứu ở cộng đồng của Kessler R.C., 1994 [10] có tới 25 – 30%
bệnh nhân trầm cảm cơ thể đến khám ở thầy thuốc đa khoa, còn theo
Jorgensen C.K., 1988 [8] phát hiện được 25% - 33,3% trầm cảm với biểu hiện
cơ thể trong dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chung.
Nghiên cứu của Stephen E. [14] cũng nhận thấy gần 20% bệnh nhân
trầm cảm với các rối loạn cơ thể trên tổng số bệnh nhân đến khám ở phòng
khám đa khoa chủ yếu là cơ thể mệt mỏi mãn tính và giảm khí sắc kín đáo.
Nhiều nghiên cứu khác đã cho thấy trầm cảm với các rối loạn cơ thể khá
cao 33% - 70% gặp trong lĩnh vực đa khoa, đặc biệt là dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu (Katon W., 1984; Wayner katon M.D., 1991; Hardy P., 1991’
Korkina M.V., 1995;) [4], [9], [12], [18].
Một số nghiên cứu tần suất các rối loạn cơ thể của trầm cảm. Avơruxki
G.IA.; Prokhorova I.C., 1987 [24] nhận thấy 34,2% rối loạn tiêu hoá dạ dày –
ruột, 26,3% rối loạn tim mạch, 21,05% rối loạn thần kinh.
Còn Dexiatnhixov V.F., 1981 [27] nhận thấy 20,5% trầm cảm biểu hiện
bằng rối loạn tiêu hoá, 11,5% rối loạn tim mạch18,1% rối loạn thần kinh,
16,7% rối loạn cơ xương khớp, 3,3% rối loạn niệu sinh dục, và 3% rối loạn
cảm giác da.
Kessler R.C.; Gonagle K.A.; Zhao S., 1994 [10] còng cho thấy khoảng
30% bệnh nhân có trầm cảm biểu hiện bằng các triệu chứng cơ thể thông
thường nhất là các biểu hiện bằng các triệu chứng cơ thể thông thường nhất là
các biểu hiện về dạ dày – ruột và các rối loạn tim mạch.
2. Tuổi và giới
Kielholz P., 1973 [20], trầm cảm với các rối loạn cơ thể gặp ở người lớn
và cả trẻ em, nhưng biểu hiện ở trẻ em khác hơn ở người lớn. Các rối loạn
đường hô hấp, đau, dụ cảm, rối loạn dạ dày – ruột, v.v. thường thấy ở người
lớn, còn ở trẻ em thường biểu hiện các tật cắn móng tay, mút ngón, lầm lì
khơng nói, chứng bỏ nhà đi tụ tập nhóm.
Dexiatnhicov V.F., 1981 [27], trầm cảm với các rối loạn cơ thể có thể
gặp nhiều ở mọi lứa tuổi từ 11 – 60t, nhưng thường gặp hơn cả là lứa tuổi 21
– 40 tuổi (71,4%) và nữ gặp nhiều hơn nam.
3. Tình trạng hôn nhân
Nghiên cứu của Kesler R.C. và cộng sự., 1994 [10] nhận thấy trầm cảm
với các rối loạn cơ thể thường gặp ở những người có cấu trúc gia đình khơng
hồn chỉnh: gố, ly dị, li thân nhiều hơn những người có gia đình hồn thiện.
4. Hồn cảnh kinh tế – xã hội
Waynerkaton M.D., 1991; Kessler R.C., 1994; Hardy P., 1991 [4], [10], [18]
các nghiên cứu dịch tễ trong cộng đồng đã cho thấy tỷ lệ trầm cảm với biểu
hiện cơ thể gặp nhiều ở quần thể người sống nơng thơn có mức sống thấp.
5. Nguy cơ tự sát ở bệnh nhân trầm cảm với các rối loạn cơ thể
6. Dexiatnhicov V.F. và cộng sự, 1981 [27] bằng nghiên cứu của mình
đã chỉ ra, những bệnh nhân trầm cảm với biểu hiện cơ thể mãn tính phát hiện
muộn có thể thấy khuynh hướng tự sát. Trong số đó có tới 42% bệnh nhân
xuất hiện ý tưởng tự sát, và 2/3 số đó đã có hành tự sát.
Lopez Ibor còn nhận thấy người bệnh trầm cảm với các rối loạn cơ thể
đến với thầy thuốc chuyên khoa tâm thần muộn nhiều khi phải trải qua rất
nhiều năm: 84% sau 1 năm, 69% sau 2 năm, 30% sau 05 năm và lâu hơn nữa.
Do biểu hiện lâm sàng bằng triệu chứng cơ thể về phía người bệnh và cả thầy
thuốc tiếp cận đầu tiên dễ bỏ qua và do đó khơng được điều trị thích hợp là
nguy cơ những người bệnh này có ý tưởng và hành vi tự sát.
IV.
1.
PHÂN LOẠI TRẦM CẢM VỚI CÁC RL CƠ THỂ
Vị trí trầm cảm với các rối loạn cơ thể trong hệ thống phân loại
bệnh Quốc tế
“Trầm cảm với các rối loạn cơ thể” được biết từ lâu và đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu. Tuỳ thuộc vào biểu hiện lâm sàng mà trầm cảm với các rối
loạn cơ thể được gọi bằng những tên rất khác nhau, nhưng nó khơng được đặt
ở một mục riêng biệt trong hệ thống phân loại bệnh học nào.
Lopez Ibor J.J., 1972 [21], khi nghiên cứu những biểu hiện của trầm
cảm với các rối loạn cơ thể, ông không đưa ra phân loại mà cho biểu hiện cơ
thể của trầm cảm là do mối quan hệ khơng thể chia cắt tâm thần và cơ thể,
trong đó không ngoại trừ cảm xúc và cơ thể.
Kielholz. P., 1973 [20], coi trầm cảm với các rối loạn cơ thể là một
trạng thái bệnh mà trong đó bản thân cảm xúc được bao trùm bởi các rối loạn
cơ thể. Trạng thái này tìm thấy trong trầm cảm nội sinh và cả trầm cảm tâm
sinh.
Pichot. P-1973 [22], khi phân tích đánh giá các triệu chứng trầm cảm,
ông xếp triệu chứng cơ thể của trầm cảm vào nhóm “trầm cảm khơng điển
hình”. Đó là biểu hiện trầm cảm mờ nhạt và sự “ngụy trang” bởi các rối loạn
cơ thể thần kinh thực vật nội tạng.
Avơruxki G.IA., 1987 [24] thừa nhận có một hình loại rối loạn trầm
cảm trong lâm sàng, biểu thị sự chuyển đổi rối loạn cảm xúc trầm cảm nhẹ
sang dạng cơ thể hố. Đó là phức hợp phản ứng tâm – sinh học phức tạp của
não.
Druoet A. và cộng sự., 1998 [3] xếp trầm cảm cơ thể vào thể lâm sàng
rối loạn trầm cảm tiên phát.
Nh vậy, rõ ràng trầm cảm với các rối loạn cơ thể là một trạng thái bệnh
lý phối hợp về cơ thể và cảm xúc chưa có vị trí biệt định trong hệ thống phân
loại bệnh.
+ Trong bảng phân loại bệnh Quốc tế 10,1992 [2] trầm cảm với các rối
loạn cơ thể được mô tả ở mục “Các giai đoạn trầm cảm khác” (F32.8), nghĩa
là cũng không được tách ra thành một mục bệnh học riêng biệt. Đó là một
trạng thái trầm cảm thực thụ, nhưng không đủ tiêu chuẩn của một giai đoạn
trầm cảm nhẹ, vừa và nặng (F32.0 – F32.3). Sù pha trộn, lại luôn thay đổi các
triệu chứng của trầm cảm với những triệu chứng dạng cơ thể kéo dài không
do nguyên nhân thực tổn. Sự phối hợp nhiều triệu chứng nh mất ngủ, ăn
không ngon, đau đớn, rối loạn các nội tạng, lo lắng nội tâm, mệt mỏi dai dẳng.
Quan điểm của ICD-IO gọi trạng thái này là “trầm cảm khơng điển
hình”, gặp ở mọi bệnh nhân trầm cảm nhưng biểu hiện cơ thể là tất yếu, chỉ
khác là biểu hiện rõ rệt, nổi trội, hay biểu hiện không rõ rệt bị lấn át bởi triệu
chứng tâm thần.
2.
Các hình thái trầm cảm với các rối loạn cơ thể
Các biểu hiện của trầm cảm với các rối loạn cơ thể rất phong phú và đa
dạng.
+ Có tác giả tách ra các rối loạn chức năng hoạt động của hệ thống cơ
thể nh: rối loạn co bóp tim mạch, rối loạn co bóp dạ dày – ruột, rối loạn thực
vật – nội tạng, v.v. coi đó là hình thái chung phổ biến trong lâm sàng bệnh lý
trầm cảm với các rối loạn cơ thể (Nevzorova T.A.; Drobirev U.Z., 1975).
+ Một số tác giả lại phân thành biểu hiện cơ thể của trầm cảm với rối
loạn đau, tăng cảm, dị cảm, loạn cảm giác bản thể.
Song, hầu hết các tác giả thống nhất rằng, trong bất kỳ một dạng trầm
cảm với các rối loạn cơ thể nào, các rối loạn cảm xúc vẫn là đầu tiên và cơ
bản. Chính những dấu hiệu cơ thể của bệnh nổi trội, hình thành một hình ảnh
lâm sàng của cơn bệnh, lơi cuốn sự chú ý cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc và
thường dẫn đến những chẩn đốn khơng đúng , điều trị khơng có kết quả.
Tính đa dạng của các biểu hiện của trầm cảm với các rối loạn cơ thể
được chọn ra một số hình thái thường biểu hiẹn sau đây [27]:
Đau, loạn cảm giác (vùng đầu, vùng ngực, vùng bụng, toàn thân).
Hội chứng gian não (rối loạn thực vật – nội tạng, rối loạn vận mạch – dị
ứng).
Rối loạn lo âu ám ảnh sợ.
Các hình thái trên đã phản ảnh đặc điểm cấu trúc gian não, trục hạ đồi –
tuyến thượng thận trong bệnh lý cảm xúc.
V.
ĐẶC ĐIỂM CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA TRẦM
CẢM VỚI CÁC RỐI LOẠN CƠ THỂM
Hình ảnh lâm sàng của bệnh trầm cảm với các rối loạn cơ thể được nhận
biết nhờ tính khơng đặc hiệu và đa dạng của các rối loạn cơ thể, tức là hình
ảnh của bất kỳ một rối loạn cơ thể và rối loạn chức năng nào và sự thể hiện
mờ nhạt của các triệu chứng trầm cảm.
1. Các biểu hiện lâm sàng của trầm cảm với các rối loạn cơ thể.
Vai trò sinh học của cảm xúc liên quan rất chặt chẽ đến hệ thống thần
kinh, thực vật – nội tạng. Từ đó hình thành sự liên kết phức hệ rối loạn cảm
xúc – thực vật nội tạng, trở thành như một yếu tố xác định bệnh cảnh lâm
sàng. Nhiều tác giả đã chia các biểu hiện ra các nhóm sau đây:
1.1.
Nhóm các triệu chứng chung
Đó là một tập hợp các rối loạn phong phú, đa dạng và không rõ ràng về
tình trạng sức khoẻ của mình (Lopez Ibor, 1973; Kielholz P., 1973; Pichot P.,
1973, Dexiatnhicov V.F., 1981, Avơruxki G.IA., 1987; Waynerkaton M.D.,
1991) [4], [20], [21], [22], [24], [27]. Người bệnh giảm khí sắc, uể oải, bơ
phờ, buồn chán với những cảm giác nặng nề, bế tắc trong cơ thể được biểu
hiện ra ngoài bằng các triệu chứng chung:
+ Giảm hoạt động và nét mặt kém linh hoạt.
+ Hạn chế tiếp xúc và thụ động khi trị chuyện.
+ Giọng nói nhỏ yếu đơn điệu, lời nói chậm, ngắt quãng.
+ Ýt quan tâm chú ý đối với chung quanh.
+ Sù suy yếu chung về cơ thể: chóng mệt mỏi, cảm giác mệt mỏi bất
thường, bất lực, không hăng hái, giảm khả năng lao động và sự sáng tạo,
khơng có khả năng đề ra kế hoạch và tự giảm quyết.
+ Rối loạn giấc ngủ: khó ngủ, ngủ khơng sâu, giấc ngủ đứt qng, thức
giấc sớm hoặc mất ngủ.
+ Biếng ăn, ăn không ngon miệng, sút cân.
+ Giảm, mất ham muốn tình dục, liệt dương, xuất tinh sớm, ở phụ nữ
lãnh khí, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, mất kinh, thiểu kinh, kinh nguyệt không
đều.
+ Lo lắng, chi li, dễ xúc động, mau nước mắt dễ khóc, khó cười, dễ bị
kích thích và hay ngờ vực.
1.2.
Nhóm các triệu chứng chủ quan
Đó là các lời than phiền về tình trạng khó chịu khác nhau mà bệnh nhân
thường thông báo với thầy thuốc [21], [24], [27], [28], [30]:
- Than phiền về các cảm giác đau có thể khu trú ở bất kỳ một bộ phận
nào của cơ thể.
- Than vãn về tình trạng trống rỗng hoặc đặc sệt trong đầu, cảm giác
nghẹt ở ngực, chướng bụng, tê bì, lạnh giá chân tay, cột sống:
+ Cảm giác buồn nôn, nôn mửa, đau âm ỉ không khu trú cụ thể, đầy
bụng, khó tiêu khơng liên quan đến ăn uống, táo bón hoặc ỉa chảy, rối loạn
nhu động ruột,v.v.
+ Cảm giác tim đập nhanh, mạnh có thể lên tới 120 nhịp/1phút, có ngoại
tâm thu. Cảm giác đau nhói, buốt, co thắt vùng tim lan sang vai trái không
liên quan đến lao động thể lực. Huyết áp tăng, giảm, v.v.
+ Đau tứ chi, bả vai, đầu. Rối loạn tiền đình (chóng mặt, đi loạng
choạng, chao đảo như mất trọng lượng, buồn nôn), khó nuốt, nói khó, v.v.
+ Than phiền về cảm giác đè Ðp và thắt chặt khi thở.
+ Than phiền về ngứa ngoài da: ngứa kéo dài gây mất ngủ, điều trị bằng
thuốc kháng Histamin không đỡ, thuốc an thần củng khơng có hiệu quả.
Nhận xét về các biểu hiện lâm sàng của trầm cảm với các rối loạn cơ thể
các tác giả coi nh một tổ hợp các triệu chứng rất phong phú và đa dạng thuộc
về thể chất, thần kinh – tâm thần. Tính phong phú của các biểu hiện khơng thể
xếp vào triệu chứng học của một bệnh nhất định nào đó của cơ thể [20], [21],
[22], [24], [27].
2. Đặc điểm biểu hiện của trầm cảm với các rối loạn cơ thể
2.1. Các biểu hiện của trầm cảm với các rối loạn cơ thể phong phú đa
dạng, nhưng đều là những rối loạn chức năng của một cơ quan hoặc một hệ
thống nào đó của cơ thể. Mọi kết quả khám xét về lâm sàng và cận lâm sàng
của các thầy thuốc chuyên khoa sâu đều không phát hiện được về một tổn
thương thực thể nào tương xứng.
2.2. Trong thời kỳ khởi đầu, các rối loạn cơ thể phát triển dần dần, không
rõ ràng cùng với những biểu hiện cảm xúc mở nhạt. Người bệnh chỉ than
phiền về các kiểu khó chịu khác nhau không thuộc phạm vi một cơ quan nào.
Chính những triệu chứng mơ hồ này mà tất cả các bệnh nhân trước đây một
thời gian dài (từ 6 tháng – 6 năm) chưa bao giờ đến thăm khám tại các thầy
thuốc tâm thần, mà lại được các thầy thuốc chuyên khoa khác theo dõi [20],
[24], [27].
2.3. Đa số các tác giả nhận xét, trong tất cả các triệu chứng thường gặp
hơn cả là các loại “cảm giác đau” và “loạn cảm giác bản thể”. Nó đã trở thành
triệu chứng trội, thu hút sự chú ý của bệnh nhân và lôi cuốn đến các thầy
thuốc điều trị các chuyên khoa [16], [17], [21], [22], [24], [27].
Đặc điểm của hình thái đau và loạn cảm giác bản thể.
+ Người bệnh nhấn mạnh đặc điểm của hình thái đau – là rất dày vị, rất
sâu, rất khó chịu trong tất cả các phần khác nhau của cơ thể và các cơ quan,
có tới 77% (đau trong cơ bắp, đau trong xương, đau trong đầu, trong ngực,
trọng bụng, v.v.) sử dụng các thuốc giảm đau đều khơng có tác dụng (Loper
Ibor, 1973; kielholz P., 1973; Avơruxki G.IA., 1987; Bouraeu F., 1989) [17],
[20], [21], [24].
Những cảm giác nặng nề, rất khó chịu ở trong đầu: cảm giác nóng lan, bị
chèn Ðp, có cảm giác mũ nặng, vịng siết, nặng gáy, nhức trán, v.v. cùng với
những chóng mặt sợ hãi.
Trong bệnh rối loạn chức năng dạ dày – ruột, người bệnh mơ tả có cảm
giác đau âm ỉ, khơng có khu trú cụ thể, co thắt dị cảm vùng thượng vị, dạ dày
– ruột, vùng gan. Bệnh nhân cảm giác đè nặng, “rung” dạ dày, tiếng “óc ách”
trong bụng, cảm giác căng đầy, chướng bụng, sôi bụng, buồn nơn, ợ chua,
cảm giác nén tắc, co thắt khó chịu. Những cảm giác đau không liên quan đến
việc ăn và đặc điểm ăn uống.
Nếu các rối loạn tim mạch là chủ đạo trong hình ảnh lâm sàng, thì bệnh
nhân kêu có mạch đập nhanh, đau nhói vùng tim và co thứt tim, đau dưới
mạng sườn, cảm giác nóng ran ở ngực, và tim đập thình thịch.
+ Đặc điểm của cảm giác đau là mang màu sắc loạn cảm giác bản thể
thường kèm theo những dị cảm, lo lắng và căng thẳng nội tâm.
+ Có thể khu trú ở bất kỳ một bộ phận nào đó của cơ thể, hoặc có thể
chuyển chỗ và luân phiên nhau không tương xứng với định khu giữa triệu
chứng đau với các vùng phân bố thần kinh. Các hình thái đau loạn cảm giác
bản thể thường tăng lên vào những giờ ban đêm và gần sáng.
Hình thái loạn cảm giác khởi đầu và diễn biến liên quan đến những yếu
tố tâm lý cá nhân (những biến đổi nội dung cuộc sống, xung đột giữa các cá
nhân, căng thẳng kéo dài) (Loper Ibor, 1973; Dexiatnhicov V.F., 1981) [21],
[27].
3. Diễn biến và hậu quả
Các tác giả đều nhận xét về diễn biến các triệu chứng của trầm cảm với
các rối loạn cơ thể là có xu hướng tiến triển mãn tính. Thời gian ốm bệnh có
thể từ 1 tháng đến 1,5 năm. Sự tiến triển này có đặc điểm che đậy các rối loạn
cảm xúc, làm chẩn đoán khó, đồng thời làm cho quan hệ xấu hơn của bệnh
nhân trầm cảm với các rối loạn cơ thể đối với việc theo dõi của bác sỹ tâm
thần. Mặt khác, trên nền tảng của sự tiến triển kéo dài các rối loạn cơ thể –
thần kinh – thực vật – nội tạng, người bệnh càng có thái độ chú ý quan tâm
đến tình trạng sức khoẻ của mình hơn, hậu làm xuất hiện thêm những cảm
giác lo lắng. Ở đây đã hình thành mối liên quan chặt chẽ giữa thái độ với các
rối loạn cơ thể cũng như các xu hướng điều trị khơng có kết quả đã củng cố
và hình thành các phản ứng nhân cách bệnh lý khác nhau: nhân cách lo âu –
trầm cảm, nhân cách nghi bệnh – trầm cảm, nhân cách suy nhược – trầm cảm,
nhân cách trầm cảm - ám ảnh…, (Dexiatnhicov V.F., 1981; Kupfer D., 1992;
Korkina M.V., 1995) [12], [13], [27].
VI.
CHẨN ĐOÁN TRẦM CẢM VỚI CÁC RL CƠ THỂ
Việc chẩn đoán trầm cảm với các rối loạn cơ thể là rất khó khăn, bởi vì:
Sự biểu hiện rối loạn trầm cảm là “dưới ngưỡng”, pha tạp nhiều triệu chứng
tâm thần và cơ thể không đáp ứng tiêu chuẩn của bất cứ một rối loạn trầm
cảm nào trong hệ thống phân loại trầm cảm được biết định trong ICD – IO
[2]. Các tác giả chẩn đoán trầm cảm với các rối loạn cơ thể chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm lâm sàng qua theo dõi điều trị bệnh nhân trầm cảm với các rối
loạn cơ thể.
Từ việc nghiên cứu đặc điểm các triệu chứng, khám xét lâm sàng chi tiết
sự diễn biến của các rối loạn và sự đáp ứng đối với điều trị, sự hỗ trợ của test
BECK, Hamilton, Zung cho phép thầy thuốc lâm sàng có cơ sở chẩn đoán
được “Trầm cảm với các rối loạn cơ thể”:
+ Sự hiện có các rối loạn cảm xúc ở dạng các trạng thái trầm cảm nhẹ
(trầm cảm không điển hình, trầm cảm mờ nhạt, trầm cảm mỏng manh) trong
hình ảnh lâm sàng của bệnh.
Các rối loạn cảm xúc khó phát hiện do bệnh nhân thường khơng nhận
biết sự giảm khí sắc mà giải thích đó là những khó chịu về cơ thể. Do đó, việc
theo dõi mức độ triệu chứng mới phát hiện được sự ức chế nhẹ nh: giảm cảm
giác khoan khối, khó giao tiếp chung quanh, hạn chế tiếp xúc, giảm hứng thú
vốn có đối với những công việc trước đây.
+ Sù than phiền về các triệu chứng cơ thể – thực vật đa dạng không nằm
trong khuôn khổ của một bệnh cơ thể.
Người bệnh than phiền các loại cảm giác đau và loạn cảm giác khó mơ
tả, khơng khu trú, tản mạn trên tất cả các bộ phận khác nhau của cơ thể và làm
cho họ khó chịu, buộc phải đi gặp thầy thuốc. Chứng đau, rối loạn cảm giác
không tương xứng với tổn thương thực tổn.
+ Người bệnh thường xuyên rối loạn giấc ngủ, ăn khơng ngon miệng,
mệt mỏi, giảm sinh lực, giảm thích thú tình dục, nữ lãnh khí, rối loạn kinh
nguyệt.
+ Các triệu chứng tăng lên vào những giờ ban đêm gần sáng, và giảm đi
vào chiều tối, hoặc ngược lại.
+ Điều trị bệnh cơ thể khơng có hiệu quả.
+ Đáp ứng tốt với các thầy thuốc chống trầm cảm.
Chẩn đoán phân biệt
Do những đặc điểm của trầm cảm đã thể chất hố là có nhiều triệu chứng
cơ thể đa dạng, đặc biệt là các dạng đau loạn cảm giác gây sợ hãi lo lắng,
cũng như các triệu chứng rối loạn thực vật, nội tạng không nằm trong khuôn
khổ của một bệnh thực tổn nhất định, nên cần phân biệt với các rối loạn tâm
thần khác có những biểu hiện tương tự như: tâm căn suy nhược, bệnh cơ thể
tâm sinh, rối loạn phân ly, rối loạn lo âu, rối loạn chức năng thần kinh tự trị
dạng cơ thể, rối loạn nghi bệnh,…
1. Chẩn đoán phân biệt suy nhược trầm cảm với suy nhược cơ thể
Suy nhược trầm cảm, mang tính chất chức năng, khơng có ngun nhân
thực thể, xuất hiện do trạng trhái tâm lý căng thẳng kéo dài.
+ Các triệu chứng chủ quan như mệt mỏi toàn thân, đau mỏi cơ bắp, đau
bụng, đau đầu, ăn không ngon miệng, rối loạn giấc ngủ, khó tập trung chó ý,
giảm trí nhớ, kém linh hoạt, rối loạn tình dục,… thay đổi theo thời gian,
thường xảy ra vào buổi sáng và giảm đi về chiều tối.
+ Các triệu chứng không được cải thiện, thậm chí nặng hơn khi nghỉ
ngơi.
Loper Ibor, 1973; Wayner Katon M.D., 1991; Hardy P., 1991 [4], [18],
[21] gọi suy nhược trầm cảm là suy nhược tâm thể, chiếm 2/3 trong suy
nhược nói chung.
Suy nhược cơ thể, một tình trạng suy nhược với những biểu hiện có tổn
thương thực thể.
+ Các triệu chứng chủ quan thường xảy ra vào chiều tối và cố định
không thay đổi.
+ Shuy nhược cơ thể chiếm 1/3 trong suy nược nói chung.
Khó chẩn đốn trầm cảm với các rối loạn cơ thể với tâm căn suy nhược,
khi người bệnh than phiền chủ yếu là sự mệt mỏi, yếu sức, giảm hứng thú và
tính sáng tạo đối với mọi cơng việc, lo lắng về hiệu suất lao động trí óc và cơ
thể bị giảm sút, kèm theo một vài triệu chứng thần kinh thực vật nội tạng.
Trong những trường hợp nh thế, nhiều tác giả khuyên đặt chẩn đoán rối loạn
trầm cảm. Cũng như thế, đối với các rối loạn cơ thể hố hoặc rối loạn đau dai
dẳng dạng cơ thể có kèm theo lo âu, trầm cảm, một số tác giả cho rằng, đó là
một biến thể của rối loạn trầm cảm hoặc là “ cơ thể hoá” trầm cảm.
2. Chẩn đoán phân biệt “trầm cảm với các rối loạn cơ thể” với rối loạn lo
âu. Đây là một vấn đề khá tế nhị trong chẩn đốn, bởi vì lo âu và trầm cảm có
thể xem như hai giai đoạn triệu chứng của cùng một rối loạn cảm xúc (Kessler
R.C., 1994) [10].
+ Dễ chẩn đoán, khi rối loạn lo âu đi trước đơn độc chưa có sự biến đổi
cảm xúc trầm cảm. Có nghĩa là, các triệu chứng cường giao cảm trong giai
đoạn đầu cảu bệnh phát triển cùng với lo âu vật vã rõ nét. Các rối loạn thần
kinh thực vật nội tạng, khơng mang tính chất rối loạn chức năng sinh thể của
cơ thể nh trong TCCT. Những cảm giác khó chịu trong cơ thể tạo điều kiện
hình thành sự sợ hãi lo lắng, và các rối loạn thực vật nội tạng xuất hiện phụ
thuộc vào đặc điểm của tình huống chấn thương tâm thần đáng kể và đặc
điểm nhân cách của người bệnh.
+ Khó chẩn đốn: khi rối loạn lo âu kéo dài có khuynh hướng mãn tính.
Lúc này, hiện tượng cường giao cảm ban đầu được thay thế bằng hội chứng
giao cảm định khu khơng cịn tình trạng căng thẳng cảm xúc, và thay cho đó
là cảm xúc trầm cảm. Một số tác giả cho hình ảnh lâm sàng đó là của trầm
cảm cơ thể (Xinhiski V.N., 1986; Grigorieva E.A., 1987) [25], [29].
Khi rối loạn hỗn hợp trầm cảm – lo âu dưới ngưỡng. Tức là các triệu
chứng trầm cảm và lo âu khơng đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đốn của rối loạn lo
âu và rối loạn trầm cảm riêng biệt, cả hai song song tồn tại, kèm theo các triệu
chứng cơ thể đa dạng khơng thể giải thích được. Sự chẩn đốn phân biệt, cần
thiết phải thăm khám tồn diện các triệu chứng trầm cảm và lo âu.
3. Chẩn đoán phân biệt “trầm cảm với các rối loạn cơ thể” với bệnh tâm
thần phân liệt nghi bệnh ở giai đoạn phát triển sớm. Nghi bệnh không thấy các
dấu hiệu của loạn thần nặng, và những biến đổi nhân cách phân liệt, hoang
tưởng bị chi phối, ảo giác xuất phát từ các cơ quan trong cơ thể.
Trong chẩn đoán phân biệt, điển hình đối với trầm cảm với các rối loạn
cơ thể là sự giảm khí sắc của bệnh nhân ngay từ đầu được biểu hiện bằng
những triệu chứng về thể chất, đã trở nên ức chế làm cho họ khó chịu.
Trong TTPL phát hiện thấy tương quan bền vững giữa các trạng thái loạn
cảm giác bản thể và các biểu hiện âm tính, tự kỷ, giảm cảm xúc và các q
trình phân liệt khác. Theo mức độ tiến triển của các rối loạn, lời khai của
người bệnh TTPL ngày càng tỏ rõ có sự hoang tưởng. Bản chất của loạn cảm
giác bản thể thực ra là một giai đoạn nhất định của sự hình thành hoang
tưởng. Ở một số bệnh nhân, mức độ thay các rối loạn cảm xúc bằng các rối
loạn hoang tưởng bộ phận trong quá trình phát triển tiếp theo của loạn cảm
giác bản thể, ảo giác – hoảng tưởng bộ phận (Struckovskaia M.V; Topolianski
V.D., 1986) [30].
Trong trầm cảm với các rối loạn cơ thể, bệnh nhân rất khó khăn trong
việc mơ tả các cảm giác của mình. Trong các lời khai của họ nhấn mạnh về
các triệu chứng cơ thể mang đặc điểm di chuyển. Đó là một trong những điểm
cơ bản của trầm cảm với các rối loạn cơ thể đang tiến triển. Thêm nữa, khi
trầm cảm với các rối loạn cơ thể diễn biến lâu dài có khi hàng chục năm,
nhưng khơng tìm thấy các biểu hiện loạn thần.
VII. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH
TRẦM CẢM VỚI CÁC RỐI LOẠN CƠ THỂ.
1. Quan điểm bệnh nguyên, bệnh sinh về rối loạn tâm thần – cơ thể
Nghiên cứu các biểu hiện của trầm cảm với các rối loạn cơ thể, các tác
giả Topolianski V.D., 1986; DonaldOken M.D., 1991; Kojima K., 1996;
Zelenima E.V., 1997 [7], [11], [15], [30], sử dụng phương pháp tiếp cận hệ
thống, nghĩa là:
+ Xem xét cơ thể con người là một chỉnh thể toàn vẹn thống nhất về tâm
thần và thể chất, có ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau.
Giữa cơ thể và mơi trường có mối quan hệ khăng khít. M.D.Donald
Oken, 1991 [7] cho răng, con người khơng thể tách khỏi những yếu tố tác
động của môi trường sống, cái đảm bảo cho nó tồn tại. Mơi trường ảnh hưởng
mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của cá thể.
Những biến cố bất lợi liên quan đến những điều kiện sống và làm việc
của cá nhân và gia đình, cũng như những bệnh cơ thể mãn tính khác nhau
được coi là test cuộc sống và là nguyên nhân gây bệnh:
+ Cuộc sống nghề nghiệp: bị sa thải, thất nghiệp, về hưu, mâu thuẫn,
xung đột trong công việc, v.v.
+ Cuộc sống xã hội: thay đổi chỗ ở, làm ăn thất bát, đổ bể, lụt lội, đói
kém, lạm phát, bị truy bức về chính trị, bất hồ với hàng xóm, v.v.
+ Cuộc sống gia đình: bất hồ vợ chồng, ly thân, ly dị, người thân bị
bệnh cơ thể nặng và chết, con cái hư hỏng, kinh tế thấp, v.v.
+ Cuộc sống lứa đôi: người yêu ruồng bỏ, hạnh phúc tan vì, v.v.
+ Các yếu tố liên quan đến tình trạng sức khoẻ: bệnh cơ thể mãn tính,
nghiện rượu, có thai, sẩy thai, sinh đẻ, mất kinh.v.v.
Tất cả những yếu tố gây stres và những biến cố trong cuộc sống nói trên,
nếu bị kéo dài, tích luỹ lại gây ra sự quá tải về tâm lý tác động vào nhân cách
dễ bị tổn thương, cùng với yếu tố “mất cân bằng sinh hố” trong cơ đóng vai
trị ngun nhân gây nên trầm cảm cơ thể.
Tác động theo cơ thể:
Trước tiên, là sự hình thành những phản ứng cảm xúc khác nhau đối với
những yếu tố bất lợi của môi trường tác động đến con người, phần lớn là các
cảm xúc âm tính.
Tiếp đó, là sự hình thành những phản ứng sinh lý của hệ thống thần kinh,
thực vật – nội tạng đối với các biến đổi cảm xúc, làm rối loạn chức năng hoạt
động cơ thể.
2. Những cơ sở sinh lý thần kinh của các rối loạn tâm thần cơ thể.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa tình trạng sức khoẻ với trạng thái tâm thần
(cảm xúc) của con người, sự ảnh hưởng của các quá trình cảm xúc được biểu
hiện dưới dạng rối loạn chức năng thần kinh, thực vật – nội tạng nhất thời
hoặc mãn tính là thể hiện tính tồn vẹn của cơ thể và sự thống nhất về mặt
tâm – sinh lý.
2.1. Đặc điểm hình thành cảm xúc và những con đường ảnh hưởng của
nó trong cơ thể.
Cảm xóc được biểu hiện rõ rệt trong mối quan hệ tâm thần – cơ thể. Các
trạng thái cảm xúc được hình thành trên cơ sở hoạt động chức năng của các
cấu trúc dưới đồi, cấu tạo lưới, đồi thị hệ limbic, thông qua các amin não chất
dẫn truyền thần kinh và các hormone trong cơ thể. L.T.Lien, 1996; Kojima K.,
1996; Zhelenima E.V., 1997 [1], [11],[15] cho rằng, những kích thích của
mơi trường bên ngồi và bên trong cơ thể được phản ánh thông qua giác quan.
Các xung động thần kinh đó đều đi qua thể lưới, hệ viền rồi lên vỏ não. Tại
đây gây ra những thay đổi hoạt động chức năng phức tạp của các cấu trúc
thần kinh và hệ thống các chất hoá học dẫn truyền thần kinh (chất dẫn truyền
thần kinh – Neurotransmitters) tương ứng với phản ứng cảm xúc nhất định.
Khi con người thể nghiệm cảm xúc của mình, các xung động thần kinh
khơng những truyền qua cấu trúc thần kinh lên vỏ não, mà cịn hình thành
những xung động từ vỏ não lan toả xuống các trung tâm tương ứng của nó và
làm thay đổi những hoạt động chức năng của các cơ quan trong cơ thể thông
qua 3 con đường.
Qua đường hệ thống tháp đến chi phối cơ - xương
Qua đường TK thực vật đến tạng phủ.
Qua đường nội tiết dịch thể thông qua sự bài tiết các hormone tuyến yên.
Quá trình thể nghiệm cảm xúc là quá trình hưng phấn hay ức chế trong
vỏ não và dưới vỏ. Hưng phấn làm tăng trương lực hoạt động của cơ thể và ức
chế làm giảm trương lực hoạt động của cơ thể. Rối loạn các mối tương quan
động học giữa vỏ não và dưới vỏ đóng vai trị quan trọng trong các rối loạn
cảm xúc.
2.2. Vai trò của hệ thần kinh thực vật trong các rối loạn tâm thần – cơ
thể.
Thuyết về sinh lý thần kinh của I.P Pavlov và K.M Bưcov luôn chú trọng
đến vai trò của vỏ não – dưới vỏ cùng với hệ nội tiết nh một hệ thống điều
chỉnh hoạt động cơ quan thực vật – nội tạng và toàn bộ các chức năng cơ thể.
Những biến đổi cảm xúc thông qua vỏ não và dưới vỏ bao giờ cũng kèm
theo sù thay đổi, biến động về thực vật – nội tạng:
+ Hệ thần kinh thực vật được coi nh cơ quan thể hiện cảm xúc quan
trọng nhất, giữ vai trò trung gian giữa hệ thần kinh trung ương và các cơ quan
nội tạng. Topolianski V.D., 1985; Xinhiski V.N., 1986) [29], [30] đưa ra “Hội
chứng tâm thần – thực vật”. Hội chứng này xuất hiện trong một tình huống
nhất định, được coi là “tuyến phịng ngự”, mang đặc điểm bệnh lý với sự căng
thẳng về cảm xúc thường xuyên và lâu dài đối với cá thể. Những rối loạn cảm
xúc kéo dài sẽ làm xuất hiện những rối loạn thực vật – nội tạng mãn tính. Rối
loạn thần kinh thực vật – nội tạng đều có thể xẩy ra lan toả hoặc khu trú ở một
cơ quan nào đó, được biểu hiện thường xuyên hoặc dưới dạng cơn thực vật
khác nhau ở từng bệnh nhân.
+ Một số tác giả khác đưa ra khái niệm “Các cảm giác của hệ giao cảm”:
Nghĩa là rối loạn chức năng cơ thể với cảm giác giao cảm nặng nề, khó chịu
cùng với sự lo âu, buồn rầu, thường thấy trong cấu trúc các trạng thái trầm
cảm có nguồn gốc khác nhau (Dexiatnhicov V.F., 1981; Arusanhan E.B.,
1987) [25], [27].
Nh vậy, những rối loạn cảm xúc nhất thời hoặc kéo dài đều dẫn đến
phản ứng thần kinh thực vật – nội tạng chi phối các cơ quan. Nhiều tác giả coi
hệ thống thần kinh thực vật đóng vai trị “nh dẫn truyền cảm xúc” cho tồn
bộ cơ thể, khẳng định đó là “cái chung”, là “sự hoà nhập” giữa cảm xúc và cơ
thể (Xinhiski V.N., 1986; Topolianski V.M., 1986) [29], [30].
3. Cơ chế hoá động thần kinh – dịch thể của những rối loạn cơ thể do
cảm xúc khơng ổn định.
Hình thái rối loạn cảm xúc “Trầm cảm với các rối loạn cơ thể” được biểu
hiện bằng các triệu chứng tâm thần và cơ thể phong phú, đa dạng là do rối