ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ OANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO CÁC CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2021
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ OANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO CÁC CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN MẠNH THẮNG
Hà Nội – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Oanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BTTH
Bồi thường thiệt hại
BXD
Bộ Xây dựng
CSH
Chủ sở hữu
CTXD
Cơng trình xây dựng
HĐXX
Hội đồng xét xử
NCH
Người chiếm hữu
TAND
Tòa án nhân dân
TNBTTH
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
TP
Thành phố
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 5
3. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 10
4.Mục đíchvà mục tiêu nghiên cứu đề tài ............................................................ 11
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................................ 12
6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài .......................................................................... 13
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 15
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO CÁC CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA ........................................... 16
1.1. Các học thuyết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơng trình xây
dựng gây ra ........................................................................................................... 16
1.1.1. Học thuyết về sự cẩu thả (Negligence) ...................................................... 17
1.1.2. Học thuyết về lỗi do suy đoán (Presumed Fault Liability) ........................ 18
1.1.3. Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (Strict liability) .......................... 19
1.1.4. Sự kết hợp giữa học thuyết về lỗi do suy đoán và học thuyết về trách
nhiệm nghiêm ngặt ............................................................................................... 20
1.1.5. Học thuyết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơng trình xây
dựng gây ra trong pháp luật dân sự Việt Nam ..................................................... 22
1.2. Khái niệm, bản chất và các đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra ......................................................... 25
1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các
cơng trình xây dựng gây ra................................................................................... 25
1.2.2. Các đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây
dựng gây ra ........................................................................................................... 34
1.3. Vai trị, vị trí và chức năng của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
các cơng trình xây dựng gây ra ............................................................................ 41
1.3.1. Vai trị và vị trí của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra ........................................................................................... 41
1
1.3.2. Chức năng của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra ........................................................................................... 41
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ................................................................................... 48
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO CÁC CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG
GÂY RA TẠI VIỆT NAM ................................................................................. 49
2.1. Tổng quan pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình
xây dựng gây ra .................................................................................................... 49
2.1.1. Tổng quan tình hình gây tai nạn do các cơng trình xây dựng hiện nay ..... 49
2.1.2. Tổng quan pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình
xây dựng gây ra .................................................................................................... 52
2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do các cơng trình xây dựng gây ra hiện nay tại Việt Nam ............................. 59
2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về các trường hợp phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra............................ 59
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về xác định thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra ........................................................................................... 64
2.2.3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về xác định chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra ....................................... 72
2.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
các cơng trình xây dựng gây ra tại Việt Nam....................................................... 80
2.3.1. Ưu điểm ...................................................................................................... 80
2.3.2. Một số điểm hạn chế, bất cập ..................................................................... 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 85
CHƢƠNG 3. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO CÁC CƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................... 87
3.1. Kiến nghị về định hướng hoàn thiện các chế định pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra ....................................... 87
3.2. Kiến nghị nhằm hồn thiện cơng tác thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do các công trình xây dựng gây ra ............................................. 92
2
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................... 97
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 101
3
MỞ ĐẦU
Xã hội khơng ngừng phát triển kéo theo đó là sức ép dân số lên mọi mặt
của đời sống đặc biệt là q trình đơ thị hóa. Dân số tăng nhanh, nhu cầu về
nhà ở, trường học, bệnh viện và các cơng trình phục vụ dân sinh khác trở
thành một bài toán cần được giải quyết, như lời giải cho bài tốn dân số hàng
loạt cơng trình được xây dựng. Nhưng khơng phải cơng trình nào cũng được
đảm bảo về chất lượng, thậm chí thiếu tính đồng bộ trong quy hoạch đô thị
dẫn đến những vụ tai nạn đáng tiếc xảy ra trong q trình thi cơng, sử dụng
gây thiệt hại về người và tài sản. Tất yếu cần có những quy phạm pháp luật
quy định việc thực hiện TNBTTH ngồi hoạt động nói chung, TNBTTH do
cơng trình xây dựng gây ra nói riêng nhằm khắc phục hậu quả, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại cũng như người có trách
nhiệm bồi thường.
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết Trung
ương số 48 - NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 trong đó xác định
“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế” là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện. Trước đây, các chế định về BTTH do cơng
trình xây dựng gây ra được quy định tại Điều 627 Chương XXI BLDS 2005,
hướng dẫn áp dụng theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao song những quy định này vẫn còn chung
chung, thiếu chi tiết. Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, BLDS sửa đổi bổ
sung 2015 được ban hành, đã khắc phục những điểm hạn chế, tồn tại ở BLDS
2005 nhưng vẫn chưa thể bao quát các tình huống nảy sinh trong áp dụng
pháp luật vào thực tế bồi thường thiệt hại do cơng trình xây dựng gây ra.
Ngun nhân của những hạn chế nêu trên là do những quy định về điều kiện
phát sinh TNBT, căn cứ xác định chủ thể chịu TNBT, căn cứ xác định thiệt
hại được bồi thường, các trường hợp loại trừ thiệt hại… còn chưa cụ thể, rõ
ràng.
4
Những bất cập nói trên gây ra thực trạng thiếu cơ sở thực hiện, chấp
hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong q trình BTTH do cơng trình xây dựng gây ra,
làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật vào thực tế đời sống. Điều này thể hiện
rõ qua việc nghiên cứu một số bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết bồi
thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra. Trong nhiều vụ việc, Tòa
án dường như đã áp dụng những quy định chưa thực sự phù hợp để làm căn
cứ đưa ra phán quyết dẫn đến trường hợp có những vụ việc mang tính chất
tương tự như nhau nhưng ở những tịa án khác nhau lại có những phán quyết
khác nhau, gây ra bức xúc cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Nghiên cứu quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra trong pháp luật dân sự hiện hành, tác giả nhận thấy các
quy định này chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện; cịn tồn tại
nhiều quan điểm trái chiều về các vấn đề có liên quan như đối tượng gây thiệt
hại, đặc điểm của trách nhiệm, chủ thể chịu trách nhiệm…
Thực trạng đó địi hỏi cần phải tiến hành một cơng trình nghiên cứu đầy
đủ và tồn diện, làm căn cứ hoàn thiện các chế định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa
chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các công trình xây dựng
gây ra theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp thạc s chuyên
ngành Luật Dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều cơng trình khoa học ở những mức độ
khác nhau nghiên cứu về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra. Cụ
thể:
- Luận án tiến s của tác giả Phạm Kim Anh (2007), “Trách nhiệm liên
đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam” - Đại học Luật
Hà Nội. Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm liên đới trong
5
bồi thường thiệt hại. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện
hành về trách nhiệm liên đới, luận án đã chỉ ra điểm bất cập trong quy định
của pháp luật khi không quy định trách nhiệm bồi thường của người khảo sát,
thiết kế, thi công khi nhà cửa, CTXD khác gây thiệt hại. Tác giả luận án kiến
nghị: cần phải quy TNBTTH trong trường hợp CTXD chưa hoàn thành gây
thiệt hại là trách nhiệm liên đới giữa CSH cơng trình và người thi cơng cơng
trình.
- Luận án tiến s của tác giả Nguyễn Văn Hợi (2017), “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam” - Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội. Luận án gồm 3 chương: Chương 1 tác giả giải
quyết các vấn đề lý luận của TNBTTH do tài sản gây ra; Chương 2, tác giả
nghiên cứu các trường hợp BTTH do tài sản gây ra; Chương 3, tác giả đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về TNBTTH do tài sản gây ra. TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra được
tác giả phân tích tại mục 2.4 của Luận án. Trong đó, tác giả xây dựng khái
niệm và phân tích đặc điểm của nhà cửa, CTXD; trình bày thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, CTXD
khác gây ra; trên cơ sở đó, tại mục 3.5 tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra.
- Luận văn thạc s luật học của tác giả Giang Văn Thịnh (2013), “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác theo
pháp luật dân sự Việt Nam” - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận
văn gồm 3 chương, Chương 1 tác giả đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận về
TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra, trong đó nghiên cứu các vấn đề
như: Khái niệm về nhà cửa, CTXD khác; Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của
TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra; Khái quát lịch sử của pháp luật
Việt Nam và pháp luật của một số nước về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác
gây ra. Trong Chương 2, tác giả phân tích các quy định của pháp luật Việt
Nam về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra trên theo các nội dung: chủ
6
thể chịu TNBTTH khi cơng trình đã đưa vào khai thác sử dụng; Chủ thể chịu
TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra khi cơng trình đang thi cơng xây
dựng; Những trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường và giải quyết tranh
chấp bồi thường thiệt hại do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Tại Chương 3, tác
giả đưa ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra.
- Đề tài khoa học cấp trường (2009), “Trách nhiệm dân sự do tài sản
gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội do Tiến s Trần Thị Huệ làm chủ nhiệm đề tài. Đây là cơng trình
khoa học nghiên cứu tổng thể các vấn đề về TNBTTH do tài sản gây ra nói
chung trong đó có TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra. Trên cơ sở đó,
tác giả đã chỉ ra những điểm bất cập và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường và
điều kiện làm phát sinh TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra.
Ngồi những đề tài nghiên cứu đã có sức ảnh hưởng thì một số bài viết
tiêu biểu như bài viết đã được công bố của tác giả Đỗ Văn Đại và Lê Hà Huy
Phát (2012) về “BTTH do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây ra” – Tạp
chí Khoa học Pháp lý số 05/2012 đưa ra quan điểm riêng về các vấn đề pháp
lý của BTTH do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây ra khi BLDS 2005
vẫn còn hiệu lực, đồng thời chỉ ra những điểm bất hợp lí của pháp luật về
BTTH do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây ra; cùng với đó là những bất
cập đang tồn tại dựa trên cơ sở của việc nghiên cứu Quyết định số
322/2011/DS-GĐT ngày 28/04/2011 và Quyết định số 19/2012/DS-GĐT
ngày 13/01/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân Tối cao của cả hai tác giả.
- Bài viết của tác giả Trần Ngọc Dương (2009), “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự của Cộng hịa
Pháp” - Tạp chí Luật học (số 1). Bài viết đã phân tích những vấn đề cơ bản
của TNBTTH ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp như:
7
nguyên tắc chung, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm. Tác giả phân chia
TNBTTH ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp thành ba
loại: trách nhiệm đối với thiệt hại do bản thân gây ra; trách nhiệm đối với thiệt
hại do người thứ ba gây ra và trách nhiệm đối với thiệt hại do đồ vật hay gia
súc gây ra. Theo phân tích của tác giả, TNBTTH do đồ vật hay gia súc gây ra
là trách nhiệm khơng dựa trên lỗi hay cịn gọi là trách nhiệm đối với rủi ro và
TNBTTH do CTXD khác gây ra là một “trường hợp đặc biệt” của loại trách
nhiệm này. Tác giả chỉ rõ: CSH bất động sản phải chịu trách nhiệm về thiệt
hại do bất động sản của mình bị đổ nát hoặc bị gây ra nếu sự đổ nát là do sai
sót trong xây dựng hay do sự thiếu tu bổ cơng trình.
- Bài viết của tác giả Phạm Kim Anh (2009), “Trách nhiệm dân sự và
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005
thực trạng và giải pháp hoàn thiện” - Tạp chí Khoa học pháp lý (số 6). Bài
viết đã phân tích một số những điểm chưa rõ trong quy định của pháp luật
hiện hành về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra như: chưa xây dựng
được khái niệm về “CTXD”, chưa có sự phân biệt giữa trách nhiệm của CSH,
người được giao chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, CTXD đã hoàn thành và đã
được đưa vào sử dụng với cơng trình đang được xây dựng, chưa hồn thành.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm này.
- Bài viết của tác giả Vũ Thị Hồng Yến (2012), “Bàn về trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại” - Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật (Số 11). Bài viết đã phân tích các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, phân biệt điều kiện làm phát
sinh TNBTTH do hành vi của con người gây ra có liên quan đến tài sản và
trách nhiệm bồi thường trong trường hợp bản thân tài sản gây ra thiệt hạ. Đặc
biệt, tác giả còn đưa ra tiêu chí để xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại, phân định rõ TNBTTH của
CSH và người được giao quản lý, sử dụng tài sản. Trên cơ sở phân tích những
8
quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp
tài sản gây ra thiệt hại, tác giả đã chỉ ra những bất cập của pháp luật về vấn đề
này và đưa ra sáu kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định đó.
- Tác giả Nguyễn Văn Hợi (2015), “Điều kiện phát sinh TNBTTH do
tài sản gây ra trong Bộ luật dân sự” - Tạp chí Luật học (số 12). Trong bài
viết, tác giả tập trung phân tích các điều kiện xác định TNBTTH do tài sản
gây ra, trong đó nhấn mạnh “lỗi khơng phải là một trong các điều kiện phát
sinh trách nhiệm BTTH”. TNBTTH do tài sản gây ra phát sinh khi thoả mãn 3
điều kiện: có thiệt hại thực tế xảy ra; Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật;
Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại
thực tế đã xảy ra. Tác giả cũng chỉ ra cơ sở xác định điều kiện phát sinh
TNBTTH do tài sản gây ra và trình bày quan điểm cá nhân về các điều kiện
làm phát sinh TNBTTH do tài sản gây ra.
Ngoài ra bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hợi (2014) – “BTTH do tài
sản của Nhà nước gây ra” – Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 8/2014
cũng là một tài liệu tham khảo đáng chú ý. Bài viết nghên cứu một cách cơ
bản vấn đề BTTH do tài sản của Nhà nước gây ra, cũng đề cập đến một số
trường hợp nhà cửa, cơng trình xây dựng thuộc sở hữu của chủ thể là Nhà
nước – được xem như là tài sản công và TNBTTH của Nhà nước khi xảy ra
thiệt hại.
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu hiện nay tập trung chủ yếu vào việc
phân tích thực trạng pháp luật về TNBTTH do nhà cửa, CTXD khác gây ra
theo quy định tại Điều 627 BLDS 2005 và ít đề cập đến những thay đổi theo
Điều 605 BLDS 2015. Một số cơng trình mặc dù đã phân tích những thay đổi
của BLDS 2015 nhưng thiếu sự phân tích đối chiếu với BLDS 2005 để tìm ra
những điểm mới, những ưu điểm và hạn chế. Cũng như chưa có so sánh đối
chiếu với pháp luật dân sự của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới
9
để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với
pháp luật các quốc gia khác về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra.
Trong các cơng trình nghiên cứu kể trên, ở những mức độ khác nhau, các
tác giả cũng đã xây dựng khái quát được khái niệm; bản chất của BTTH;
TNBTTH nói chung và TNBTTH do nhà cửa, cơng trình xây dựng khác gây
ra nói riêng; kèm theo đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Tuy
nhiên, những nghiên cứu này chưa đi sâu được hết các vấn đề liên quan đến
TNBTTH do cơng trình xây dựng gây ra cũng như những đặc điểm pháp lý cơ
bản của loại hình bất động sản này mà chỉ chủ yếu phân tích nó theo hướng
BTTH là tài sản. Những kiến nghị xây dựng pháp luật này đa số mới chỉ tập
trung vào một vài nội dung của TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra
mà chưa có kiến nghị tồn diện. Thêm vào đó kể từ khi BLDS 2015 có hiệu
lực với những sửa đổi theo hướng tích cực thì chưa có bất kì đề tài nào nghiên
cứu trực tiếp vấn đề BTTH; cụ thể là TNBTTH do cơng trình xây dựng gây
nên.
Từ những nội dung trên có thể khẳng định, việc tác giả lựa chọn đề tài
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra theo
pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ là khơng trùng lặp
với những cơng trình đã được cơng bố trước đó; đề tài này cũng có tính cấp
thiết để áp dụng trong thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ cơ
sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các công trình xây dựng gây
ra; phân tích thực trạng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản
pháp luật có liên quan về vấn đề này. Đồng thời cũng tập trung nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra; trên cơ sở đó, đưa ra những ý kiến đánh giá và đề xuất
những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm này.
10
- Về mặt thời gian: Tập trung làm rõ những quy định của BLDS 2015 về
TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra, so sánh với những quy định
trong BLDS 2005 nhằm làm nổi bật những điểm tiến bộ của BLDS 2015.
- Về mặt không gian: Nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng
về BTTH do công trình xây dựng gây ra trên tồn lãnh thổ Việt Nam. Đồng
thời để thấy rõ hơn sự tương đồng, khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, luận văn cũng dẫn chiếu các quy
định pháp luật, các quyết định, các bản án về TNBTTH do các cơng trình xây
dựng gây ra trong pháp luật hiện hành nhằm làm nổi bật thực trạng pháp luật
về TNBTTH do cơng trình xây dựng gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam
hiện hành.
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu đề tài
Về mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề sau:
những cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra.
Đồng thời tìm hiểu thực trạng BTTH; TNBTTH do cơng trình xây dựng
hiện nay tập trung vào các nội dung cơ bản như điều kiện phát sinh, các
nguyên tắc xác định chủ thể phải chịu TNBTTH, chủ thể có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan chịu TNBT do cơng trình xây dựng gây ra, yếu tố lỗi, các
trường hợp được miễn trách nhiệm...
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các kiến nghị hồn thiện quy định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra.
Về mục tiêu nghiên cứu
Với những mục đích đã nêu trên, đề tài tập trung vào các mục tiêu
nghiên cứu cụ thể dưới đây để làm sáng tỏ vấn đề mà đề tài theo đuổi:
11
Thứ nhất, phân tích và xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm của cơng
trình xây dựng; làm rõ bản chất của TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây
ra, xây dựng khái niệm và chỉ ra được những đặc điểm của TNBTTH do các
cơng trình xây dựng gây ra.
Thứ hai, phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những điểm hợp lý và những
điểm còn bất cập trong quy định pháp luật dân sự hiện hành về TNBTTH do
các công trình xây dựng gây ra trên các phương diện cơ bản bao gồm: các
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm, xác định thiệt hại được bồi thường, chủ
thể chịu trách nhiệm bồi thường; chủ thể được bồi thường, các trường hợp
không chịu TNBTTH. Đồng thời, nghiên cứu đi sâu vào thực tiễn thực thi
pháp luật về TNBTTH do cơng trình xây dựng gây ra hiện nay. Cùng với đó,
phân tích những điểm tích cực, hạn chế khi áp dụng các quy định pháp luật
vào giải quyết các vụ việc về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra
trên thực tế
Thứ ba, từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện các quy định
pháp luật về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn sẽ dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đây được coi là kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Phương pháp này
được tác giả sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận trong luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau:
12
- Phương pháp phân tích và bình luận: để làm rõ những vấn đề lý luận
và quy định pháp luật hiện hành về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây
ra;
- Phương pháp tổng hợp: để khái quát hoá thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra, trên
cơ sở đó đưa ra những kiến nghị phù hợp;
- Phương pháp so sánh: để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt
giữa quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế
giới về TNBTTH do các cơng trình xây dựng gây ra.
- Phương pháp hê thống hố: để trình bày các vấn đề, các nội dung theo
một trình tự, một bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển
các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định cho
luận văn.
- Phương pháp phân tích tình huống: để phân tích các tình huống, bản án
trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về TNBTTH do các cơng trình xây
dựng gây ra nhằm làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
trách nhiệm này.
6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các
cơng trình xây dựng gây ra theo pháp luật Việt Nam” sẽ có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận văn đi sâu tổng hợp, phân tích quy định pháp luật dân sự
dựa trên nền tảng là Bộ luật dân sự 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do các cơng trình xây dựng gây ra để làm rõ thực trạng pháp luật. Từ đó, luận
văn có thể đưa ra được đánh giá về những kết quả đạt được, những hạn chế
trong quá trình áp dụng những quy định pháp luật hiện hành và bước đầu đặt
ra vấn đề yêu cầu hoàn thiện pháp luật.
13
Thứ hai, luận văn sẽ phân tích các quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra thuộc hệ thống pháp luật một số
nước trong khu vực và trên thế giới; trên cơ sở đó, so sánh, đối chiếu với pháp
luật Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt
Nam với pháp luật một số nước trong khu vực và trên thế giới về vấn đề
nghiên cứu.
Thứ ba, thơng qua phân tích các bản án đã có hiệu lực, đã được thi hành
trong giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra, đồng thời hướng tới làm sáng tỏ những tranh chấp điển
hình; từ đó luận văn sẽ có thể đánh giá những kết quả đạt được cũng như các
hạn chế trong việc áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp về trách nhiệm
này
Thứ tư, luận văn sẽ đưa ra đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các công trình xây dựng gây ra nói riêng,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nói chung.
14
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung
của luận văn sẽ bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các cơng
trình xây dựng gây ra
Chương 2: Thực trạng chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do các cơng trình xây dựng gây ra tại Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do các công trình xây dựng gây ra ở Việt Nam
hiện nay
15
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO CÁC CƠNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
1.1. Các học thuyết xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do
công trình xây dựng gây ra
TNBTTH do CTXD gây ra là một loại trách nhiệm có lịch sử lâu đời.
Trong bộ luật Hammurabi – bộ luật thành văn cổ xưa nhất của nhân loại – đã
có quy định về trách nhiệm đối với người thợ xây khi “xây không đảm bảo,
nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết” (Điều 38) hoặc "Nếu nhà đổ,
con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo"
(Điều 39). Trong Luật La mã cổ đại, các học giả La Mã cũng đề cập đến
TNBTTH do CTXD gây ra thông qua việc quy định về tố quyền cautio damni
infecti (tố quyền để bảo vệ sự thiệt hại viễn ảnh) [40, tr.469]. Theo đó, trong
trường hợp một tịa nhà có nguy cơ bị sụp đổ, tạo ra một mối đe dọa cho
những người láng giềng thì những người này có quyền yêu cầu các Pháp quan
buộc chủ sở hữu của tòa nhà phải nộp một số tài sản bảo đảm với mục đích
nếu thiệt hại thực sự xảy ra thì người bị thiệt hại sẽ ln được bồi thường.
Cùng với tố quyền cautio damni infecti Luật La Mã cũng quy định trách
nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gây ra bởi các vật bị ném ra hoặc rơi ra
khỏi khỏi tòa nhà (actio effusis et dejectis). Điều này cho thấy sự quan tâm
của con người từ thời xa xưa đối với thiệt hại gây ra bởi sự sụp đổ của CTXD.
Kế thừa quy định kể trên, ngày nay, pháp luật dân sự của rất nhiều các
quốc gia trên thế giới đều có quy định về TNBTTH do CTXD gây ra. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trong khu vực và trên thế
giới tác giả nhận thấy, các quốc gia khác nhau lại dựa trên những học thuyết
khác nhau để xây dựng quy định về trách nhiệm này. Về cơ bản, pháp luật về
TNBTTH do CTXD gây ra trong pháp luật của các quốc gia hiện nay được
xây dựng dựa trên ba học thuyết: Học thuyết về sự cẩu thả (negligence); Học
thuyết về lỗi do suy đoán (Presumed Fault Liability) và Học thuyết về trách
nhiệm nghiêm ngặt (strict 16 liability). Cá biệt, có một vài quốc gia kết hợp cả
16
hai học thuyết (học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt và học thuyết về lỗi do
suy đoán) khi xây dựng quy định về trách nhiệm này (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thái Lan..). Cụ thể:
1.1.1. Học thuyết về sự cẩu thả (Negligence)
Học thuyết này được áp dụng tại Anh - M (các nước theo truyền thống
pháp luật án lệ - Common Law) và một số nước Bắc Âu (Đan Mạch, Phần
Lan, Thuỵ Điển..). Các quốc gia nói trên khơng coi TNBTTH do CTXD gây
ra là một loại TNBTTH do tài sản gây ra mà coi đây là TNBTTH do hành vi
của con người gây ra. Do vậy, trách nhiệm này được xây dựng dựa trên yếu tố
lỗi, là lỗi do cẩu thả.
Sự cẩu thả là việc bỏ qua, không thực hiện các tiêu chuẩn chăm sóc hợp
lý mà một người bình thường sẽ thực hiện trong những tình huống tương tự
nhằm tránh cho những người mà mình có nghĩa vụ pháp lý phải quan tâm
(legal duty of care) bị thiệt hại [41,tr.1133]. Theo học thuyết này, TNBTTH
sẽ phát sinh khi thoả mãn 4 điều kiện: (1) Có nghĩa vụ phải quan tâm đến
người bị thiệt hại của người chiếm hữu CTXD; (2) Có sự vi phạm nghĩa vụ đó
của người chiếm hữu CTXD; (3) Có thiệt hại; (4) Có mối quan hệ nhân quả
giữa sự vi phạm nghĩa vụ với thiệt hại [42, tr.66, 67].
Để yêu cầu BTTH theo học thuyết này thì điều quan trọng đầu tiên là
bên bị thiệt hại phải chứng minh được người chiếm hữu CTXD có một nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật là phải quan tâm bảo đảm sự an tồn về tính
mạng, tài sản, sức khoẻ cho mình. Tuy nhiên, mức độ quan tâm của CSH,
người chiếm hữu CTXD đối với người bị thiệt hại lại phụ thuộc vào địa vị
pháp lý của người bị thiệt hại là “khách mời hợp pháp” hay“khách không
mời” [43, tr.671]. Nếu người bị thiệt hại là “khách mời hợp pháp” thì mức độ
quan tâm, đảm bảo an tồn của CSH, người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng CTXD phải cao hơn so với nếu người bị thiệt hại là “khách không
mời”. Điều quan trọng tiếp theo là người bị thiệt hại phải chứng minh được là
17
CSH, người chiếm hữu CTXD đã vi phạm nghĩa vụ quan tâm đó và chính sự
vi phạm này đã làm phát sinh thiệt hại (giữa sự vi phạm nghĩa vụ và thiệt hại
có mối quan hệ nhân quả với nhau).
1.1.2. Học thuyết về lỗi do suy đoán (Presumed Fault Liability)
Học thuyết này được áp dụng tại một số quốc gia như: Đức (Điều 836 838) Hungary (Điều 5:650), Ba Lan (Điều 434)… Theo học thuyết này,
TNBTTH do CTXD gây ra sẽ được thiết lập khi thoả mãn các điều kiện: (1)
Người bị thiệt hại chứng minh được 3 yếu tố: có thiệt hại, có sự tự thân tác
động của CTXD và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra với sự tự
thân tác động của CTXD (thiệt hại là hậu quả của sự tự thân tác động của
CTXD); (2) CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý CTXD khơng
thể chứng minh được là mình khơng có lỗi trong việc để CTXD tự gây thiệt
hại. Khi đó, Tồ án suy đốn rằng: CSH hoặc người chiếm hữu, người được
giao quản lý CTXD đã có lỗi và buộc những người này phải chịu TNBTTH
[44, tr.30].
Theo học thuyết này, lỗi không phải là điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm nhưng lại là căn cứ để loại trừ TNBTTH cho CSH hoặc người chiếm
hữu, người được giao quản lý CTXD. Chỉ cần CSH hoặc người chiếm hữu,
người được giao quản lý CTXD chứng minh được là mình khơng có lỗi thì họ
sẽ khơng phải chịu TNBTTH. Xét về bản chất, trách nhiệm về lỗi suy đoán
vẫn là trách nhiệm pháp lý dựa trên yếu tố lỗi do suy đoán. Để bác bỏ suy
đoán CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng CTXD có lỗi,
đồng thời cũng là để loại trừ trách nhiệm cho mình thì CSH, người chiếm
hữu, người được giao quản lý, sử dụng CTXD phải chứng minh được mình đã
thực hiện đầy đủ các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa thiệt hại nhưng cuối
cùng thiệt hại vẫn xảy ra, nói cách khác mình khơng có lỗi.
Điểm khác biệt giữa trách nhiệm về lỗi suy đoán so với trách nhiệm dựa
trên yếu tố lỗi truyền thống là gánh nặng về nghĩa vụ chứng minh lỗi đã được
18
chuyển từ nguyên đơn sang bị đơn. So với trách nhiệm pháp lý dựa trên yếu
tố lỗi truyền thống thì trách nhiệm dựa trên lỗi suy đoán đảm bảo sự công
bằng cho cả hai bên (CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng CTXD và bên bị thiệt hại) trong việc đưa ra những bằng chứng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi lẽ, theo học thuyết này, bị đơn vẫn
còn một cơ hội để “giải thốt” trách nhiệm cho mình - bằng việc đưa ra
những bằng chứng chứng minh mình đã thực hiện đầy đủ các biện pháp cần
thiết để ngăn ngừa thiệt hại nhưng cuối cùng thiệt hại vẫn xảy ra. Chỉ khi nào
những chủ thể này không thể đưa ra các bằng chứng chứng minh mình khơng
có lỗi thì khi đó họ mới bị Tồ án suy đốn là có lỗi và bị buộc phải chịu trách
nhiệm. Với tư cách là CSH, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng CTXD thì những chủ thể này thường là những người có kiến thức, có sự
am hiểu nhất định về CTXD thuộc quyền sở hữu, chiểm hữu, quản lý của
mình; do đó, họ cũng sẽ có những điểm thuận lợi nhất định khi đưa ra những
bằng chứng chứng minh mình đã thực hiện đầy đủ những biện pháp phịng
ngừa, chăm sóc cần thiết nhưng CTXD vẫn gây thiệt hại.
1.1.3. Học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability)
Học thuyết này được áp dụng tại một số quốc gia như Pháp, Tây Ban
Nha, Quebec ( Canada )…. Theo học thuyết này, TNBTTH do CTXD gây ra
sẽ phát sinh khi người bị thiệt hại chứng minh được 3 yếu tố: (1) Có thiệt hại;
(2) Có sự tự thân tác động của CTXD; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại xảy ra với sự tự thân tác động của CTXD (thiệt hại là hậu quả của sự sụp
đổ của CTXD). Nguyên đơn không cần chứng minh yếu tố lỗi của CSH,
người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụngCTXD trong việc để
CTXD sụp đổ, gây thiệt hại, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho nạn nhân trong
việc yêu cầu BTTH; ngược lại, bị đơn cũng không thể được miễn trách nhiệm
chỉ vì chứng minh được rằng mình khơng có lỗi [45].
Tương tự học thuyết về lỗi do suy đoán, trong học thuyết về trách nhiệm
nghiêm ngặt, lỗi cũng không phải là điều kiện làm phát sinh TNBTTH. Tuy
19
nhiên, nếu trong trách nhiệm về lỗi do suy đoán, bị đơn sẽ được loại trừ trách
nhiệm nếu chứng minh được là mình khơng có lỗi (“khơng vi phạm các quy
định liên quan đến xây dựng và bảo trì và cũng ko có hành vi sai trái trong
q trình thi cơng và bảo dưỡng để phịng ngừa thiệt hại”[13, Điều 6:560],
“đã tuân thủ sự cẩn trọng cần thiết nhăm mục đích phịng tránh nguy cơ”[9,
Điều 836]) thì trong trách nhiệm nghiêm ngặt, kể cả bị đơn chứng minh được
mình khơng có lỗi thì bị đơn vẫn phải chịu TNBTTH; trừ trường hợp bị đơn
chứng minh được thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng, hoàn toàn do
lỗi của nạn nhân hoặc lỗi của người thứ ba gây ra.
1.1.4. Sự kết hợp giữa học thuyết về lỗi do suy đoán và học thuyết
về trách nhiệm nghiêm ngặt
Nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới
có thể nhận thấy: trong khi đa số các quốc gia lựa chọn một trong ba học
thuyết trên để xây dựng quy định về TNBTTH do CTXD gây ra thì một số
quốc gia lại rất sáng tạo khi kết hợp cả hai học thuyết (học thuyết về lỗi do
suy đoán và học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt) để xây dựng quy định về
TNBTTH do CTXD gây ra. Cụ thể: BLDS Nhật Bản, Hàn Quốc, Bộ luật dân
sự và Thương mại Thái Lan đều có những quy định: trong trường hợp cơng
trình xây dựng gây thiệt hại do khuyết tật trong xây dựng hoặc thiếu bảo
dưỡng thì người chiếm hữu CTXD chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
người chiếm hữu sẽ được loại trừ trách nhiệm nếu chứng minh được là mình
khơng có lỗi (học thuyết về lỗi do suy đoán), “đã thể hiện sự quan tâm đúng
mức nhằm ngăn chặn việc xảy ra thiệt hại” (Điều 717 BLDS Nhật Bản); “đã
thực hiện đầy đủ các biện pháp để ngăn chặn thiệt hại xảy ra” (Điều 758
BLDS Hàn Quốc); “đã có sự chăm nom thích đáng để ngăn ngừa xẩy ra tổn
thất” (Điều 434 BLDS và Thương mại Thái Lan); trong trường hợp này, khi
người chiếm hữu đã loại trừ được trách nhiệm cho mình bằng việc chứng
minh mình khơng có lỗi thì CSH sẽ chịu trách nhiệm bồi thường; CSH phải
20
chịu TNBTTH ngay cả khi chứng minh được là mình khơng có lỗi (học thuyết
về trách nhiệm nghiêm ngặt).
Việc kết hợp cả hai học thuyết về lỗi do suy đoán và học thuyết về trách
nhiệm nghiêm ngặt khi xây dựng quy định về TNBTTH do CTXD gây ra như
trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Đối với chủ thể chịu TNBTTH, việc kết hợp hai học
thuyết đã tạo ra một nguyên tắc rất minh bạch trong việc xác định thứ tự cũng
như căn cứ buộc các chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường, đặc biệt trong
trường hợp tại thời điểm gây thiệt hại, CTXD vừa có CSH vừa có người
chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng. Theo sự kết hợp này, khi thiệt
hại xảy ra, người đầu tiên phải chịu trách nhiệm là người đang trực tiếp chiếm
hữu CTXD; họ phải chịu TNBTTH do bị suy đốn là có lỗi trong việc quản
lý, sử dụng CTXD. Vì lỗi là do suy đốn nên nếu họ chứng minh được là
mình khơng có lỗi thì họ sẽ được loại trừ trách nhiệm. Trong trường hợp đó,
TNBTTH sẽ chuyển sang CSH CTXD. CSH phải chịu trách nhiệm ngay cả
khi chứng minh được là mình khơng có lỗi. CSH chỉ được loại trừ trách
nhiệm nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hoặc
hoàn toàn do lỗi của người thứ ba.
Đối với chủ thể được bồi thường, việc kết hợp cả hai học thuyết cũng tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho những chủ thể này vì cả hai học thuyết đều
không buộc những chủ thể này phải chứng minh lỗi của CSH hay của người
được giao quản lý, sử dụng CTXD. Việc kết hợp linh hoạt hai học thuyết trên
là một kinh nghiệm quý báu mà pháp luật dân sự Việt Nam nên học hỏi khi
xây dựng quy định về TNBTTH do CTXD gây ra nói riêng, TNBTTH do tài
sản gây ra nói chung.
21