Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

TÌNH TIẾT PHẠM tội từ HAI lần TRỞ lên TRONG PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM (TRÊN cơ sở THỰC TIỄN tại TỈNH sơn LA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.81 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÝ HỒNG LINH

T×NH TIÕT "PHạM TộI Từ HAI LầN TRở LÊN"
TRONG PHáP LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Sơn La)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÝ HỒNG LINH

T×NH TIÕT "PHạM TộI Từ HAI LầN TRở LÊN"
TRONG PHáP LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Sơn La)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRƢƠNG QUANG VINH

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lý Hồng Linh


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin gửi
lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo Khoa sau đại học – Khoa Luật Trường Đại
học quốc gia Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên
cứu để hồn thành Luận văn tốt nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu,
đã giúp đỡ, tạo điều kiện và cung cấp những số liệu, tài liệu cần thiết để
nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn
sâu sắc đến PGS.TS. Trương Quan Vinh đã dành nhiều thời gian tâm huyết,
trực tiếp hướng dẫn tận tình, chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và hồn chỉnh bản Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên,

khích lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong cuộc sống cũng như
trong quá trình học tập, nghiên cứu!
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả Luận văn

Lý Hoàng Linh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÌNH TIẾT PHẠM TỘI
TỪ HAI LẦN TRỞ LÊN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM .......................................................................................... 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên ....... 9

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết phạm tội một lần ................................ 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên ................... 11
1.2.

Phân biệt khái niệm phạm tội từ hai lần trở lên với một số
khái niệm có liên quan ...................................................................... 18


1.2.1. Phạm tội từ hai lần trở lên và phạm tội liên tục .................................. 18
1.2.2. Phạm tội từ hai lần trở lên và tái phạm, tái phạm nguy hiểm ............. 19
1.2.3. Phạm tội từ hai lần trở lên và phạm tội đối với hai người trở lên ............ 22
1.2.4. Phạm tội từ hai lần trở lên và phạm tội có tính chất chun nghiệp ........ 23
1.2.5. Phạm tội từ hai lần trở lên và phạm nhiều tội ..................................... 24
1.3.

Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm
tội từ hai lần trở lên .......................................................................... 25

1.3.1. Quy định về phạm tội nhiều lần trong Bộ luật hình sự năm 1985 ........... 25
1.4.2. Quy định về phạm tội nhiều lần trong BLHS năm 1999 .................... 28
1.3.3. Quy định về phạm tội hai lần trở lên trong BLHS năm 2015 ............. 34
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 41


Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH, THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TÌNH TIẾT PHẠM TỘI TỪ 02 LẦN TRỞ
LÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN ................................................ 42
2.1.

Tình hình tội phạm và thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội từ
hai lần trở lên trên địa bàn tỉnh Sơn La ......................................... 42

2.1.1. Tình hình tội phạm .............................................................................. 42
2.1.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên đối với một
số loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Sơn La ........................................... 44
2.2.


Một số bất cập của pháp luật hình sự hiện hành quy định về
tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên ................................................. 49

2.2.1. Đối với tội phạm trộm cắp tài sản ....................................................... 49
2.2.2. Đối với tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm .................................................. 55
2.2.3. Đối với tội mua bán trái phép chất ma túy .......................................... 60
2.3.

Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tình tiết phạm
tội hai lần trở lên ............................................................................... 65

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật Hình sự

GS.TSKH:

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học

HĐTP:


Hội đồng Thẩm phán

KSND:

Kiểm sát nhân dân

PGS.TS:

Phó giáo sư, Tiến sĩ

PLHS:

Pháp luật hình sự

PTTHLTL:

Phạm tội từ hai lần trở lên

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự


TTTN:

Tình tiết tăng nặng

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:

Xã hội chủ nghãi


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Thống kê số liệu xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng
phạm tội từ hai lần trở lên từ năm 2015 đến năm 2019

75

Bảng 2.2


Thống kê số liệu xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng
phạm tội từ 02 lần trở lên từ năm 2015 đến năm 2019

78

Bảng 2.3

Thống kê số liệu tội phạm bị áp dụng tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên
(2015-2019)

78

Thống kê số liệu tội phạm bị áp dụng tình tiết định
khung hình phạt phạm tội 02 lần trở lên (2015-2019)

79

Bảng 2.4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử lập pháp nước ta đã trải qua 03 lần pháp điển hóa tại các Bộ
luật Hình sự (BLHS) năm 1985 (sửa đổi, bổ sung các năm 1989, 1991, 1992,
1997); BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2018). Theo BLHS năm 1985 và năm 1999, tình tiết “phạm tội
nhiều lần” được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự (TNHS) và là tình tiết định khung tăng nặng thuộc các chương khác

nhau trong phần các tội phạm cụ thể (khi khơng là tình tiết tăng nặng TNHS).
BLHS năm 2015, khơng có quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” mà chỉ quy
định “phạm tội từ 02 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình
tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không
là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt – Khoản 2 Điều 52), tình tiết
định khung tăng nặng tại 82 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có
02 điều luật quy định “phạm tội từ 02 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng
nặng tại khoản 3 của luật Điều 337. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước…và
Điều 382 Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối). Qua so
sánh, đối chiếu, nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy định
“phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên
trong BLHS năm 2015, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều
lần” bằng thuật ngữ “phạm tội từ 02 lần trở lên” và ghi rõ cụ thể số lần phạm
tội ngay trong điều luật. Về bản chất, 02 khái niệm này có ý nghĩa như nhau,
chỉ khác nhau về cách diễn đạt.
Theo khoa học luật hình sự, phạm tội từ 02 lần trở lên là trường hợp
có từ hai lần trở lên phạm cùng một tội cụ thể được qui định trong Bộ luật

1


Hình sự, trong đó mỗi lần phạm tội đều đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm
nhưng các lần phạm tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm tội đó được
đưa ra xét xử trong cùng một vụ án nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm
tội từ 02 lần trở lên.
Trên thực tiễn hiện nay, trong quá trình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự, nảy sinh những vướng mắc và nhận thức khác nhau, thậm chí
là xung đột giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) về việc áp dụng
tình tiết “phạm tội từ 02 lần trở lên”, đây đang là vấn đề cần thiết phải được

hướng dẫn cụ thể để thống nhất ngay về mặt nhận thức giữa các CQTHTT,
người tiến hành tố tụng (NTHTT), đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự được
chính xác, theo đúng quy định của pháp luật. Do đó việc tìm hiểu, nghiên cứu
lý luận về tình tiết tăng nặng “phạm tội từ 02 lần trở lên” trong khoa học luật
hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và
áp dụng đúng đắn quy định này trong thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận luôn phải song song với đánh giá tình hình áp
dụng trong thực tiễn. Với mong muốn đánh giá một cách chính xác, khách
quan việc áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội từ 02 lần trở lên” trong thực
tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là của Cơ
quan Tòa án trong giai đoạn xét xử tội phạm, tác giả đã lựa chọn tỉnh Sơn La
là nơi khảo sát thực tế.
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc có địa hình rất hiểm trở, bị chia
cắt bởi nhiều núi cao cùng sông Đà, sông Mã. Với 250km đường biên giới
chung với Lào, khu vực biên giới núi non trùng điệp, nhiều đường tiểu ngạch,
từ lâu, khu vực biên giới Sơn La trở thành địa điểm vô cùng thuận lợi để các
đối tượng mua bán, vận chuyển ma túy, trong đó “nóng” nhất là khu vực biên
giới của huyện Mộc Châu và Vân Hồ. Sơn La có trên dưới 1 triệu dân mà đã

2


có tới trên 18 ngàn người nghiện ma túy. Trong những năm gần đây, tỉnh Sơn
La đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nông nghiệp là chủ yếu sang khu vực
dịch vụ, công nghiệp. Kéo theo sự phát triển về kinh tế, du lịch thì tình hình
tội phạm nơi đây cũng có dấu hiệu gia tăng và đa dạng hóa các loại tội phạm,
hàng năm, các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Sơn La đưa hàng ngàn vụ án ra
xét xử. Việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội từ 02
lần trở lên” tại địa bàn tỉnh Sơn La có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần
hồn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng tỉnh tiết này trong thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên là một trong những tình tiết thường
gặp trong đời sống pháp lý, đây là tình tiết định khung tăng nặng của rất nhiều
loại tội và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, là căn cứ quan trọng để
quyết định hình phạt của tội phạm, đã được một số nhà luật học đề cập trong
các giáo trình, sách tham khảo như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 1998;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Bình luận
khoa học BLHS của Viện khoa học pháp lý, Bộ T- pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997). Giáo trình luật hình sự Việt Nam
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận
khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần
Văn Luyện, LS. Ths. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Ths. Nguyễn
Sĩ Đại, Ths. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. Một số
nhà khoa học cũng đã nghiên cứu về đề tài này như: Luận án tiến sỹ: “Các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam” của Phan

3


Thị Thu Lê, năm 2019; bài viết: Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm
và tình tiết tăng nặng TNHS của Trịnh Tiến Việt, bài viết: Các tình tiết tăng
nặng TNHS: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Trịnh Tiến Việt, Phan Thị
Thủy; Bàn về tình tiết tăng nặng TNHS "phạm tội nhiều lần" quy định trong
Luật hình sự Việt Nam của Lê Văn Luật; Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam của Bùi Kiến Quốc, luận
văn thạc sỹ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội nhiều lần theo Luật

Hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Bảo Tâm năm 2012, bài viết So sánh quy
định về các tình tiết tăng nặng trong pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật
hình sự một số nước của Phan Thị Thu Lê trên tạp chí Kiểm sát, số 22/2018...
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tình tiết phạm tội
nhiều lần ở một số khía cạnh hoặc qua các trường hợp phạm tội cụ thể, so
sánh với pháp luật nước ngồi, tuy nhiên để hệ thống hóa một cách tồn diện
theo tiến trình lập pháp nước ta về các quy định về tình tiết phạm tội nhiều lần
thì đến nay chưa được quan tâm đúng mức, mới chỉ có duy nhất một cơng
trình nghiên cứu từ năm 2012 nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội
nhiều lần qua các vụ án điển hình mà chưa đánh giá cụ thể thực tiễn áp dụng
tình tiết này tại một địa phương nào. Từ khi Bộ luật hình sự 2015 ra đời, sửa
đổi từ “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội từ 02 lần trở lên” vẫn chưa có
văn bản nào hướng dẫn, định nghĩa khái niệm thế nào là “phạm tội từ 02 lần
trở lên” để áp dụng thống nhất đối với tất cả các tội phạm được quy định
trong Bộ luật Hình sự. Do vậy, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh
tình tiết phạm tội nhiều lần cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, các quan
điểm khoa học về phạm tội và phạm tội từ hai lần trở lên; quy định về tình tiết

4


phạm tội từ hai lần trở lên trong pháp luật hình sự Việt Nam trong các BLHS
1985, 1999 và 2015, và quy định đối với một số loại tội phạm (ma túy, hiếp
dâm, trộm cắp tài sản) và việc áp dụng tình tiết này trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội
từ hai lần trở lên trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2019.

4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục tiêu tổng quát
Trong phạm vi của luận văn, tác giả mong muốn đưa ra sự nhìn nhận,
đánh giá tổng quát về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc áp dụng tình tiết
tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên trong quyết định hình phạt đối với người
phạm tội, nghiên cứu về quá trình pháp điển hóa chế định này trong lịch sử
khoa học luật Hình sự Việt Nam, đồng thời thơng qua nghiên cứu thực tiễn
việc áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên trong thực tiễn xét
xử của cơ quan Tòa án để phát hiện ra các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn
áp dụng pháp luật để từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng này trong thực tế nói chung, nâng cao
chất lượng xét xử nói riêng trên địa bàn tỉnh Sơn La.
4.2. Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, tác giả nghiên cứu làm rõ khái niệm tình tiết tăng nặng, khái
niệm, quan điểm về phạm tội nhiều lần, phạm tội từ 02 lần trở lên, ý nghĩa
của tình tiết tăng nặng nói chung và tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên nói
riêng trong việc quyết định hình phạt. Phân tích đặc điểm tình tiết phạm tội
từ 02 lần trở lên. Phân biệt khái niệm phạm tội từ 02 lần trở lên với một số
khái niệm hay nhầm lần như: Phạm tội liên tục, phạm tội đối với 2 người trở
lên, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm nhiều tội, phạm tội chun nghiệp.
Phân tích việc xác định tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên trong một số loại

5


tội hay gặp như: Mua bán trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản, chứa mại
dâm, phân tích việc xác định khi nào xác định là tình tiết tăng nặng, khi nào
là tình tiết định khung đối với các tội phạm này. Phân tích làm sáng tỏ cơ sở
lý luận của việc quy định tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên là tình tiết tăng
nặng và tình tiết định khung tăng nặng trong một số tội quy định ở Bộ luật

Hình sự Việt Nam.
Thứ hai, tác giả nêu tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Sơn La, phân
tích thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời gian 5 năm (20152019), trong đó phân tích tỷ lệ tội phạm bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm
tội nhiều lần/phạm tội từ 02 lần trở lên, các yếu tố ảnh hưởng đến việc người
phạm tội phạm tội từ 02 lần trở lên, từ đó tác giả chỉ ra hạn chế, tồn tại trong
hoạt động xét xử khi áp dụng tình tiết tăng nặng này để tìm ra những nguyên
nhân của các hạn chế, tồn tại.
Thứ ba, tác giả đưa ra một số kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần hồn thiện các quy định về tình tiết tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở
lên để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân cũng như hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử, so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
chính sách hình sự, về vấn đề tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung, tình
tiết phạm tội từ 02 lần trở lên nói riêng, thực trạng áp dụng tình tiết tăng nặng
phạm tội từ 02 lần trở lên trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên
cứu trong luận văn. Bên cạnh đó, luận văn vận dụng các thành tựu nghiên cứu
khoa học, những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, bài viết
của các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong luận văn.

6


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội từ 02 lần trở lên là
một trong những tình tiết thường xuyên áp dụng trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Phạm tội từ 02 lần trở

lên là một khái niệm tương đối phức tạp. Về mặt lý luận chưa có định nghĩa
chính thức nào về “phạm tội từ 02 lần trở lên”, các nhà nghiên cứu thường
dựa trên các loại tội riêng biệt được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn
riêng về tình tiết phạm tội nhiều lần/phạm tội từ 02 lần trở lên, do đó rất dễ
dẫn đến tình trạng áp dụng sai tình tiết này. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS
năm 1999 và 2015, tuy nhiên số cơng trình nghiên cứu riêng rẽ về tình tiết
phạm tội từ 02 lần trở lên thì hầu như chưa có, chỉ tập trung chủ yếu ở các bài
viết mang tính chất trao đổi, thảo luận, nghiên cứu tình tiết phạm tội nhiều
lần/phạm tội từ 02 lần trở lên ở một số khía cạnh hoặc qua các trường hợp
phạm tội cụ thể, so sánh với pháp luật nước ngồi. Do đó, đề tài Tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần và thực tiễn áp dụng tại địa bàn
tỉnh Sơn La sẽ là cơng trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống hóa một cách tương
đối tồn diện theo tiến trình lập pháp nước ta về các quy định về tình tiết
phạm tội từ 02 lần trở lên, nghiên cứu, phân tích đánh giá cụ thể thực tiễn áp
dụng tình tiết này tại tỉnh Sơn La thơng qua tình hình xét xử của Tòa án nhân
dân 2 cấp tại địa phương.
Luận văn có thể góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện
áp dụng cụ thể của tình tiết tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên trong thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, tại
địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về hành vi phạm tội nhiều lần ở khía cạnh lập pháp và
việc áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt góp phần phân loại tội phạm, cá thể hóa

7


và phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, tăng cường hiệu quả công tác
đấu tranh chống tội phạm nhằm phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn, luận
văn có thể kiến nghị đưa tình tiết tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên thành

tình tiết định khung của một số loại tội phạm hoặc không áp dụng tình tiết
phạm tội từ 02 lần trở lên đối với một số tội trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
7. Bố cục các chƣơng của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên
trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn á dụng tình tiết
phạm tội từ 2 lần trở lên trên địa bàn tỉnh Sơn La và một số kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÌNH TIẾT PHẠM TỘI TỪ HAI LẦN
TRỞ LÊN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết phạm tội một lần
Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật
hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai
cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự của mỗi
quốc gia.
Tội phạm theo luật hình sự phải là hành vi của con người. Những tư
tưởng, ý định hay suy nghĩ của con người dù có sai lệch đến đâu cũng khơng
thể là tội phạm vì chúng không thể gây nguy hại cho xã hội. Chỉ qua hành vi
của mình, con người mới có thể gây ra sự gây hại cho xã hội. Khẳng định
“Tội phạm là hành vi…” là sự xác nhận một nguyên tắc của pháp luật nói
chung và của luật hình sự nói riêng là nguyên tắc hành vi, và sự xác nhận này
chính là một trong những đảm bảo cho con người không bị truy bức về tư

tưởng hay định kiến. Về vấn đề này, Các Mác đã viết: “Ngồi hành vi của
mình ra, tơi hồn tồn khơng tơn tại đối với pháp luật, hồn tồn khơng phải
là đối tượng của pháp luật”. Từ quy định tội phạm là hành vi cũng như nhận
xét trên đây của Các Mác thì khơng được phép truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với những ý định hay khuynh hướng tư tưởng của con người nếu như
khuynh hướng, ý định đó chưa thể hiện ra bên ngồi bằng hành vi. [51]
Theo Điều 8 BLHS năm 2015, hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm nếu hành vi ấy được quy định trong BLHS (được quy định tại Phần các
tội phạm của BLHS). Như vậy “được quy định trong BLHS” là đặc điểm địi
hỏi phải có những hành vi được coi là tội phạm. Theo đặc điểm này, hành vi

9


nguy hiểm cho xã hội nhưng nếu không hay chưa được quy định trong BLHS
thì khơng phải là tội phạm. Cần chú ý đặc điểm này, khi truy cứu trách nhiệm
hình sự hành vi của người nào đó cần phải xác định hành vi ấy đã được quy
định là tội phạm trong BLHS. Được quy định trong luật là đặc điểm về hình
thức pháp lý của tội phạm, là sự thừa nhận một trong những nguyên tắc được
thừa nhận chung của luật hình sự quốc tế và đã được ghi nhận trong Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp Quốc: “Không ai bị cáo
buộc là tội phạm vì bất cứ hành động hoặc sự khơng hành động nào mà khơng
cấu thành một tội phạm hình sự, theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc
tế, vào thời điểm thực hiện…” (khoản 2 Điều 11). Khẳng định tội phạm là
hành vi được quy định trong BLHS không những là cơ sở pháp lý đảm bảo
cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm được thống nhất mà còn là cơ sở
pháp lý đảm bảo cho công dân không bị xử lý tùy tiện, thiếu căn cứ pháp luật
trong thực tiễn. [51]
- Phạm tội: Phạm tội là hành động thực hiện tội phạm. Có nghĩa là
phạm tội là hành vi có dấu hiệu của tội phạm phải qua điều tra, truy tố, xét xử

mới xác định được hành vi phạm tội đó có phải là tội phạm khơng. Khơng
phải mọi hành vi phạm tội đều là tội phạm. Chẳng hạn, khi chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội là người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự thì hành vi
phạm tội đó khơng bị coi là tội phạm. [52]
+ Xét về tính chất, hành vi phạm tội là hành vi có tính gây thiệt hại
đáng kể cho xã hội, có lỗi và được quy định trong Luật hình sự.
+ Xét về cấu trúc, hành vi phạm tội đòi hỏi có những dấu hiệu sau:
1) Chủ thể thực hiện phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng như phải thoả mãn các dấu hiệu đặc
biệt khác (dấu hiệu chủ thể đặc biệt) nếu cấu thành tội phạm đòi hỏi;
2) Về mặt khách quan, chủ thể phải có hành động hoặc không hành

10


động thỏa mãn các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm (hành vi, hậu
quả, quan hệ nhân quả, đối tượng tác động...),
3) Về mặt chủ quan, chủ thể phải có lỗi, cố ý hoặc vơ ý tuỳ từng cấu
thành tội phạm cũng như chủ thể phải có động cơ, mục đích nhất định nếu cấu
thành tội phạm địi hỏi. [53]
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên
1.1.2.1. Khái niệm tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên
Trong khoa học luật Hình sự hiện nay, các nhà khoa học chủ yếu
nghiên cứu chế định phạm tội từ 02 lần trở lên qua việc nghiên cứu chế định
đa tội phạm.
Phạm tội 02 lần trở lên là một trong các dạng của chế định đa tội phạm.
Do đó trước khi tìm hiểu về chế định này, chúng ta cần hiểu về chế định đa tội
phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam khi nghiên cứu về chế định đa
tội phạm giữa các nhà nghiên cứu tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có thể
kể đến một số quan điểm khác nhau như sau:

Quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh:
Chế định đa tội phạm là một chế định của luật hình sự cần bao hàm
tất cả những trường hợp khi một người thực hiện một số tội phạm
với điều kiện nếu như đối với các tội này người đó vẫn chưa hết án
tích hoặc thời hiệu truy tố về hình sự [50, tr.19].
Quan điểm của PGS.TS Lê Văn Đệ:
Nhiều tội phạm là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên,
không phụ thuộc vào việc người đó đã bị xét xử về các tội đã phạm
hay chưa; các tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự và khơng có những trở ngại về mặt tố tụng hình sự để khởi tố vụ
án hình sự [6, tr.16].

11


Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm:
Nhiều (đa) tội phạm là một chế định độc lập của luật hình sự Việt
Nam bao gồm bốn dạng (trường hợp): (1) phạm tội nhiều lần; (2)
phạm nhiều tội; (3) tái phạm; (4) phạm tội có tính chất chun
nghiệp, mà trong những điều kiện như nhau nếu so sánh với tội đơn
nhất thì các dạng này thường cho thấy tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm được thực hiện, cũng như
của nhân thân người phạm tội [3, tr. 6].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì “phạm tội 02 lần trở lên”
là thực hiện một tội phạm mà trước đó chủ thể đã phạm tội đó ít nhất một lần
và chưa bị xét xử. Trong trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, người phạm
tội bị coi là phạm một tội cụ thể nhiều lần. Các hành vi phạm tội và hậu quả
của các hành vi đó trong các lần phạm tội có tính độc lập với nhau.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì
cho rằng:

Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội phạm mà trước đó
người phạm tội đã phạm tội này ít nhất là một lần và chưa bị xét
xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lặp lại tội đã
phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình
thường [10, tr.72]
Dưới góc độ khoa học luật hình sự chúng ta thấy có hai quan điểm về
khái niệm phạm tội nhiều lần. Một là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai
lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng
một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật hình sự, đồng thời
với những tội ấy vẫn cịn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người
phạm tội vẫn chưa bị xét xử [4, tr.93-94]. Hai là: Phạm tội nhiều lần là phạm
tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

12


ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu
thành một tội phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong
cùng một bản án. Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện
hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm phạm đến
cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử… [29, tr.2].
Về mặt pháp lý, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tình tiết “Phạm tội
02 lần trở lên” được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không được
coi là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt – khoản 2 Điều 52). Trong
phần các tội phạm, tình tiết này được quy định là tình tiết định khung tăng
nặng tại 80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có 02 điều luật quy
định “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3
Điều 337 (Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước…) và khoản 3 Điều 382 (Tội cung
cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối). Sau khi BLHS năm 2015 ban

hành, có hiệu lực và được áp dụng thực hiện trong tồn quốc, vẫn chưa có văn
bản nào hướng dẫn, định nghĩa về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên, do đó, các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các quy định hướng dẫn của BLHS năm
1999 để áp dụng cho BLHS 2015, trong đó tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên
được áp dụng tương tự như quy định đối với tình tiết phạm tội nhiều lần.
Tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật như: Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTV-BNV,
Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP TANDTC; Mục 4 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP,
Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS thì:
... tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 133,
khoản 2 Điều 134a... (đối với một số tội phạm có tính chất tham

13


nhũng và tội phạm liên quan đến tình dục) được hiểu là đã có tất cả
từ hai lần phạm tội đó trở lên (hai lần phạm tội tham ơ trở lên, hai
lần phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài
sản XHCN trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu
thành quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong các
lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường
hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá
trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại, nếu điều luật có quy định
về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản.
Tại Tiểu mục 2.3, Mục 2, Phần I Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT/BCA TANDTC-VKSNDTC-BTP, ngày 24/12/2007 của Bộ Cơng an – Tịa án nhân
dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp hướng dẫn áp

dụng một số quy định tại Chương XVIII các “Tội phạm về ma túy” của Bộ
luật hình sự năm 1999, thì:
Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại khoản 2 các điều 193,
194, 195, 196, 197, 198, 200 và 201 của BLHS được hiểu là đã có
từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở
lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên, hai lần bán trái
phép chất ma túy trở lên…) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời
trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu điều luật
có quy định về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt.
Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp việc sử

14


dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng
trái phép chất ma túy đối với một người từ hai lần trở lên cũng bị
coi là phạm tội nhiều lần.
Theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật hình sự, thì, tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 254 của BLHS năm 1999 được hướng dẫn như sau:
4.1. Chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần" đối với người chứa
mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa
điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ
hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân

biệt thời gian dài hay ngắn);
b. Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau
trong cùng một khoảng thời gian;
c. Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên
trong các khoảng thời gian khác nhau.
4.2. Không coi là phạm tội nhiều lần trong các trường hợp sau đây:
a. Chứa mại dâm một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời gian
liên tục;
b. Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm) cùng đến mua bán dâm,
nhưng chỉ một người trong số họ hoặc một số người trong số họ
hoặc tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao dịch với người
chứa mại dâm để trả tiền thuê địa điểm, phương tiện một lần và việc
mua bán dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời gian.
Tổng hợp các quan điểm trên và từ thực tiễn xét xử, theo quan điểm của
tác giả tình tiết "Phạm tội nhiều lần - Phạm tội 02 lần trở lên" có thể được
hiểu như sau:

15


i). Người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác
động đến cùng một đối tượng, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp,
mà mỗi hành vi ấy đã có đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập (cùng
là hành vi trộm cắp, hiếp dâm, lừa đảo...).
ii). Khi xét xử, các hành vi đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử hoặc bị xử lý bằng các hình
thức khác (đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra...).
iii). Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản
thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của
các lần phạm tội cộng lại.

Văn bản số 64/TANDTC-PC ngày 3/4/2019 của Hội đồng Thẩm phán,
Tòa án nhân dân Tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số
vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính thì:
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi
phạm tội xâm phạm sở hữu (ví dụ: nhiều lần phạm tội trộm cắp tài
sản), mà tổng trị giá tài sản của các lần phạm tội thỏa mãn dấu hiệu
định khung tăng nặng, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, thì ngồi việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá
tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản
1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng
Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16
tuổi của Bộ luật Hình sự:
Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm e khoản 2 Điều 150 và
điểm e khoản 2 Điều 151 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người

16


phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội mua bán người hoặc mua bán
người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, mặc dù chưa có văn bản chính thức về khái niệm thế nào là
“phạm tội 02 lần trở lên” có thể hiểu “phạm tội 02 lần trở lên” là người thực
hiện tội phạm đã phạm cùng một tội từ 02 lần trở lên, mà nếu tách riêng mỗi
lần đó thì đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1
(khung cơ bản) của Điều luật đó (tội phạm đó) và chưa lần nào bị đưa ra xét
xử, được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình

phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình phạt.
1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên
Từ khái niệm nói trên tình tiết phạm tội từ hai lần trở lên có những đặc
điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất: là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm do người
phạm tội thực hiện từ hai lần trở lên. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi
gây thiệt hại cho xã hội hoặc đe dọa gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã
hội như: xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng,
an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa được quy định ở các điều luật cụ thể thuộc phần
các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Thứ hai: là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mỗi lần thực hiện đã có
đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể. Đây là một đặc điểm
quan trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm hay khơng. Nếu hành vi khơng có
đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể thì khơng thể xác định
được đó là tình tiết phạm tội hai lần trở lên.

17


×